Post - Lazytrick - Limited Size Memory Of Mind

Tiếp theo loạt bài về ASN.1, bài này sẽ “dịch” tài liệu của anh Isida So nói về cú pháp cơ bản của ASN.1. Việc đầu tiên khi ứng dụng ASN.1 hoặc thiết kế một giao thức mới là viết định nghĩa cho các kiểu dữ liệu có thể được sử dụng. ASN.1 là một ngôn ngữ vì thế, cũng giống với C, nó có các kiểu cơ bản và các cơ chế cho phép mở rộng để định nghĩa thêm các kiểu mới.Mình thấy ASN.1 khá quan trọng nhất là trong thiết kế giao thức trao đổi dữ liệu giữa các thiết bị tính toán, đặc biệt là các thiết bị tài nguyên nhỏ. Google tiếng Việt thấy khá ít thông tin về ASN.1. Mình dự định sẽ tìm hiểu thêm một chút về ASN.1 và làm loại bài viết về nó. Nội dung bài này sẽ giới thiệu sơ qua về ASN.Đây là một chủ đề hay, có rất nhiều resource bằng tiếng Việt khá dễ hiểu rồi. Bài này chỉ mô tả ngắn gọn một chút cùng với vài ví dụ thực nghiệm để hiểu các khái niệm về cơ bản về Data Structure Aligment. Giả sử ta có một cấu trúc sau: #include <stdint.h> typedef struct { uin8_t mem1; uin8_t mem2; uin32_t mem3; }ST_FOOL_1; typedef struct { uin8_t mem1; uin8_t mem2; uin8_t mem3; uin8_t mem4; uin8_t mem5; }ST_FOOL_2; Cấu trúc ST_FOOL_1 sẽ được miêu tả trong 6 byte?Trong bài số 02, ta đã nói đến những việc mà GDB có thể giúp chúng ta. Về cơ bản GDB, có thể chạy để debug mọi chương trình, tuy nhiên nếu không muốn càng debug càng rối thì ta nên sử dụng tham số -g khi biên dịch để giúp quá trình debug xác định được vị trí mỗi đoạn binary trong source ban đầu. 0. Source code Trong bài này, ta hãy cùng xem cách sử dụng thực tế sẽ như thế nào.Khi sử dụng GDB để debug 1 chương trình thì chương trình đó gọi là target program. Khi nói về vị trí của GDB dùng để debug và target program, ta sẽ có 2 cách trường hợp sử dụng sau: GDB và target program cùng ở 1 máy : Thường sử dụng với chính các chương trình được dev, rồi build, rồi chạy trên máy đó. Đây là trường hợp chúng ta hay thấy nhất, đó là khi phát triển các app desktop.Trước khi nói về chủ đề chính là “GDB có thể làm gì”. GDB hay những phần mềm như GDB được viết ra để giải quyết vấn đề gì. 1. Phầm mềm Debugger sinh ra giải quyết cái gì? Phần mềm thực sự được tạo ra ở bước implementation, nó hiện thực những nội dung được mô tả trong thiết kế. Vì con người viết code tạo ra phần mềm, mà con người không phải lúc nào cũng luôn làm đúng như những gì họ đã nghĩ, đã ý định, đã thiết kế.Đợt này ngồi Unit Test nhiều quá, mệt!!!. Mà đã mệt, sinh ra chán để tiếp tục được thì nhất phải có gì hay ho thỉnh thoảng ngó sang tí cho đỡ chán. それはアカン!!!! Cách đặt mục tiêu để viết, dịch khá hiệu quả đối với “siêu lười” như mình, loạt về USB Basic dù nội dung chắc nhiều lỗi những ít ra nó cũng hoàn thành. Vâng, mục tiêu lần này sẽ viết một loạt bài về cách sử dụng GDB (GNU Debugger) từ cài đặt, cách sử dụng dòng lệnh đến các IDE (Eclipse hoặc VS Studio).AWK : 1 trong 3 tool (cùng với grep và sed) mạnh dùng xử lý chuỗi, xuất hiện ban đầu ở Unix, và được mặc định có trong bất cứ bản phân phối Linux nào. Sau một hồi tìm hiểu awk trên TutorialPoint. awk là một một tool để xử lý một chuỗi, đầu vào có thể là file, là output của một câu lệnh khác. Đơn vị xử lý là dòng, tức là nó đọc vào từng dòng text từ dữ liệu đầu vào rồi thực hiện các xử lý tương ứng.Để các kernel module sử dụng được các firmware thì cần 2 điều kiện sau: Khi kernel được build, các tham số sau phải được bật (ENABLE) CONFIG_FW_LOADER : Cho phép load firmware CONFIG_EXTRA_FIRMWARE > CONFIG_EXTRA_FIRMWARE_DIR : Đường dẫn chưa các firmware. Các firmware phải được copy vào thư mục CONFIG_EXTRA_FIRMWARE_DIR đã set ở trên. Một số điều lưu ý liên quan đến firmware: Các firmware là binary(closed source) được cung cấp từ các nhà sản xuất thiết bị,Patch, hay người ta vẫn gọi là các bản vá, víu gì đó. Cũng thấy khái niệm này từ lâu rồi. Nhưng chưa bao giờ phát sinh nhu cầu sử dụng vì đa số các dự án mình từng làm đều dùng Server SVN tập trung. Mọi thay đổi đều có quản lý chặt chẽ, cũng ít khi rẽ quá nhiều nhánh (branch). Gần đây, bắt buộc phải nghĩ đến