PPS – Wikipedia Tiếng Việt
| PPS-43 | |
|---|---|
| Loại | Súng tiểu liên |
| Nơi chế tạo | |
| Lược sử hoạt động | |
| Phục vụ | 1942 – nay |
| Sử dụng bởi | Xem Các quốc gia sử dụng |
| Trận | Chiến tranh thế giới thứ haiChiến tranh Triều TiênChiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt NamChiến tranh Việt Nam - CampuchiaChiến tranh LạnhChiến tranh Afghanistan (1978–1992)Chiến tranh Afghanistan (2001-nay)Nội chiến LàoCách mạng CubaChiến tranh Mùa ĐôngChiến tranh IraqChiến tranh Liên Xô-Phần LanChiến tranh biên giới Lào-Thái LanChiến tranh Trung-Nhật Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ haiNội chiến Trung QuốcQuốc-Cộng nội chiến lần thứ haiNội chiến YemenChiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979Mặt trận Phần Lan (Chiến tranh Xô-Đức)Nội chiến CampuchiaCuộc tấn công của Nga vào Ukraina 2022 |
| Lược sử chế tạo | |
| Người thiết kế | A. I. Sudayev và I.K. Bezruchko-Vysotsky[1] |
| Năm thiết kế | 1942 |
| Giai đoạn sản xuất | 1942–1968 tại (Liên Xô) 1946-1970 (Ba Lan) |
| Số lượng chế tạo | Khoảng 2 triệu khẩu (chỉ tính Liên Xô) |
| Các biến thể | PPS-42, PPS-43, PPD-40, M/44, PPS wz. 1943/1952, Kiểu 54, K50M. |
| Thông số | |
| Khối lượng | |
| Chiều dài | PPS-42: 907 mm báng mở / 641 mm báng gấp PPS-43: 820 mm báng mở / 615 mm báng gấp |
| Độ dài nòng | PPS-42: 273 mmPPS-43: 243 mm |
| Đạn | 7.62×25mm Tokarev |
| Cơ cấu hoạt động | Nạp đạn bằng phản lực bắn, khóa nòng mở |
| Tốc độ bắn | 600 - 900 phát/phút |
| Sơ tốc đầu nòng | Khoảng 500 m/giây |
| Tầm bắn hiệu quả | 200 mét |
| Chế độ nạp | Hộp tiếp đạn cong 35 viên |
| Ngắm bắn | Điểm ruồi |
PPS (tiếng Nga: ППС, Пистолет-пулемёт Судаева, Pistolet-pulemjot Sudaeva) là loại súng tiểu liên do Aleksey I. Sudayev phát triển sử dụng loại đạn 7.62x25mm Tokarev. Đây là loại vũ khí được chế tạo với tiêu chí rẻ, dễ chế tạo và bền để viện trợ và trang bị cho các lực lượng trinh sát, các tổ lái và lực lượng hậu cần.[2]
Hai mẫu chính của loại súng này là PPS-42 và PPS-43 được sử dụng rất nhiều bởi Hồng quân trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai bên canh một mẫu súng tiểu liên nổi tiếng khác là PPSh-41 của nhà thiết kế Georgy S. Shpagin, sau đó cùng với các phiên bản khác loại súng này được sử dụng rộng rãi trong tất cả các nước thuộc Khối Warszawa cũng như nhiều nước châu Phi và châu Á.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]PPS được chế tạo để đáp ứng với nhu cầu của Hồng quân về một loại vũ khí gọn nhẹ, dễ chế tạo và rẻ nhưng vẫn có độ chính xác và hỏa lực tương tự như khẩu PPSh-41 đang được sử dụng rất nhiều khi đó. Trong giai đoạn thiết kế thì việc đơn giản hóa quá trình sản xuất và đơn giản hóa vật liệu sản xuất đã được nhấn mạnh. Từ đó, nhà máy có thể loại bỏ phân nửa các giai đoạn gia công, thời gian sản xuất được giảm xuống đáng kể.[2]
Sudayev nhận lệnh từ Ủy ban Nhà nước về Vũ khí để hoàn thiện nhằm phục vụ sản xuất hàng loạt thiết kế súng tiểu liên của Trung úy I.K. Bezruchko-Vysotsky thuộc Học viện Pháo binh Dzerzhinsky. Trung úy này đã chế tạo hai nguyên mẫu vào năm 1942; nguyên mẫu thứ hai chính là cơ sở để Sudayev phát triển khẩu súng của mình.[1]
Các linh kiện của súng hầu hết được làm bằng thép cán. Việc này đã làm giảm một lượng lớn chi phí và thời gian gia công so với việc chế tạo khẩu PPSh-41. Nguyên liệu thép sử dụng để chế tạo đã giảm 50% so với PPSh-41, và cần ít công nhân hơn để sản xuất và lắp ráp các bộ phận.
