PPSh-41 – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
| PPSh-41 | |
|---|---|
| Loại | Súng tiểu liên |
| Nơi chế tạo | |
| Lược sử hoạt động | |
| Phục vụ | 1941 – nay |
| Sử dụng bởi | Xem Các quốc gia sử dụng |
| Trận | Chiến tranh thế giới thứ hai[1]Chiến tranh Đông Dương[2]Chiến tranh Việt NamChiến tranh LạnhChiến tranh Triều Tiên[1]Chiến tranh Afghanistan (1978–1992)[3]Chiến tranh Afghanistan (2001-nay)Nội chiến LàoCách mạng Cuba[4]Nội chiến Trung QuốcChiến tranh Iraq[5] Chiến tranh biên giới Lào-Thái LanNội chiến Yemen 2015 Nội chiến Myanmar |
| Lược sử chế tạo | |
| Người thiết kế | Georgy Semyonovich Shpagin |
| Năm thiết kế | 1941 |
| Giai đoạn sản xuất | 1941-1947 ở Liên Xô[6]1949-1958 ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên1950-1956 ở Trung Quốc |
| Số lượng chế tạo | Khoảng 6.000.000 khẩu (1941 - 1945)cộng thêm hàng triệu khẩu sản xuất ở nước ngoài (sau năm 1945) |
| Các biến thể | PPSh-41, MP717, SKL-41, Kiểu 49, Kiểu 50, K-50M. |
| Thông số | |
| Khối lượng | 3,63kg chưa lắp hộp tiếp đạn.5,45kg với băng đạn hình trống 71 viên.4,3kg với băng đạn cong 35 viên |
| Chiều dài | 843mm (33,18 in) |
| Độ dài nòng | 269mm |
| Đạn | 7.62×25mm Tokarev |
| Cơ cấu hoạt động | Nạp đạn bằng phản lực bắn |
| Tốc độ bắn | 1.250phát/phút[7] |
| Sơ tốc đầu nòng | 488 m/s |
| Tầm bắn hiệu quả | 150 m[8] - 200 m[9] |
| Tầm bắn xa nhất | 350m |
| Chế độ nạp | Băng đạn tròn 71 viên và băng đạn cong 35 viên có thể tháo rời. |
| Ngắm bắn | Trước: Đầu ngắm có vòng chống va đập.Sau: Những khẩu đầu tiên có thước ngắm có con trượt chỉnh tầm, định tầm bắn đến 500m. Về sau sử dụng khe ngắm kiểu lật (kiểu chữ "L") định tầm 100 và 200m. |
PPSh-41 (Pistolet-Pulemyot Shpagina obrazet 1941 - Súng tiểu liên của Shpagin kiểu năm 1941) là súng tiểu liên tiêu chuẩn của Hồng Quân trong Thế chiến thứ hai. Súng do kỹ sư Georgy S. Shpagin thiết kế vào năm 1941 và được chấp nhận trang bị từ tháng 12/1941. Đây chính là phiên bản đơn giản và tối ưu hóa của súng tiểu liên PPD-40 do kỹ sư Vasily A. Degtyaryov thiết kế.
PPSh-41 có thiết kế blowback, sử dụng đạn 7.62×25mm Tokarev. PPSh-41 được thiết kế nhằm đáp ứng được các tiêu chí như: dễ sử dụng, dễ sản xuất, giá thành rẻ, độ bền cao,... mà khẩu PPD-40 chưa đáp ứng được. Với hơn 6 triệu khẩu được chế tạo, PPSh-41 là loại súng tiểu liên được sản xuất nhiều nhất và cũng được công nhận là loại súng tiểu liên tốt nhất Chiến tranh thế giới thứ hai, và là biểu tượng của lính Hồng quân trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại.
Liên Xô dừng sản xuất loại súng này vào năm 1947 vì họ đã có súng trường tấn công tự động Kalashnikov (AK-47) của nhà thiết kế vũ khí Mikhail Timofeyevich Kalashnikov làm trang bị tiêu chuẩn mới cho quân đội. Từ sau năm 1948, Liên Xô tiến hành cấp giấy phép, chuyển giao công nghệ cũng như máy móc để sản xuất PPSh-41 lại cho Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, nên đã có thêm hàng trăm nghìn khẩu PPSh-41 được sản xuất bên ngoài lãnh thổ Liên Xô sau chiến tranh.

Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1934, Liên Xô bắt đầu thiết kế khẩu tiểu liên PPD-34, loại súng tiểu liên này sử dụng loại đạn mới nghiên cứu là 7.62×25mm Tokarev. PPD-34 được chính thức đưa vào sử dụng trong Hồng quân từ năm 1935, nhưng chỉ trang bị một số lượng nhỏ cho lực lượng an ninh, biên phòng và Bộ Dân ủy Nội vụ NKVD của Liên Xô. Do vậy, tới năm 1940, hầu hết bộ binh Liên Xô vẫn chỉ được trang bị súng trường Mosin-Nagant. Ngoài ra, một số lính được trang bị súng trường bán tự động SVT-40.