việc sử dụng 2 tool này vì phải update source trên máy thật (một board mạch) chỉ hỗ trợ truyền Serial.Gần đây, khi tìm hiểu cách cài đặt driver cho USB Wifi, mình có tìm hiểu thêm về quá trình tạo nhân Linux. Đặc biệt, việc thiết lập cấu hình trước khi build tạo ảnh của kernel. Mình thấy ngoài Driver, tức là thành phần trung gian giữa ứng dụng và phần cứng, còn có 1 khái niệm nữa. Đó là Firmware. Bài này sẽ dịch lại trang, để hiểu qua về Firmware trong Linux Kernel.Trong quá trình tìm cách cài đặt driver cho bản build Raspberry PI sử dụng Yocto, mình có tìm hiểu driver trong Linux và tìm được cuốn sách Linux in A Nutshell (link tại đây ) của pro này. Chương 7, chương mà tác giả đặc biệt “tự hào”, nói về Customize một Linux Kernel. Trong chương này, tác giả cũng nói đến việc xác định các driver đang được sử dụng trên hệ thống hiện tại.Trong loại bài dịch trước đây nói về USB, tôi có nhắc một chút đến việc load đúng driver thì phía Host làm thế nào? Như ta đã biết, khi một thiết bị USB được cắm vào máy (Host), phía Host sẽ thực hiện một loạt thao tác từ xác định nguồn (bus, hay self), lấy thông tin tốc độ, các thông tin về descriptor (thiết bị, giao diện, các Endpoint).Như ta đã làm trong bài trước, sau khi thực hiện việc setup các biến môi trường bằng lệnh source, ta thực hiện build tạo image có có tên là rpi-basic-image thông qua lệnh: $bitbake rpi-basic-image Thực ra còn 2 image khác ta có thể build đó là rpi-hwup-image rpi-test-image. Ta có thể thấy 2 file bb cho 2 image ở thư mục meta-raspberrypi/recipes-core/images/. rpi-hwup-image : là image nhỏ nhất (có dịp sẽ thử)Để tiếp tục customize bản OS được build trong bài trước. Hôm nay ta sẽ thực hiện một nhiệm nhỏ. Đó là thiết lập một IP cho bản build. Tức là ta sẽ thiết lập 1 IP mặc định được gán cho Raspberry PI khi nó được khởi động bằng bản build của chúng ta. Như thường lệ ta cần thiết lập các biến môi trường trước khi định thực hiện bất cứ thay đổi nào trên bản build.Ta đã nói đến việc build một bản phân phối Linux cho Raspberry PI ở bài Tạo một bản phân phối Linux cho Raspberry PI bằng Yocto Project. Một trong những giao thức truy cập file phổ biến nhất hiên nay là SMB, vốn ban đầu được hỗ trợ trên các máy Windows, dùng cho giao thức chia sẻ file trong mạng nội bộ. Trên Linux, để tạo một server như thế, người ta dùng Samba (cái tên cũng na ná nhỉ).Gần đây, có thấy trên Board mạch phát triển của mình có xuất hiện 1 process là ubifs. Qua tìm hiểu mới biết rằng, em nó là UBIFS, được phát triển năm 2007 bởi Nokia với sự giúp đỡ của University of Szeged, Hungary. Bắt đầu được đưa vào mainline của Linux 2.6.27 năm 2008. Hỏi thấy GG thấy được 1 bài giới thiệu chung về hệ thống file cho thiết bị nhớ Flash của anh Le Dinh Thao trên blog kithuatmaytinh.Khái niệm Cross-compiling là rất phổ biến khi phát triển các hệ thống nhúng. Với người mới, hiểu rõ khái niệm là rất quan trọng. Bài này sẽ cố gắng phân biệt 3 khái niệm về môi trường. Đó là Host Enviroment, Build Enviroment, và Target Enviroment. Có thể dịch nôm na là Môi trường chủ, Môi trường biên dịch, và Môi trường chạy đích. Vì có thể dẫn đến hiểu nhầm hoặc không rõ nghĩa nên chúng ta nên sử dụng trực tiếp thì hơn.Ban đầu, dự định sẽ tạo một NAS server theo link tham khảo bên dưới. Nhưng thấy ta nên tách riêng phần tạo bản phân phối Linux thành 1 bài riêng, rồi viết các nội dung liên quan đến customize thành các bài khác sẽ dễ hiểu hơn. Hơn nữa, phần tạo bản build basic sẽ cần được thảo luận kĩ hơn do có thể phát sinh nhiều vấn đề. Mà nếu không giải quyết được các vấn đề đó thì nội dung các bài khác sẽ không thể thực hiện được.Mỗi thiết bị USB phải trả lời các gói tin Setup (Setup packets) trên Endpoint mặc định (Endpoint Zero). Các gói tin Setup được sử dụng cho việc phát hiện thiết bị, cấu hình, cũng như lấy các thông tin khác như các thông tin về chức năng, địa chỉ thiết bị, kiểm tra trạng thái các Endpoint. Chuẩn USB yêu cầu Host sẽ mon muốn về mặt thời gian từ phát hiện đến lấy đầy đủ các thông tin trên trong vòng không quá 5 giây.« 3/6 »