Mẫu thử nghiệm đầu được hoàn thành năm 1942 và nó đã được thông qua với cái tên PPS-42 và được chế tạo với số lượng nhỏ khoảng 45.000 khẩu, việc sản xuất hàng loạt chỉ được tiến hành khi mẫu PPS-43 với việc tối ưu hóa các công đoạn sản xuất được thông qua đầu năm 1943. Nhờ những cải tiến để tăng hiệu quả sản xuất, các nhà hoạch định Liên Xô ước tính rằng loại súng tiểu liên mới sẽ cho phép tăng sản lượng súng tiểu liên hàng tháng từ 135.000 khẩu lên 350.000 khẩu.[3] Đến cuối chiến tranh, khoảng 2 triệu khẩu PPS đã được sản xuất.
Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]PPS sử dụng cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn với khóa nòng mở. Nút khóa an toàn nằm trước vòng bảo vệ cò súng khi sử dụng nó sẽ khóa cố định cò súng không cho di chuyển cũng như toàn bộ bộ khóa nòng sẽ bị vô hiệu hóa. Nút kéo lên đạn nằm ở phía tay phải của súng. Hầu hết các chi tiết của súng đều được làm từ thép ép. Nòng súng với bốn rãnh xoắn được mạ chrome để tránh bị ăn mòn cũng như được tích hợp bộ phận chống giật. Khi bắn, vỏ đạn sẽ được đẩy ra phía bên trên súng.
Trong thiết kế của mình, Sudayev đã thiết kế súng với dáng súng cải tiến và báng gấp kiểu lật để xạ thủ có thể cầm và ngắm bắn thoải mái hơn so với PPSh-41.
PPS sử dụng loại đạn 7.62×25mm Tokarev với hộp tiếp đạn cong 35 viên. Hệ thống nhắm cơ bản của loại súng này là điểm ruồi có tầm nhắm hiệu quả từ 100m đến 200m. Nó không có bất cứ loại tay cầm phía trước nào vì hộp tiếp đạn đã được thiết kế để đảm nhận luôn vai trò này.
Các phiên bản
[sửa | sửa mã nguồn]Liên Xô đã trao bản quyền chế tạo cho Ba Lan[4] và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.[2] Ba Lan đã chế tạo nhiều phiên bản khác nhau sử dụng loại đạn có vành 5.6×15mmR cũng như sử dụng báng súng gỗ cố định. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì chế tạo mẫu súng với tên Kiểu 54 (Type 54).
Phần Lan cũng chế tạo khẩu M/44 dựa trên các khẩu súng thu được trong cuộc Chiến tranh Liên Xô - Phần Lan (1941 - 1944) sử dụng loại đạn 9×19mm Parabellum. Tây Đức cũng đã thông qua việc mua các khẩu DUX-53 và DUX-59 do Tây Ban Nha sản xuất sao chép từ khẩu M/44. Hungary đã thử kết hợp các thiết kế của PPSh-41 và PPS nhưng không được thành công với khẩu M53.[2]
Tại Việt Nam, PPS-43 có tên gọi K-67 và được đưa vào sử dụng trong giai đoạn cuối của cuộc Kháng chiến chống Pháp. Khẩu K-50M mà Việt Nam tự chế tạo cũng sử dụng kết hợp các thiết kế cải tiến của PPS. Hiện nay, PPS-43 đã bị loại biên hoàn toàn khỏi biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam nhưng vẫn còn có mặt trong một số kho vũ khí của lực lượng Dân quân tự vệ.
