Quần đảo Trường Sa: Vùng Lãnh Thổ Thiêng Liêng Không Thể Tách Rời ...

Trường Sa! Hai tiếng thiêng liêng, sâu nặng trong trái tim của bao thế hệ người dân Việt Nam. Trường Sa! trạm gác tiền tiêu, pháo đài canh gác, lá chắn vững chắc từ hướng biển; là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng với quốc phòng, an ninh đất nước.

Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân chào cờ trên đảo Sinh Tồn.

Trong chuyến công tác đến với cán bộ, chiến sĩ tại quần đảo Trường Sa, tôi được nghe nhiều câu chuyện kể về những người lính Hải quân kiên cường, mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu để giải phóng Trương Sa. Và hôm nay, nơi “đầu sóng, ngọn gió”, lớp lớp những cán bộ, chiến sĩ trên đảo vẫn kiên trung, bất khuất để bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc- vì sự vẹn toàn lãnh thổ, vì sức sống mãnh liệt của đất nước, con người Việt Nam. Tầm nhìn chiến lược Thong dong dạo bước trên đảo Trường Sa lớn, Trung tá Phạm Văn Điển, Phó Chỉ huy trưởng quân sự đảo Trường Sa dẫn dắt chúng tôi ngược dòng lịch sử của hơn 40 năm về trước khi mà cả nước đang sôi sục dồn tất cả trí và lực cho trận chiến cuối cùng. Câu chuyện bắt đầu với mốc thời gian tháng 3/1975, sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, chiến trường miền Nam chuyển biến có nhiều thuận lợi cho công cuộc thống nhất đất nước. Bộ Tổng tham mưu đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhìn nhận cần gấp rút giải phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa - vùng lãnh hải có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế và quân sự mà quân đội Việt Nam cộng hòa đang chiếm đóng. Khi đó, quần đảo Trường Sa chỉ có 11 đảo do quân đội của 3 nước và vùng lãnh thổ đóng giữ, gồm: Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình; Philippines giữ đảo Thị Tứ, Vĩnh Viễn, Bến Lạc, Nam Côn, Song Tử Đông; chính quyền Việt Nam cộng hòa đóng giữ đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa lớn và mới đặt bia chủ quyền ở đảo An Bang. Lực lượng quân đội Sài Gòn đóng giữ ở đây khoảng 150 lính bảo an, thuộc Tiểu đoàn 371 Phước Tuy. Nhận thấy cần tổ chức giải phóng kịp thời các đảo - nếu chậm, để quân đội nước khác xâm chiếm, tình hình sẽ rất phức tạp nên Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng miền Nam, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo do chính quyền Sài Gòn đang chiếm giữ. Kiến nghị ngay lập tức được ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 25/3/1975 và việc giải phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa do quân đội Việt Nam cộng hòa đóng giữ trở thành một hướng tiến công chiến lược trên biển, cùng song hành với các hướng tiến công trên bộ vào Sài Gòn. Ngày 4/4/1975, thay mặt Thường vụ Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Mật điện số 990B/TK cho đồng chí Võ Chí Công, Chính ủy Quân khu và đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu 5 chính thức giao nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa. Mật điện nêu rõ: Theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy giao nhiệm vụ cho Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 