Bài viết gần đây

  • Vấn đề tốn bộ nhờ (Memory) và CPU khi export file bằng Apache POI
  • Tạo QRCode App bằng ChatGPT
  • ChatGPT là gì? Tại sao Developer nên lo lắng
  • OpenGL là gì?
  • File locking trong linux
  • Sử dụng lệnh screen cơ bản
  • Cảm nhận về zsh sau 1 tháng sử dụng basic
  • Vài chú ý khi setup mail server
  • Chuyển HTML thành PDF cơ bản
  • Giải thích log của lệnh sendmail

Chủ đề

  • ai
  • Basic
  • Buildroot
  • cmd
  • CodeSkill
  • Communication
  • Compile
  • computer_graphic
  • Debug
  • Driver
  • Embedded
  • Firmware
  • fixproblem
  • IoT
  • ITS
  • Js
  • Khác
  • learningnew
  • llm
  • Machine Learning
  • Microcontroller
  • Network
  • OpenEmbbeded
  • opengl
  • OpenSource
  • Python
  • RTOS
  • Security
  • simpleqr
  • thread
  • USB
  • YoctoProject

Thẻ

3D AES Aligment apache poi Asm ASN1 Assembly avx Bash Beyondlogic Bitbake busybox C Casting CER chatgpt Cmake cmd Command Compiler CourserA CrossCompile DER Deserialization developer device file DigitalSignal Distro Draft Driver Editor Embbeded Error excel FAT filelock FileSystem Firmware FIT Flash GCC GDB glfw glu HelloWorld HID html2pdf I2C Installation ITRON java Kernel Library Linker Linking Linux LinuxImage Loader locking log mailserver Make mqtt Nodejs ObjectFile Open opengl pdf PER Pickle Pointer Porting pthread python qemu qrcode rails RaspberryPI Recipe Renesas RGB rootfs ror RT2870 ruby Samba screen script SCSI sendmail Serialization SMB SPI StaticIP systemd tensorflow thread Translate UART udev Unix USB USBDescriptor USBMemory VGA Vim WifiUSB Wireshark zsh

Từ khóa » Vị Trí Mặc định Của Sendmail Binary Là ở đâu