Vào năm 2010, Ba Lan đã chế tạo mẫu bán tự động của PPS để bán cho thị trường dân sự.
Các quốc gia sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]
Liên Xô: Nơi sản xuất ra súng tiểu liên PPS và sử dụng rất nhiều bởi Hồng quân Liên Xô trong Thế Chiến II chống Phát xít Đức và Đạo quân Quan Đông.[5]
Algérie[6]
Belarus: Vào đầu những năm 1990, PPS-43 vẫn được lưu kho. Cùng lúc đó, súng tiểu liên dùng cỡ đạn 9x19 mm của nước ngoài đã được quân nhân và Bộ Nội vụ thử nghiệm, tuy nhiên, theo kết quả thử nghiệm, người ta thấy rằng súng ngắn tự động APS và súng tiểu liên PPS-43 đang được cất giữ vượt trội hơn so với súng tiểu liên 9x19 mm của nước ngoài . Súng tiểu liên Jatimatic , cũng như súng tiểu liên nhỏ gọn của các hệ thống khác (Ingram và Mini Uzi).[7]
Trung Quốc: Type 54.[8]
Cuba: PPS Ba Lan wz. 1943/1952 do dân quân sử dụng.[9]
Estonia: Được quân du kích Estonia sử dụng sau Thế chiến II.[10]
Phần Lan: Thu được từ Liên Xô và tạo ra bản sao của riêng họ, súng tiểu liên KP m/44.[5][11]
Georgia[12]
Grenada[13]
Bờ Biển Ngà[14]
Lào[15]
Liberia[16]
Đức Quốc xã: Tịch thu từ Hồng quân Liên Xô.[17]
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Sử dụng cả súng tiểu liên PPS của Liên Xô và Type 54 của Trung Quốc.[18]
Ba Lan: Được giới thiệu vào năm 1943 trong Quân đội Nhân dân Ba Lan . Từ năm 1946 được sản xuất dưới tên PPS wz 43.[19]
São Tomé và Príncipe[20]
Hàn Quốc: Tịch thu từ phía Triều Tiên lẫn phía Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên.[21]
Sierra Leone[22]
Ukraine: Hàng nghìn người được cho là đã bị Tập đoàn Wagner bắt giữ từ kho lưu trữ của Ukraine ở Soledar[23]
Việt Nam
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Được sử dụng bởi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam.[24]
Nam Tư
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Нацваладзе, Юрий Александрович (1997). "ППС-43". Ружье: Оружие и амуниция (bằng tiếng Nga). Số 2.
- ^ a b c d Woźniak, Ryszard, biên tập (2001). Encyklopedia najnowszej broni palnej—tom 3 M-P [Encyclopedia of the Latest Firearms – Vol.3 M-P] (bằng tiếng Ba Lan). Warszawa: Bellona. tr. 272. ISBN 978-8-31109-311-9.
- ^ Болотин, Давид (1995). История советского стрелкового оружия и патронов [History of Soviet Small Arms and Ammunition] (bằng tiếng Nga). Полигон. tr. 119–120. ISBN 5-85503-072-5.
- ^ "Eksponat marca 2018 - Pistolet masz. PPS".
- ^ a b Iannamico, Frank. "The Soviet PPS-43 Submachine Gun". Small Arms Review. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2021.
- ^ "World Infantry Weapons: Algeria". World Inventory. 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020.
- ^ "При необходимости вооружения военнослужащих пистолетами-пулемётами предлагалось использовать для этого складские запасы пистолетов-пулемётов ППС и автоматических пистолетов АПС"Штурмовое ружьё из ППШ и пистолет в магнитоле // журнал «Армия», № 3, 2011. стр.47-53
- ^ McNab 2014, tr. 62.
- ^ de Quesada, Alejandro (ngày 10 tháng 1 năm 2009). The Bay of Pigs: Cuba 1961. Elite 166. tr. 60. ISBN 978-1-84603-323-0.
- ^ Thomas, Nigel; Caballero Jurado, Carlos (ngày 25 tháng 1 năm 2002). Germany's Eastern Front Allies (2): Baltic Forces. Men-at-Arms 363. Osprey Publishing. tr. 40. ISBN 978-1-84176-193-0.
- ^ McNab 2014, tr. 23.