5 và Bộ tư lệnh Hải quân khẩn trương nghiên cứu kế hoạch tác chiến và tiến hành mọi công tác chuẩn bị để khi có thời cơ thì kịp thời giải phóng quần đảo Trường Sa, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân khẩn trương tổ chức lực lượng thích hợp chớp thời cơ đánh chiếm, giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, bởi nếu để chậm, quân đội các nước khác chiếm, tình hình trở nên rất phức tạp không chỉ trên mặt trận quân sự, mà cả mặt trận đấu tranh chính trị và ngoại giao. Bộ Tổng tư lệnh dự kiến cuộc chiến đấu trên biển có thể sẽ gay go, ác liệt, vì ở đó có hạm đội 7 Mỹ và tàu chiến các nước đang hoạt động; vì vậy việc tiến công địch trên Biển Đông phải thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Cán bộ, chiến sĩ phải hết sức bình tĩnh, xử trí tốt các tình huống, phải dũng cảm, mưu trí và sáng tạo, đánh đúng đối tượng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu “Nếu đối phương đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay, nếu nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại. Khó khăn lớn nhất cho Hải quân là giải phóng các đảo trên một vùng biển rộng lớn, trong khi đó lực lượng của ta nhỏ bé, vũ khí, phương tiện kém hơn đối phương cả về số lượng và trình độ hiện đại. Trước tình hình đó, nhiệm vụ được giao cho Đoàn 126, Quân chủng Hải quân (Đoàn đặc công nổi danh với hàng trăm trận đánh chìm tàu chiến của Mỹ) làm lực lượng chủ công, phối hợp với đội đặc công nước của Tiểu đoàn 471 và Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 28, Sư đoàn 2 (Quân khu 5). Tàu vận tải quân sự của Trung đoàn 125 được giao nhiệm vụ chở quân; Trung tá Mai Năng, Trưởng Đoàn 126 là chỉ huy các trận đánh. Ngày 9/4/1975, Cục Quân báo phát hiện chính quyền Sài Gòn bắt đầu rút quân khỏi các đảo. Quân ủy Trung ương lập tức gửi điện tối khẩn cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Hoàng Hữu Thái yêu cầu chỉ thị cho lực lượng hành động kịp thời theo phương án đã định, vì một số nước đang có ý đồ xâm chiếm đảo. Cùng thời điểm này trên đất liền, các cánh quân lớn đang hành quân thần tốc tiến vào thị xã Xuân Lộc, chọc thủng tuyến phòng ngự cuối cùng của quân địch ở cửa ngõ phía Đông Sài Gòn. Bí mật, bất ngờ tiến công giải phóng Trường Sa Đúng 4 giờ ngày 11/4/1975, Đoàn 126 đặc công nước (nay là Lữ đoàn 126 đóng tại Hải Phòng) gồm 170 sĩ quan, chiến sĩ cùng phối hợp với một phân đội hỏa lực của Tiểu đoàn 471 (Quân khu 5) gồm 60 thủy thủ có kinh nghiệm đi biển sử dụng 3 tàu vận tải 673, 674, 675 (trước đây là các “Tàu không số” của Đoàn hải quân vận tải 125) tổ chức hành quân ra đánh địch trên quần đảo Trường Sa. Các tàu cải trang thành tàu đánh cá nước ngoài chở chiến sĩ đặc công rời quân cảng Đà Nẵng tiến về Trường Sa với phương châm tác chiến “bí mật, bất ngờ tấn công”. Các phân đội động viên bộ đội xác định tốt trách nhiệm, ý chí quyết tâm, xử lý chính xác, khẩn trương để giành chiến thắng. Quá trình hành quân, các tàu của ta gặp 3 tàu của địch; chúng dùng máy bay trực thăng kiểm tra và cho rằng là tàu đánh cá của Hồng Kông đang đổi hướng di chuyển về phía Bắc nên không đánh phá.

Tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh tại quần đảo Trường Sa.

Khi tàu của địch đi xa, Trung tá Mai Năng ra lệnh cho cả 3 tàu 673, 674, 675 quay lại tiến về phía đảo Song Tử Tây. Sau gần 3 ngày lênh đênh trên biển, đoàn tàu đến nơi, cách Song Tử Tây vài km giả vờ đánh cá để trinh sát tình hình. Qua trinh sát, bộ đội ta nhận thấy trong các đảo ở Trường Sa mà quân đội Việt Nam cộng hòa chiếm giữ thì đảo Nam Yết là mạnh nhất, có sở chỉ huy chung và khoảng 60 binh sĩ. Đảo Song Tử Tây có khoảng 40 binh lính và mỗi đảo còn lại khoảng 20 người, được trang bị vũ khí bộ binh, súng cối... Các chiến sĩ đặc công của ta chọn đánh đảo Song Tử Tây trước vì đây là chỗ yếu nhất của địch và để thăm dò phản ứng của đối phương, làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại. 19 giờ 30 phút ngày 13/4/1975, tàu vận tải 673 tiếp cận từ phía Đông đảo Song Tử Tây, hai tàu T674 và T675 vòng ra án ngữ hai bên sườn phía Nam và phía Tây đảo. Trời, biển lúc này là một khối đen thăm thẳm, chỉ nghe tiếng sóng ầm ào, trên đảo thi thoảng có ánh đèn tuần tra le lói. Lúc 1 giờ 15 phút ngày 14/4/1975, các chiến sĩ đặc công dùng 7 xuồng cao su đổ bộ lên đảo, chia làm ba mũi tấn công. Bị đánh bất ngờ, quân địch trên đảo chống trả yếu ớt. Sau 30 phút giao chiến, đặc công Hải quân Việt Nam làm chủ đảo Song Tử Tây; 6 lính Việt Nam Cộng hòa tử trận, 33 người bị bắt sống; 2 lính đặc công của ta hy sinh. Rạng sáng ngày 14/4/1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tung bay trên đỉnh cột trước bia chủ quyền trên đảo. Hải quân Việt Nam cộng hòa điều tàu tuần dương HQ-16 và tàu vận tải HQ-402 từ Vũng Tàu ra nhưng không tổ chức phản kích do chưa nắm được thực lực của phía ta; hai tàu này quay về phòng giữ đảo Nam Yết là căn cứ chỉ huy của vùng đảo. Về phía ta, Bộ tư lệnh tiền phương Hải quân nhân dân Việt Nam điều tàu 641 ra thay thế tàu 674 và 675 vì được giao nhiệm vụ chở hàng binh quân lực Việt Nam cộng hòa về Đà Nẵng.

Cán bộ, chiến sĩ trên đảo Trường Sa lớn luyện tập điều lệnh đội ngũ.