Trong Chiến tranh Liên Xô - Phần Lan (1939 - 1940), súng tiểu liên Suomi KP-31 của Phần Lan với ưu thế nhỏ gọn, cơ động đã chứng tỏ ưu thế khi tác chiến khu vực có không gian chật hẹp. Băng đạn trống 71 viên của nó sau đó đã được Liên Xô sao chép và sử dụng cho súng tiểu liên PPD-40 và PPSh-41
Tại những khu vực này, súng trường Mosin-Nagant, súng trường bán tự động SVT-40 và trung liên DP-28 gần như tỏ ra vô dụng trong tác chiến cự ly gần do nặng nề. Hơn nữa, súng trường Mosin-Nagant lại có tốc độ bắn quá chậm, chỉ khoảng 10 - 15 phát/phút.
Từ thực tế này, lãnh đạo Hồng quân quyết định phải trang bị số lượng lớn súng tiểu liên cho quân đội. Tuy nhiên, việc sản xuất số lượng lớn súng tiểu liên PPD-40 để trang bị cho toàn bộ quân đội gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, PPSh-41 được thiết kế nhằm đáp ứng cho việc thay thế PPD-40.
Dự án thiết kế PPSh-41 được triển khai vào giữa năm 1940 bởi Georgy Semyonovich Shpagin. Trước đó, Shpagin đã nổi tiếng trong Hồng quân khi là người đã cải tiến cơ chế nạp đạn của khẩu DShK vào năm 1938Vầo tháng chín năm 1940 Shpagin đã phát triển một bản mẫu của khẩu PPSh với một chóp bù giật đơn giản để giảm sức giật của khẩu súng, điều này đã giúp độ chụm của khẩu súng cải thiện 70% so với khẩu PPD.[10] Những nơi đầu tiên sản xuất súng là các nhà máy quân khí ở thủ đô Moskva. Đến tháng 6 năm 1941, khoảng vài trăm khẩu đã được sản xuất thử. Đến cuối năm 1941, 155.000 khẩu đã được xuất xưởng. Tới mùa xuân năm 1942, trung bình mỗi ngày có khoảng 3,069 khẩu PPSh-41 được xuất xưởng.[11] Khẩu PPSh-41 chỉ có 87 chi tiết (so với 95 chi tiết của khẩu PPD-40) và chỉ tốn 5,6 giờ gia công cho mỗi khẩu.[12][13]Việc sản xuát nòng được đơn giản hóa bằng cách lấy nòng của Mosin–Nagant: nòng được cưa làm đôi và hai chiếc nòng được hoàn thành sau khi gia công đôi chút để tạo buồng đạn lớp với cỡ đạn 7.62×25mm Tokarev .[14]
Liên Xô đẫ sản xuất hơn 5 triệu khẩu PPSh-41 cho đến cuối Thế chiến 2. Hồng quân thường trang bị cả trung đội, hoặc thậm chí cả đại đội với khẩu súng này, giúp họ có hỏa lực tầm gần vô đối.[15] Hàng nghìn khẩu cũng được thả dù xuống sau lưng quân địch để tiếp tế cho các nhóm du kích Liên Xô đánh phá kho tàng, đường xá và các tuyến vận tải của phe Trục.
Đến hết cuộc chiến, hơn 6 triệu khẩu PPSh-41 đã được sản xuất (để so sánh, khẩu MP-40 của Đức Quốc xã chỉ sản xuất được hơn 1 triệu khẩu trong suốt chiến tranh).
Chiến tranh Triều Tiên
[sửa | sửa mã nguồn]
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã cung cấp PPSh với số lượng lớn cho các quốc gia thân Liên Xô và cho các lực lượng du kích cộng sản. Trong Chiến tranh Triều Tiên, Quân đội Nhân dân Triều Tiên và Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc chiến đấu tại Triều Tiên nhận được một lượng rất lớn súng tiểu liên PPSh-41, bên cạnh các mẫu Triều Tiên Type 49 và Trung Quốc Type 50 – đều là phiên bản sản xuất theo giấy phép của PPSh-41 nhưng có một số điều chỉnh kỹ thuật nhỏ.[16]
Dù độ chính xác không cao, súng PPSh do Trung Quốc sản xuất có tốc độ bắn rất lớn và rất phù hợp với các trận đánh cự ly gần vốn diễn ra phổ biến ở Triều Tiên, nhất là ban đêm.[17] Các đơn vị Liên Hợp Quốc phòng ngự tại tiền đồn hoặc đi tuần nhiều khi không thể bắn trả đủ hỏa lực khi bị các đại đội bộ binh trang bị PPSh tấn công. Một số sĩ quan bộ binh Mỹ đánh giá PPSh là vũ khí chiến đấu tốt nhất của cuộc chiến: tuy không chính xác bằng M1 Garand hay carbine M1 của Mỹ, nhưng nó cho hỏa lực mạnh hơn ở cự ly ngắn.[17] IĐại úy bộ binh (sau này là tướng) Hal Moore nói: “Bắn tự động hoàn toàn thì nó xả rất nhiều đạn, mà phần lớn việc tiêu diệt trong chiến tranh Triều Tiên diễn ra ở cự ly rất gần và rất nhanh – vấn đề là ai phản ứng nhanh hơn. Trong những tình huống như vậy nó hơn hẳn và hỏa lực cũng trội hơn vũ khí của chúng ta. Một trận đánh tuần tra cự ly gần kết thúc rất nhanh và thường là chúng ta thua là vì thế.”[17] Tuy vậy, binh sĩ Mỹ cho rằng khẩu carbine M2 của họ vẫn ưu việt hơn PPSh-41.[18]
Đặc điểm, cấu tạo và tính năng
[sửa | sửa mã nguồn]Mọi loại súng tiểu liên trước và trong Thế chiến thứ hai đều có cấu tạo khá đơn giản. Thậm chí nếu so sánh về mức độ phức tạp trong tính toán thiết kế, súng ngắn liên thanh còn đơn giản hơn súng kíp nòng trơn. Hầu hết súng tiểu liên thời đó đều hoạt động bằng cơ cấu blowback - cơ cấu chuyển động đơn giản nhất của các loại súng bộ binh. PPSh-41 cũng như vậy.
