Protein Niệu Trong Bệnh Thận Tiết Niệu - Dieutri.Vn
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Bình thường protein không có hoặc rất ít trong nước tiểu. Khi protein xuất hiện thường xuyên và số lượng nhiều trong nước tiểu thường có ý nghĩa bệnh lý và là một trong những chỉ điểm quan trọng của bệnh lý thận tiết niệu.
Xác định protein niệu (Proteinuria) rất có giá trị trong chẩn đoán các bệnh lý thận tiết niệu. Hiện nay, xét nghiệm protein niệu được xem như là một test sàng lọc bệnh lý thận, tiết niệu.
Về mặt số lượng, có thể phân loại
Protein niệu sinh lý: Khi protein dưới 30 mg/ 24 giờ.
Microprotein niệu (protein niệu vi thể): Khi protein 30 - 300 mg/ 24 giờ.
Protein niệu thực sự: Khi protein trên 300 mg/24 giờ.
Mã số (theo ICD 10): N06.
Protein niệu sinh lý
Mỗi ngày, có từ 10 kg đến 15 kg protein huyết tương đi qua tuần hoàn thận, nhưng chỉ có 100 đến 150 mg được bài tiết ra trong nước tiểu trong vòng 24 giờ.
Protein được tiết ra nước tiểu từ thành mao mạch cầu thận và hầu hết lượng protein này được tái hấp thu ở ống lượn gần.
Ở người bình thường, khoảng 60% lượng protein niệu có nguồn gốc từ huyết tương, 40% còn lại có nguồn gốc từ thận và từ đường tiết niệu.
Protein có nguồn gốc từ huyết tương, bao gồm:
+ Albumin.
+ Các Globuline có trọng lượng phân tử thấp.
+ Các Hormone có cấu trúc là các chuỗi peptid.
Protein có nguồn gốc từ thận và từ đường tiết niệu, bao gồm:
+ Protein Tamm - Horsfall: Được tổng hợp ở nhánh lên của quai Henlé, chức năng của nó đến nay vẫn chưa được biết rõ.
+ IgA.
+ Urokinase.
Các phương pháp xác định protein niệu
Phương pháp định tính
Đốt nước tiểu: Đặc điểm lý học của protein là đông vón ở nhiệt độ cao, lợi dụng đặc điểm này, có thể phát hiện được protein có trong nước tiểu bằng cách đốt nước tiểu. Đựng nước tiểu trong một ống nghiệm và đốt trên ngọn đèn cồn, protein trong nước tiểu sẽ đông vón khi nhiệt độ của nước tiểu trên 700C. Hiện tượng đông vón của protein trong nước tiểu sẽ làm vẩn đục nước tiểu và dễ dàng nhận ra bằng mắt thường. Tùy thuộc vào nồng độ protein niệu cao hay thấp mà mức độ vẫn đục nước tiểu thay đổi, có thể chỉ lởn vởn đục ít, có thể nước tiểu đông quánh lại khi lượng protein trong nước tiểu nhiều.
Làm lạnh bởi acide sulfosalicylique hay trichloracétique: Dựa vào tính chất lý học của protein là đông vón trong môi trường acid, khi nhỏ acid vào để tìm hiện tượng đông vón protein.
Phương pháp bán định lượng
Dùng que thử nước tiểu Là phương pháp được áp dụng phổ biến nhất hiện nay, nhất là trong vấn đề sàng lọc bệnh thận trong cộng đồng. Các que thử này được tẩm Tétra bromephénol citraté (pH3), màu bị biến đổi từ vàng sang xanh khi có protein trong nước tiểu.
Phản ứng này phát hiện protein với lượng ít nhất là 150 - 200 mg/l.
Kết quả được biểu thị dưới dạng kết quả: âm tính, Protein niệu vết, 1+ đến 4+ tuỳ thuộc vào mức độ thay đổi màu sắc của que thử khi so sánh với bảng màu chuẩn.
Nhược điểm của phương pháp này là không phát hiện được các Globulin miễn dịch chuỗi nhẹ.
Que thử nước tiểu ngày nay không chỉ được dùng để xác định protein niệu mà còn kết hợp với việc phát hiện các thông số khác.
Định lượng Protein niệu
Cách lấy nước tiểu 24 giờ: sáng ngủ dậy, lúc 6h sáng người bệnh đi tiểu hết sau đó tính từ lúc này đến 6 h sáng hôm sau khi nào đi tiểu đều phải đi vào trong bô đó, sáng hôm sau ngủ dậy đi tiểu bãi cuối cùng lúc 6h và đong xem nước tiểu cả ngày là bao nhiêu, lấy 5 ml nước tiểu để làm xét nghiệm.
Được tiến hành tại phòng xét nghiệm hóa sinh. Có nhiều phương pháp, có thể dùng ion đồng (Cu2+).
Cần phải tính ra lượng Protein niệu / 24 giờ.
Xác định được MicroProtein niệu (Protein niệu vi thể, từ 30 -300 mg/24giờ).
Phát hiện được cả Globulin chuỗi nhẹ.
Điện di Protein niệu
Thường áp dụng phương pháp dùng Cellulose Acetate.
Xác định được bản chất của protein niệu, rất có ích trong việc xác định nguyên nhân của protein niệu.
Dựa vào kết quả điện di, có thể chia Protein niệu thành các loại:
+ Protein niệu chọn lọc: Khi thành phần Albumin chiếm trên 80% tổng lượng protein niệu. Thường do bệnh cầu thận gây ra, hay gặp nhất là hội chứng thận hư có tổn thương tối thiểu trên sinh thiết thận.