- ^ Small Arms Survey (1998). Politics From The Barrel of a Gun (PDF). Cambridge University Press. tr. 40. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011.
- ^ "Urgent Fury 1983: WWII weapons encountered". WWII After WWII. ngày 18 tháng 10 năm 2015.
- ^ Anders, Holger (tháng 6 năm 2014). Identifier les sources d'approvisionnement: Les munitions de petit calibre en Côte d'Ivoire (PDF) (bằng tiếng Pháp). Small Arms Survey and United Nations Operation in Côte d'Ivoire. tr. 15. ISBN 978-2-940-548-05-7. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2015.
- ^ Aleksandr Danilyuk. Museum of the People's Army of Laos // "Equipment and weapons", No. 4, 2016. pp. 53-57
- ^ McNab 2014, tr. 61.
- ^ McNab 2014, tr. 58-59.
- ^ US Department of Defense. "Appendix A: Equipment Recognition". North Korea Country Handbook 1997 (PDF). tr. A-80.
- ^ Perzyk, Bogusław (2013). "Pistolet maszynowy czy karabin? - z historii uzbrojenia strzeleckiego ludowego Wojska Polskiego w latach 1945-1956" [Submachine gun or rifle? - from the history of rifle weapons of the Polish People's Army in 1945-1956]. Poligon: Magazyn Miłośników Wojsk Lądowych (bằng tiếng Ba Lan). Quyển 3 số 38. Magnum-X. tr. 69–71. ISSN 1895-3344.
- ^ Jones, Richard, biên tập (2009). Jane's Infantry Weapons 2009–2010. Jane's Information Group. tr. 902. ISBN 978-0-7106-2869-5.
- ^ "김일성을 공포에 떨게 만든 전 백골사단장 "북한놈들은.."" [Former Baekgol division commander who made Kim Il-sung tremble in fear "The North Koreans..."]. NewDaily (bằng tiếng Hàn). ngày 14 tháng 9 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2018.
- ^ "World Infantry Weapons: Sierra Leone". World Inventory. 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2016.
- ^ Пригожин показал склады захваченных вооружений в Соледаре
- ^ "Sudajev PPS-43 / NAM 64-75". nam-valka.cz (bằng tiếng Séc). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Ezell, Edward Clinton (1986). The AK47 Story: Evolution of the Kalashnikov Weapons. Harrisburg, PA: Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-0916-3.
- McNab, Chris (ngày 20 tháng 5 năm 2014). Soviet Submachine Guns of World War II: PPD-40, PPSh-41 and PPS. Weapon 33. Osprey Publishing. ISBN 978-1-78200-794-4.
- Woźniak, Ryszard (2001). Encyklopedia najnowszej broni palnej—tom 3 M-P (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw, Poland: Bellona. ISBN 83-11-09149-8.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Modern Firearms Lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Wayback Machine
- Bắn thử PPS-43
- Giới thiệu sơ PPS
Từ khóa » Khẩu Pps 43
-
PPS-43 PPS-43 Là Một... - Hội Yêu Lịch Sử - Khí Tài Quân Sự
-
"Soi" Súng Tiểu Liên Gọn Nhẹ Nhưng Tầm Ngắm Lên đến 200m Của Nga
-
Súng Tiểu Liên PPS - Wiko
-
Súng Tiểu Liên PPS-43 Của Liên Xô - Tin Tức (2022)
-
1/6 Quy Mô PPS 43 Tiểu Liên Quân Nhân Vũ Khí Mô Hình Súng ...
-
Đôi Khi Mỵ ước Nếu Có Khẩu PPS-43 Trong Tay, Sẽ Cho Thằng A Sử ...
-
Cho Rằng Hỗn Láo, Xách Súng Tiểu Liên Ra Uy Hiếp Bạn Nhậu ít Tuổi
-
Vũ Khí Việt Nam Trong Hai Cuộc Kháng Chiến. - Quansuvn
-
Kết Quả Tìm Kiếm “PPSh-41” – Du Học Trung Quốc 2022 - Wiki Tiếng ...
-
Lai Lịch Súng “lạ” Sẽ Diễu Binh Kỷ Niệm Chiến Thắng ĐBP - Kiến Thức
-
PPSh-41