Ngoài thiết kế đơn giản, dễ chế tạo và dễ sử dụng, PPSh-41 không đòi hỏi gia công bằng các phương pháp phức tạp và tốn kém. Hàng triệu khẩu PPSh-41 đã được sản xuất với số lượng lớn tại các nhà máy sản xuất vũ khí, kể cả khi các nhà máy này phải sơ tán ra phía sau dãy núi Ural khi phát xít Đức tràn vào xâm lược lãnh thổ Liên Xô vào năm 1941.
Đạn 7.62x25mm Tokarev có đường đạn và khả năng xuyên phá tốt hơn nhiều so với đạn 9x19mm Parabellum của Đức hoặc đạn.45 ACP (11.43x23mm) của Hoa Kỳ. Đạn là một phiên bản nâng cấp từ đạn súng ngắn 7.63×25mm Mauser. Có thể nói nền móng thành công của 7,62x25mm Tokarev là 7.63×25mm Mauser. Vỏ đạn cổ thắt, có gờ móc đạn, rất thích hợp cho các súng tự động. Đầu đạn dài, được thiết kế kỹ lưỡng cho đường đạn ngoài tốt nhất có thể. Thuốc súng là loại viên định hình bền chắc, áp suất thấp giảm chậm, tương tự như thuốc đạn súng trường chiến đấu 7.92x57mm Mauser và 7.62×54mmR. Có thể nói, đạn 7.63×25mm Mauser và 7.62×25mm Tokarev được thiết kế bằng cách rút ngắn chiều dài đạn súng trường để trở thành đạn súng ngắn.[cần dẫn nguồn] Đạn cũng ưu việt hơn nhiều so với các loại đạn phổ biến lúc đó như 9x19mm Parabellum. Một loại đạn nổi tiếng khác là đạn 7.62×39mm M43 cũng được thiết kế theo tiêu chí rút ngắn đạn súng trường.
Với đạn 7.62×25mm Tokarev, PPSh-41 đạt tầm bắn chính xác tới 200m với nòng dài 269mm. Trong khi đó, MP-40 của Đức Quốc xã dùng đạn 9×19mm Parabellum có nòng dài tương đương (251mm) chỉ dừng lại ở mức 100 - 150 mét. Khẩu Thompson của Mỹ dùng đạn .45 ACP với nòng dài 270mm thậm chí còn kém hơn nữa, chỉ đạt 50 - 100 mét.
Ngoài ưu thế về lượng đạn, PPSh-41 còn có tốc độ bắn lên tới 900 phát/phút, tạo ra ưu thế hỏa lực chế áp tầm gần. Điều này được củng cố bởi hộp tiếp đạn dạng trống chứa được tới 71 viên, làm tăng khả năng duy trì hỏa lực, hạn chế thời gian phải nạp lại đạn. Thời đó, trong biên chế một tiểu đội Liên Xô có từ một tới hai súng tiểu liên PPSh-41, còn lại là súng trường Mosin-Nagant, SVT-40 và súng máy hạng nhẹ Degtyarov DP. Khi xung phong, nhất là trong trường hợp tấn công vào chiến hào hoặc những địa hình chật hẹp, do súng trường chiến đấu như Mosin-Nagant bắn quá chậm, trong khi súng máy thường nặng và có độ giật tương đối cao, những binh sĩ mang các loại súng này khó có thể xoay sở đủ nhanh với các tình huống phát sinh đột ngột thường xảy ra. Súng ngắn liên thanh trong giai đoạn chưa xuất hiện súng trường tấn công là một lựa chọn tối ưu, và thực sự chúng được phát minh cho việc xung phong đánh cận chiến. Thậm chí ngày nay, các loại súng ngắn liên thanh vẫn chiếm lợi thế khi chiến đấu trong các công trình nhỏ hẹp vì nhỏ gọn, độ giật thấp.