+ Protein niệu không chọn lọc: Khi Albumin chiếm dưới 80% tổng lượng protein niệu, loại này thường bao gồm hầu hết các thành phần protein có trong huyết tương. Hầu như tất cả các bệnh lý thận, tiết niệu đều thuộc loại protein niệu không chọn lọc này.
+ Protein niệu gồm phần lớn là các protein bất thường: Gồm một đỉnh nhọn của Beta hoặc gamma globulin, do bài tiết bất thường một Globulin miễn dịch đơn dòng chuỗi nhẹ, thường là Protein Bence-Jones. Protein này có đặc tính lý học là động vón ở nhiệt độ khoảng 500C và tan ra ở nhiệt độ 1000C. Đặc tính này có được khi trong thành phần Protein niệu có trên 50% là Protein Bence-Jones.
+ Các Protein ống thận: Chủ yếu là các Globulin trọng lượng phân tử thấp, các loại này dễ phát hiện khi điện di trên thạch Polyacrylamide. Với phương pháp này thì các protein với trọng lượng phân tử khác nhau có trong nước tiểu sẽ tách biệt nhau dễ dàng.
Các tình huống lâm sàng của protein niệu
Protein niệu thoáng qua
Là loại protein niệu không xảy ra thường xuyên, liên quan đến một vài tình trạng sinh lý hoặc bệnh lý sau:
- Gắng sức.
- Sốt cao.
- Nhiễm trùng đường tiểu.
- Suy tim phải.
- PolyGlobulin.
- Protein niệu tư thế.
Trong đó, cần chú ý đến Protein niệu tư thế: Là protein niệu thường gặp ở người trẻ và biến mất sau tuổi dậy thì. Protein niệu tư thế không có ý nghĩa bệnh lý.
Để chẩn đoán Protein niệu tư thế, phải khẳng định protein này biến mất ở tư thế nằm, bằng cách lấy nước tiểu sau khi cho người bệnh nằm nghỉ 2 giờ.
Protein niệu thường xuyên
Protein có thường xuyên trong nước tiểu thường là biểu hiện của bệnh lý thận tiết niệu hoặc có bất thường về protein huyết tương. Có thể phân loại protein niệu theo 3 loại như sau:
Protein niệu do tăng lưu lượng:
Xuất hiện một lượng lớn protein có trọng lượng phân tử thấp, các protein này được lọc qua các cầu thận bình thường. Khi lượng lọc ra vượt quá khả năng tái hấp thu của ống thận thì protein xuất hiện trong nước tiểu.
Trường hợp này được quan sát thấy trong các bệnh lý tiểu ra protein BenceJones (đa u tuỷ xương), tiểu ra Hemoglobin (do tan huyết) và tiểu ra Myoglobin (do huỷ cơ vân).
Protein niệu ống thận:
Thường không quá 2 gam/24 giờ. Gồm có 3 loại:
+Protein có trọng lượng phân tử trung bình (Beta 2 Microglobulin, Amylase) được lọc qua cầu thận nhưng ống thận không tái hấp thu hết.
+ Protein niệu do ống thận bị tổn thương bài tiết ra (N-Acetylglucosamin, Lysozym).
+ Protein Tamm-Horsfall.
Protein niệu cầu thận:
Trên điện di chủ yếu là Albumin, thường lượng nhiều, khi có trên 3,5 g/24 giờ/1,73 m2 da thì chẩn đoán hội chứng thận hư.
Một số điều cần chú ý khi phân tích Protein niệu
Protein niệu cao nhiều không do hội chứng thận hư mà có thể do tăng Globulin chuỗi nhẹ.
Lượng Protein niệu thường giảm xuống khi chức năng thận giảm dưới 50 ml/phút.
Một bệnh lý cầu thận có thể phối hợp với 1 bệnh lý thận kẽ hoặc bệnh mạch máu thận.
MicroProtein niệu: Được định nghĩa khi lượng protein niệu từ 30 - 300 mg/24 giờ, đây là một dấu chỉ điểm rất tốt và tương đối sớm trên lâm sàng cho bệnh cầu thận đái tháo đường. MicroProtein niệu có thể biến mất sau khi điều trị các thuốc ức chế men chuyển.
Từ khóa » đạm Niệu Vi Thể
-
Protein Niệu Là Gì, Có ý Nghĩa Như Thế Nào Trong Chẩn đoán Bệnh ...
-
Đạm Niệu (Protein Niệu): Nguyên Nhân, Triệu Chứng, Chẩn đoán Và ...
-
Protein Niệu - Rối Loạn Di Truyền - Phiên Bản Dành Cho Chuyên Gia
-
Protein Niệu Và Xét Nghiệm Liên Quan - Những Vấn đề Cần Lưu ý
-
Tỉ Lệ đạm Niệu Vi Lượng Trên Bệnh Nhân Tăng Huyết áp Và Các Nguy ...
-
Tiểu Albumin Vi Lượng | BvNTP - Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương
-
Xét Nghiệm Vi đạm Niệu - Microalbuminuria
-
Vai Trò Của Microalbumin Niệu Với Bệnh Lý Tim Mạch Và Bệnh Thận ...
-
Bệnh Đạm Niệu: Nguyên Nhân, Biến Chứng Và Cách điều Trị
-
Protein Trong Nước Tiểu Là Gì? Triệu Chứng Và điều Trị • Hello Bacsi
-
Hướng Dẫn Chẩn đoán Và điều Trị Biến Chứng Thận Do Tiểu đường
-
Protein Niệu Là Gì? Xét Nghiệm Thấy Protein Trong Nước Tiểu
-
Bệnh Thận Do đái Tháo đường - Bệnh Viện Quân Y 103
-
NGHIÊN CỨU ĐẠM NIỆU VI LƯỢNG, NỒNG ĐỘ Hs-CRP TRÊN ...