Sau khi chiếm đảo Song Tử Tây, bộ đội ta dự định tấn công cùng lúc vào 3 đảo Nam Yết, Sơn Ca và Sinh Tồn nhưng các tàu tuần dương và tàu vận tải của địch đã án ngữ đảo Nam Yết nên yếu tố bí mật bất ngờ không còn. Dựa vào tình hình thực tế và kinh nghiệm, 2 giờ 30 phút ngày 24/4/1975, bộ đội ta tiến đánh đảo Sơn Ca. Sau 30 phút chiến đấu, 2 binh sĩ địch chết ngay trong loạt đạn đầu tiên, 23 người còn lại kéo vào công sự ẩn nấp và đầu hàng. Mất đảo Song Tử Tây và Sơn Ca, cộng với tình hình đất liền đang diễn biến hết sức bất lợi, lúc 20 giờ 45 phút ngày 26/4/1975, Bộ tư lệnh Hải quân quân lực Việt Nam cộng hòa điện ra lệnh di tản các đơn vị còn lại rời khỏi các đảo Nam Yết và Sinh Tồn. Trinh sát kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam đã bắt được bức điện này và lên phương án tác chiến. Ngày 27/4/1975 bộ đội ta làm chủ đảo Nam Yết và Sinh Tồn. Ngày 28/4/1975, đặc công của ta tiến đánh đảo Trường Sa lớn và An Bang. Đúng 10 giờ 20 phút ngày 28/4/1975, ta làm chủ đảo hoàn toàn. 9 giờ sáng ngày 29/4/1975, những đơn vị của Đoàn 126 đặc công nước của Hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp quản các đảo; toàn bộ quân địch trên các đảo bị bắt làm tù binh. Ngay trong ngày 29/4/1975, một số tàu lạ nước ngoài tiến vào gần thăm dò, khi nhìn thấy cờ của Quân giải phóng Việt Nam hiên ngang bay trên các đảo thì lùi ra xa. Khi quần đảo Trường Sa được giải phóng, đúng một ngày sau, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân, dân ta đã giành thắng lợi, non sông Việt Nam liền một dải. Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Hải quân “Bằng mọi giá không để cho quân đội nước ngoài vào chiếm đảo”, bộ đội ta đắp ụ cát, chặt thân dừa giả làm nòng pháo, rồi dùng bao bạt phủ lên cho giống ụ pháo nhằm đánh lừa những con tàu lởn vởn quanh các đảo. Sau vài ngày thăm dò, biết không thể làm gì được, các tàu nước ngoài đành rút đi. Việc giải phóng kịp thời quần đảo Trường Sa, phần hải đảo thuộc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam nằm ở xa đất liền nhất đã góp phần làm nên thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc Trong những ngày đến với Trường Sa, tôi đã in dấu chân trên đảo Trường Sa (lớn), Trường Sa Đông, Sinh Tồn, Tốc Tan B, Cô Lin, Đá Đông A, Đá Tây B, Đá Lát và các Nhà giàn DK1… Đi đến đâu, tôi cũng thấy sự kiên trung, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ trên đảo để bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc- vì sự vẹn toàn lãnh thổ, vì sức sống mãnh liệt của đất nước, con người Việt Nam. Trung tá Phạm Văn Điển, Phó Chỉ huy trưởng quân sự đảo Trường Sa lớn cho biết: Khi mới giải phóng, các đảo trên quần đảo Trường Sa về cơ sở vật chất còn rất đơn sơ, thiếu thốn. Khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, non sông đất nước nối liền một dải, Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng cũng như nhân dân cả nước đặc biệt quan tâm, chú trọng đến xây dựng và củng cố quần đảo Trường Sa. Từ 5 đảo nổi chúng ta giải phóng từ tay chính quyền Sài Gòn, cho đến nay, chúng ta đã đóng giữ trên 21 đảo và 33 điểm đóng quân. 42 năm qua kể từ ngày giải phóng, quần đảo Trường Sa đã và đang đổi mới từng ngày trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, lớn lên cùng với sự phát triển của đất nước. Đứng giữa biển, trời mênh mênh, Thiếu tá Hoàng Quốc Tuấn, Chỉ huy trưởng đảo Tiên Nữ tâm sự: Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển từ ngàn đời của dân tộc ta. Việt Nam là quốc gia ven biển, có bờ biển dài trên 3.260 km, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang; trung bình, cứ 100 km2 đất liền thì có 1 km bờ biển (trung bình của thế giới là 600 km2 đất liền có 1 km bờ biển). Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2, chiếm khoảng 30% diện tích biển Đông; diện tích biển gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Chính vì vậy, biển, đảo nước ta có vị trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng CNXH, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước và an ninh, chính trị.

Đảo Đá Đông hiên ngang giữa biển trời.

Từ vị trí quan trọng của biển, đảo, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên các vùng biển, đảo. Theo Chuẩn Đô đốc Phạm Văn Vững, Ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân chủng, Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân thì quần đảo Trường Sa là vùng lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam. Biển, đảo nước ta là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng, an ninh của đất nước, hình thành nên tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, là những điểm tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, đồng thời là lá chắn vững chắc từ hướng biển, tạo thế liên hoàn biển- đảo- bờ trong thế trận phòng thủ. Để giữ vững chủ quyền quần đảo trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, tăng cường hơn nữa phát triển kinh tế biển với chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Đối với Hải quân, trực tiếp là các lực lượng đang làm nhiệm vụ trên các đảo, cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa công tác giáo dụcchính trị tư tưởng, đẩy mạnh huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, phối hợp hiệp đồng và các mặt công tác khác nhằm xây dựng các đảo thực sự mạnh về phòng thủ nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Trần Minh Giang Nguồn: congly.vn

Từ khóa » đặc Công Việt Nam đánh Trung Quốc ở Trường Sa