Tuy nhiên, do hạn chế về vật liệu, loại hộp tiếp đạn tròn 71 viên khá nặng, nên phải dùng thép dày 0,5mm làm vỏ để giảm trọng lượng. Vỏ hộp tiếp đạn mỏng làm hộp tiếp đạn dễ bị biến dạng do va chạm, làm kẹt lò xo xoay cần đẩy đạn. Chính lò xo này cũng khá yếu do Liên Xô lúc đó rất khan hiếm vật liệu tốt. Trong khi thiết kế súng, Shpagin đã để thừa một viên, hay đúng hơn là sức đàn hồi cao nhất của lò xo có thể đẩy được 71 viên đạn. Sau đó, ông khuyến cáo các binh sĩ không nên nạp đầy 71 viên để lò xo không phải làm việc hết sức, duy trì tuổi thọ. Súng đã nạp băng đạn tròn 71 viên khá nặng (5,45 kg), vì vậy, loại hộp tiếp đạn cong 35 viên cho PPSh-41 đã ra đời để khắc phục nhược điểm này. Mặc dù băng đạn cong chứa được ít đạn hơn, nhưng nó nhẹ và bền hơn, việc thay băng đạn cũng nhanh và tiện hơn so với băng đạn tròn 71 viên. Mặt khác, loại hộp tiếp đạn này giúp xạ thủ thoải mái hơn, có thể dùng hộp tiếp đạn như tay cầm trước. Tuy nhiên, khả năng mang nhiều đạn của loại hộp tiếp đạn 71 viên vẫn được các binh sĩ ưa chuộng. Những người lính Hồng quân thường lắp sẵn một hộp tiếp đạn loại 71 viên vào súng trước khi xung phong hoặc thâm nhập vào những nơi chật hẹp, khi bắn hết hộp đạn 71 viên này thì họ sẽ chuyển sang dùng lần lượt các hộp đạn 35 viên được đeo sẵn bên người.
Về dáng súng, PPSh-41 vẫn mang đặc điểm từ khẩu MP-18 của Đế quốc Đức (cũ) là báng gỗ gắn liền với hộp khóa nòng, có cổ báng súng làm vị trí tay cầm sau, khiến cho tư thế ngắm không được thoải mái, chưa áp dụng thiết kế tay cầm riêng biệt như khẩu MP-40 của Đức Quốc xã hay khẩu Thompson của Hoa Kỳ. Thay vì phải có tay cầm ở phía trước cửa lắp hộp tiếp đạn để xạ thủ có thể giữ súng thoải mái, chắc chắn, có tư thế tốt để tận dụng ưu thế đường đạn, xạ thủ PPSh-41 phải giữ tay ở vị trí dưới hộp tiếp đạn, gần cổ báng súng, hoặc giữ hộp tiếp đạn. Mặc dù nòng súng có bọc lồng thép ngoài đề phòng nguy cơ xạ thủ bị bỏng do tiếp xúc với nòng súng, nhưng không thể dùng bộ phận này thay ốp lót tay cầm trước vì nó không có chức năng cách nhiệt. Thực ra, việc bố trí tay cầm trước đối với PPSh-41 là bất khả thi vì hộp tiếp đạn hình trống khá to làm tư thế nâng súng bị vướng. Các loại súng tiểu liên thời kỳ đầu đều có máy súng rất dài. Các mẫu súng phổ biến là PPSh-41, MP-40 và Thompson M1A1 có tỷ lệ chiều dài thân súng (hộp khóa nòng của súng) - nòng súng vào khoảng 1:1, do đó khẩu súng khá dài. PPSh-41 không có thiết kế đẩy cụm cò và vị trí cầm sau về gần cửa lắp hộp tiếp đạn (kéo theo báng được đẩy về trước để duy trì chiều dài báng vừa phải) để rút ngắn chiều dài toàn bộ khẩu súng như súng tiểu liên Thompson, nên khoảng cách giữa vị trí cầm trước (nếu có) và đế báng súng tì vào vai khá xa nhau, tương đương với khoảng cách của súng trường. Khoảng cách như vậy chỉ thích hợp cho súng trường cần kiểm soát tốt góc để ngắm xa, nhưng sẽ làm mất ưu thế linh hoạt khi chiến đấu tầm gần và rất gần.
Thompson M1928 và M1A1 được Hoa Kỳ chấp nhận trang bị làm súng tiểu liên chủ lực của Quân đội Hoa Kỳ và họ đem viện trợ với số lượng khá lớn cho Liên Xô trong giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai. Súng Thompson có dáng súng rất thành công khi hỗ trợ cả linh hoạt tầm gần và kiểm soát góc tầm trung. Nhưng Thompson dùng loại đạn .45 ACP có đầu đạn nặng, sơ tốc đạn thấp, đường đạn kém, nên chỉ thích hợp cho việc chiến đấu ở tầm rất gần (dưới 50 mét), trong khi PPSh-41 cho khả năng bắn chính xác tới 150 - 200 mét với loại đạn 7.62x25mm Tokarev. Thompson cũng không có tốc độ bắn cao như PPSh-41 và không lắp được hộp tiếp đạn 50 viên như ở phiên bản M1A1 Thompson[cần dẫn nguồn] . Với trọng lượng 4,9 kg (khi chưa nạp đạn) và chỉ có hộp tiếp đạn 30 viên, súng kém hơn cả PPSh-41 và MP-40 về tỉ lệ trọng lượng - tính năng chiến đấu. Những người lính Hồng quân tỏ ra không ưa thích loại súng bộ binh được Hoa Kỳ viện trợ, nếu được lựa chọn thì họ thích sử dụng súng sản xuất nội địa hơn, hoặc nếu không thì họ cũng thích sử dụng những khẩu súng chiến lợi phẩm thu được từ tay phát xít Đức hơn (điển hình như MP-40 vì loại súng tiểu liên này tuy chưa thể sánh được với PPSh-41, nhưng nó vẫn có một số điểm vượt trội so với súng Thompson của Hoa Kỳ).
Súng tiểu liên MP-40 tiêu chuẩn của Đức Quốc xã có dáng súng của súng ngắn liên thanh. Súng cũng có báng và tay cầm sau tách rời nhau. Vị trí tay cầm trước chính là hộp tiếp đạn. Kiểu cầm súng này cộng với báng gập bằng thép giúp cho súng trở nên nhỏ gọn, có lợi thế trong việc chiến đấu tầm gần, nhất là khả năng xoay trở trong các khu vực chật hẹp. Với tầm bắn chính xác tới 100 mét, xạ thủ không cần phải quan tâm tới tư thế bắn cần kiểm soát hướng đối với mục tiêu ở cự li xa hơn. Đây là khẩu súng tiểu liên thành công nhất của Đức trong phương diện thiết kế dáng súng, tận dụng tốt đường đạn và đáp ứng được yêu cầu kỹ chiến thuật cơ bản của súng tiểu liên. Dù vậy, MP-40 vẫn chưa thể sánh bằng PPSh-41 về độ bền, tốc độ bắn và khả năng gây sát thương, và lịch sử cũng ghi nhận rất nhiều trường hợp lính Đức bỏ khẩu MP-40 của mình để quay qua sử dụng những khẩu PPSh-41 chiến lợi phẩm mà họ thu được từ lính Hồng quân. Thậm chí một số lượng súng PPSh-41 dùng đạn 9x19mm Parabellum do Đức cải tiến đã xuất xưởng và được sử dụng ở Mặt trận phía Đông. Đại úy kỹ sư Aleksey I. Sudayev đã áp dụng dáng súng của MP-40 vào thiết kế của ông và cho ra đời khẩu tiểu liên PPS-43, một phiên bản gọn nhẹ, đơn giản, dễ sử dụng và rẻ tiền hơn so với PPSh-41, nhưng vẫn duy trì được các tính năng bắn, sự bền bỉ và độ tin cậy vốn có từ PPSh-41.
Các quốc Gia Sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]
Đang sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]
CHDCND Triều Tiên − Bản sao sản xuất theo giấy phép với tên định danh “Type 49”.[19][20]
Lực lượng thân Nga tại Ukraina − sử dụng hạn chế trong giai đoạn đầu chiến sự ở Donbas.[21]
Lực lượng đối lập tại Syria[22]
Ukraine[23]
Từng sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]
Afghanistan − từng biên chế trong quân đội Afghanistan đến thập niên 1980.[24] Cũng được dùng bởi các lực lượng dân quân.[25]
Albania[26]
Angola − Lực lượng MPLA sử dụng trong Chiến tranh giành độc lập Angola.[27][28]
Áo[29]Nguồn gốc Liên Xô; một số lính mô tô dùng với tên “MP-41”, sau đó được thay bằng STG-77.
Bulgaria[30]
Trung Quốc − Sản xuất theo giấy phép với tên “Type 50”.[31]
Croatia[32]
Cuba[4]
Czechoslovakia − Dùng trong và sau Thế chiến II cho đến khi thay bằng vz. 58.[33][cần dẫn nguồn]
Đông Đức − Trang bị cho biên phòng (Grenztruppen) và dân quân (Kampfgruppen); định danh “MPi41”, dần dần thay bằng AK-47 từ 1960.[34]
Ethiopia[26]
Phần Lan[35] − Thu được ít nhất 2.500 khẩu và dùng trong Chiến tranh Tiếp diễn..[36]
Georgia − Dùng trong các xung đột nội bộ thập niên 1990.[37][nguồn không đáng tin?]
Guinea[26]
Guinea Bissau − Dùng trong chiến tranh giành độc lập.[38]
Hungary − Thu và tái trang bị những năm 1940; sau đó sản xuất phiên bản nội địa “7,62mm 48.M”.[39][nguồn không đáng tin?][40][cần số trang]
Indonesia[41]
Iran − Ký thỏa thuận 1943 để sản xuất theo giấy phép; sản xuất số lượng hạn chế, dùng cho cảnh sát (Shahrbani) và quân đội.[42][40][cần số trang][43]
Iraq[5]
Lào[26]
Latvia[44]
Lesotho[45]
Mông Cổ[35]
Đức Quốc xã − Dùng các khẩu thu được, đổi sang cỡ đạn 9×19mm với tên “MP-41(r)” hoặc 7,63×25mm với tên “MP-717(r)”. [46]
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa − Dùng PPSh-41, K-50M, Type 50.[47]
Poland − Dùng trong Lục quân Ba Lan thứ nhất; sau chiến tranh sản xuất theo giấy phép “pm wz.41”.[48][49][nguồn không đáng tin?]
Romania − Thu và tái trang bị 1941–1944; sau sản xuất tại Cugir với tên “PM PPȘ Md. 1952”.[50][nguồn không đáng tin?][51]
Sierra Leone[52][nguồn không đáng tin?]
Somalia[53]
Hàn Quốc − Thu được trong Chiến tranh Triều Tiên, sửa chữa/tái sử dụng tại kho Busan.[54]
Liên Xô − Trang bị cho Hồng quân từ 1942.[31]
Nam Tư .[55][56]
Zimbabwe[57][58]
Các phiên bản
[sửa | sửa mã nguồn]- Kiểu 50 (Type 50): Phiên bản PPSh-41 do Trung Quốc sản xuất lậu theo mẫu PPSh-41 của Liên Xô. Type 50 chỉ có thể dùng được loại hộp tiếp đạn cong 35 viên.
- Kiểu 49 (Type 49): Phiên bản PPSh-41 do Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên sản xuất với giấy phép được cấp từ Liên Xô trong Chiến tranh Triều Tiên. Type 49 chỉ có thể sử dụng được hộp tiếp đạn tròn 71 viên.[19]
- K-50M: Phiên bản PPSh-41 được Quân đội Nhân dân Việt Nam cải tiến trực tiếp từ những khẩu PPSh-41 của Liên Xô và Type 50 của Trung Quốc được viện trợ với số lượng lớn cho ta trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và Chiến tranh Việt Nam. Có phần nòng ngắn hơn và có đầu ruồi phía trước được thiết kế theo kiểu của khẩu tiểu liên MAT-49 của Pháp.[59] Ngoài ra còn có chuôi cầm phía sau và báng gấp.[60] Khẩu này nhẹ hơn 500g so với PPSh-41 bản gốc.[61] Phiên bản K-50M của Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng hộp tiếp đạn cong 35 viên.[60]
- MP41(r): Phiên bản PPSh-41 bắn đạn 9×19mm Parabellum của Đức.
- MP717(r): PPSh-41 bị Đức Quốc xã tịch thu, nhưng không có sự chuyển đổi cỡ đạn mà cùng sử dụng như khẩu MP-41 do Đức sản xuất.
- SKL-41: Một phiên bản thể thao xuất hiện ở thị trường Đức từ năm 2008. Chỉ có chế độ bắn bán tự động, dùng đạn 9x19mm Parabellum.
- PPS-50: Một phiên bản thể thao bán tự động được sản xuất tại Ý, sử dụng cỡ đạn .22LR.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Bishop, Chris (1998). Guns in Combat. Chartwell Books. ISBN 0-7858-0844-2.
- ^ McNab 2014, tr. 68.
- ^ Howze, Hamilton H. (tháng 7 năm 1983). "The Soviets after Afghanistan: Armaggedon in the Middle East". Army. Quyển 33 số 7. tr. 45–50 – qua Google Books.
- ^ a b de Quesada, Alejandro (ngày 10 tháng 1 năm 2009). The Bay of Pigs: Cuba 1961. Elite 166. tr. 60. ISBN 978-1-84603-323-0.
- ^ a b McNab 2014, tr. 69.
- ^ "PPSh41 Submachine Gun". Classic Firearms. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2018.
- ^ McCollum, Ian (ngày 16 tháng 12 năm 2017). "The Iconic "Burp Gun" – Shooting the PPSh-41". Forgotten Weapons. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021. The Soviet PPSh-41 submachine gun is most distinctive for its very high rate of fire – approximately 1250 rounds/minute
- ^ Edwards, Paul M. (2006). The Korean War. Westport, CT: Greenwood Press. tr. 77. ISBN 0-313-33248-7.
- ^ Taylor, Mike (tháng 9 năm 2011). World War II: Weapons. Edina, MN: Abdo Publishing Company. ISBN 978-1-61478-027-4.
- ^ Болотин, Давид (1995). История советского стрелкового оружия и патронов [History of Soviet Small Arms and Ammunition] (bằng tiếng Nga). Полигон. tr. 109–114. ISBN 5-85503-072-5.
- ^ Braithwaite, Rodric (2006). Moscow 1941: A City and its People at War. London, UK: Profile Books. tr. 236. ISBN 978-1-86197-759-5.
- ^ "Kalashnikov, Part 2: Soviet Political Economy and the Design Evolution of the Kalashnikov Avtomat". Cruffler.com. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2010.
- ^ Болотин, Давид (1995). История советского стрелкового оружия и патронов (bằng tiếng Nga). Полигон. tr. 111 for the early estimate vs. PPD and p. 119 for comparison with PPS. ISBN 5-85503-072-5.
- ^ Pauly, Roger (2004). Firearms: The Life Story of a Technology. Westport, CT: Greenwood Publishing Group. tr. 141. ISBN 0-313-32796-3.
- ^ Bishop, Chris (2002). The Encyclopedia of Weapons of World War II. New York: MetroBooks. ISBN 978-1-58663-762-0. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2014.
- ^ McNab 2014, tr. 22-23.
- ^ a b c Halberstam, David (2007). The Coldest Winter. Hyperion Press. tr. 447. ISBN 978-1-4013-0052-4.
- ^ Thompson, Leroy (ngày 20 tháng 11 năm 2011). The M1 Carbine. Bloomsbury Publishing. tr. 56. ISBN 9781849086202. During the immediate postwar years, the M1 and M2 Carbines next saw combat with US troops in Korea. A large proportion of the carbines issued for Korea were the M2 model, which US soldiers and Marines seemed to feel performed quite well in comparison with the Chinese-supplied PPSh-41 "Burp Gun."
- ^ a b US Department of Defense. "North Korea Country Handbook 1997, Appendix A: Equipment Recognition, PPSH 1943 SUBMACHINEGUN [sic] (TYPE-50 CHINA/MODEL-49 DPRK)" (PDF). tr. A-79.
- ^ Newdick, Thomas (ngày 9 tháng 9 năm 2021). "North Korea Trades Missiles For Militias At Its Latest Parade". The War Zone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2024.
- ^ Ferguson, Jonathan; Jenzen-Jones, N.R. (2014). "Raising Red Flags: An Examination of Arms & Munitions in the Ongoing Conflict in Ukraine. (Research Report No. 3)" (PDF). ARES. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015.
- ^ Shanley, Jack; F., Mick (ngày 30 tháng 4 năm 2021). "Analysing the Online Arms Trade in Opposition-controlled Syria: March 2021 update". The Hoplite. Armament Research Services (ARES). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
- ^ "Перелік військового майна Збройних Сил, яке може бути... | від 15.08.2011 № 1022-р (Сторінка 9 з 14)". ngày 27 tháng 9 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2023.
- ^ Кашуба, Г. П. (1981). Афганские встречи [Afghan Meetings] (bằng tiếng Nga). Moskva: Izd-vo DOSAAF. tr. 73.
- ^ Масуд, Хайдар; Сахаров, А. Н. (1981). Афганистан сегодня: фотоальбом (bằng tiếng Nga). Планета. tr. 202–203.
- ^ a b c d Jones, Richard D.; Ness, Leland S., biên tập (ngày 27 tháng 1 năm 2009). Jane's Infantry Weapons 2009/2010 (ấn bản thứ 35). Coulsdon: Jane's Information Group. ISBN 978-0-7106-2869-5.
- ^ McNab 2014, tr. 73.
- ^ Venter 2017, tr. 411.
- ^ Ezell, Edward (1988). Small Arms Today (bằng tiếng English). Quyển 2nd. Stackpole Books. tr. 47. ISBN 0811722805.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ de Quesada, Alejandro (2014). MP 38 and MP 40 Submachine Guns. Osprey Publishing. tr. 52. ISBN 978-1-78096-388-4.
- ^ a b Miller, David (2001). The Illustrated Directory of 20th Century Guns. London, UK: Salamander Books Ltd. ISBN 1-84065-245-4.
- ^ Brnardic, Vladimir (ngày 22 tháng 11 năm 2016). World War II Croatian Legionaries: Croatian Troops Under Axis Command 1941—45. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 9. ISBN 978-1-4728-1767-9.
- ^ McNab 2014, tr. 50.
- ^ Rottman, Gordon (2008). The Berlin Wall and the Intra-German Border 1961-89. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 44. ISBN 978-1-84603-193-9.
- ^ a b McNab 2014, tr. 22.
- ^ Campbell, David; Mignone, V. (2020). Soviet Soldier vs Finnish Soldier: The Continuation War 1941–44 (bằng tiếng Anh). Bloomsbury Publishing. tr. 65. ISBN 978-1-4728-3831-5.
- ^ Small Arms Survey (1998). Politics From The Barrel of a Gun (PDF). Cambridge University Press. tr. 40. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011.
- ^ Keegan, John (1983). World Armies (ấn bản thứ 2). London, UK: Macmillan. tr. 239. ISBN 978-0-33334-079-0.
- ^ "7.62mm Submachine Gun PPSh41". Manowar's Hungarian Weapons & History. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b Owen, J. I. H. (1976). Warsaw Pact Infantry and its Weapons: Manportable weapons and equipment in service with the regular and reserve forces of the Soviet Union, Bulgaria, Poland, Rumania, and of Yugoslavia. London, UK: Brassey's Publishers Ltd. ISBN 978-0-90460-903-5.
- ^ Bonn International Center for Conversion; Bundeswehr Verification Center. "MP PPSH 41". SALW Guide: Global distribution and visual identification. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2018.
- ^ "Iranian Submachine Guns (1941-1979)". silahreport.com. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2023.
- ^ Ohlson, Thomas (1988). Arms Transfer Limitations and Third World Security. Oxford University Press. tr. 103. ISBN 0-19-829124-8.
- ^ Vincent, Hunt (2017). Blood in the Forest: The End of the Second World War in the Courland Pocket. Warwick, UK: Helion and Company. tr. 223. ISBN 978-1-912866-93-9.
- ^ Berman, Eric G. (tháng 3 năm 2019). Beyond Blue Helmets: Promoting Weapons and Ammunition Management in Non-UN Peace Operations (PDF). Small Arms Survey/MPOME. tr. 43. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2019.
- ^ "9 mm Conversion of the PPSh-41". Bill's PPSh-41 Pages. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2010.
- ^ Laemlein, Tom (ngày 30 tháng 1 năm 2018). "Guns of the Tet Offensive". American Rifleman.
- ^ Zaloga, Steven J.; Hook, Richard (1982). The Polish Army 1939-1945. Osprey Publishing. tr. 39. ISBN 0-85045-417-4.
- ^ "About Us: Radom Before the Kalashnikov". Łucznik Arms Factory. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
- ^ "About us". Cugir Arms Plant SA. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
- ^ Infanteria Română - 180 de ani (PDF) (bằng tiếng Romania). București: Editura Centrului-Tehnic Editorial al Armatei. 2010. tr. 261. ISBN 978-606-524-071-1. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2015.
- ^ "World Infantry Weapons: Sierra Leone". World Inventory. 2007–2013. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2016 – qua Google Sites.
- ^ McNab 2014, tr. 23.
- ^ 적의 무기에서 아군 무기로!! 6.25 전장을 뒤집은 노획무기들 (bằng tiếng Anh), Republic of Korea Armed Forces Defense Media Agency, truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023
- ^ Peterson, Philip (2011). Standard Catalog of Military Firearms: The Collector's Price and Reference Guide. Iola, WI: Gun Digest Books. tr. 479. ISBN 978-1-4402-1451-6.
- ^ Krott, Rob (2008). Save the Last Bullet for Yourself: A Soldier of Fortune in the Balkans and Somalia. Philadelphia: Casemate Publishers. tr. 175. ISBN 978-1-932033-95-3.
- ^ Raeburn, Michael (1978). We Are Everywhere: Narratives from Rhodesian Guerillas. New York City: Random House. tr. 1–209. ISBN 978-0-39450-530-5.
- ^ "Jackal Hunt One". Outpost. British South Africa Police. tháng 3 năm 1968. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2018 – qua Rhodesia.nl.
- ^ "PPSh41 Sub Machine Gun". Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2009.
- ^ a b "Modern Firearms' K-50M Submachine Gun". Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2009.
- ^ "VC Weapons". Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2009.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Campbell, David (2016). Israeli Soldier vs Syrian Soldier: Golan Heights 1967–73 (bằng tiếng Anh). Bloomsbury Publishing. ISBN 978-1-4728-1331-2.
- Hogg, Ian (2000). Jane's Guns Recognition Guide (ấn bản thứ 2). Glasgow: Janes'. ISBN 0-00-472453-4.
- McNab, Chris (2014). Soviet Submachine Guns of World War II: PPD-40, PPSh-41 and PPS. Weapon 33. Osprey Publishing. ISBN 978-1-78200-794-4.
- Mitzer, Stijn; Oliemans, Joost (2020). The Armed Forces of North Korea: On the Path of Songun. Helion and Company. ISBN 978-1910777145.
- Venter, Al J. (2017). Battle For Angola: The End of the Cold War in Africa c 1975-89 (bằng tiếng Anh). Helion and Company. ISBN 978-1-913118-10-5.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- 17 photos of PPSh41 and its parts
- Photograph of close air support anti-personnel mount
- Photographs of the markings present on different variations of PPSH-41 guns and their clones.
- Bắn thử PPSh-41
- Giới thiệu sơ lược về PPSh
- [1] Lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Wayback Machine
| ||
|---|---|---|
| PPD · PPSh · PPS · PP-19 · PP-90 · PP-90M1 · PP-93 · PP-2000 | ||
| |
|---|---|
| Súng ngắn | TT-33 • Nagant M1895 • Mauser C96 |
| Súng trường và Súng cạc-bin | AVS-36 • SVT-40 • Mosin Nagant • CKC |
| Súng tiểu liên | PPD-40 • PPSh-41 • PPS |
| Lựu đạn | F1 • RGD-33 • RG-41 • RG-42 • M1914/30 • RPG-40 • RPG-43 • RPG-6 |
| Súng máy và các vũ khí lớn khác | M1910 Maxim • DS-39 • DP • SG-43 Goryunov • Maxim-Tokarev • DShK • PTRD-41 • PTRS-41 • PV-1 • ROKS-2/ROKS-3 |
| Đạn | 7,62x25mm Tokarev • 7,62x38mmR • 7,62x54mmR • 12,7×108mm • 14,5×114mm • 7,63x25mm Mauser |
Từ khóa » Súng Tiểu Liên Mới Của Nga
-
Súng Tiểu Liên PPK-20: Vũ Khí Mới Của Quân đội Nga
-
Tiểu Liên Mới Của Nga Bắn Xuyên Thủng áo Giáp Chống đạn
-
Phiên Bản Tiểu Liên PPK-20 Nhỏ Gọn Bắn đạn Súng Ngắn Dùng Cho ...
-
Súng Máy Và Súng Tiểu Liên Tốt Nhất Của Nga - Sputnik
-
Bí Mật Phiên Bản AK-400 – Phiên Bản đặc Biệt Dành Cho đặc Nhiệm ...
-
Nga Giới Thiệu 2 Loại Súng Cầm Tay Mới Tại Army 2021
-
Sự Lột Xác Của Súng Trường AK Qua 2 Thế Kỷ
-
Các Phi Công Nga được Trang Bị Súng Tiểu Liên Thu Nhỏ - Tiền Phong
-
Súng Tiểu Liên - Tin Tức Cập Nhật Mới Nhất Tại
-
[Ảnh] Khám Phá Sức Mạnh Tiểu Liên Siêu Hiện đại Của Nga
-
3 Loại Súng Của NATO được đặc Nhiệm FSB Của Nga Sử Dụng - PLO
-
Quân đội Nga đưa Vào Sử Dụng Loại Súng Tiểu Liên AK Mới | VTV.VN
-
Súng Trường Tấn Công – Wikipedia Tiếng Việt