Quan Hệ Pháp Luật - Giáo Trình Pháp Luật Việt Nam đại Cương
Có thể bạn quan tâm
Quan hệ pháp luật
- Khái niệm quan hệ pháp luật
Con người để sinh tồn và phát triển buộc phải liên kết với nhau thành những cộng đồng, giữa các thành viên trong cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ về vật chất, về tinh thần với nhau, những mối liên hệ này được gọi là các “quan hệ”.
Trong đời sống, con người tham gia các quan hệ xã hội khác nhau: quan hệ chính trị, pháp luật, kinh tế, gia đình,… Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú, có thể là quan hệ gia đình, quan hệ lao động, quan hệ tài sản, quan hệ chính trị,… Tính đa dạng của quan hệ xã hội dẫn đến sự phong phú của các hình thức tác động đến chúng. Trong lịch sử, người ta đã dùng rất nhiều loại quy tắc xử sự khác nhau (quy phạm xã hội) để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chúng có thể là quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, phong tục, tập quán, quy phạm pháp luật,… tuy nhiên, hiệu quả tác động của mỗi loại quy phạm xã hội có sự khác nhau rất lớn. Chính vì vậy, việc lựa chọn loại quy phạm xã hội nào cần áp dụng có ý nghĩa rất lớn đối với việc đạt mục đích mà con người đặt ra khi tác động vào quan hệ xã hội. Trong hệ thống các quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng. Chúng là loại quy phạm có hiệu quả nhất.
Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:
Quan hệ pháp luật thuộc loại quan hệ tư tưởng. Quan hệ pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng và phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, mỗi kiểu quan hệ sản xuất có kiểu pháp luật phù hợp. Các quan hệ pháp luật phát triển, biến đổi theo sự phát triển, biến đổi của quan hệ sản xuất và phục vụ quan hệ sản xuất.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí. Tính ý chí của quan hệ pháp luật thể hiện ở chỗ quan hệ pháp luật là dạng quan hệ cụ thể hình thành giữa những chủ thể nhất định. Các quan hệ này được hình thành thông qua hành vi có ý chí của các chủ thể. Có những quan hệ pháp luật mà sự hình thành đòi hỏi cả hai bên chủ thể đều phải thể hiện ý chí, như quan hệ hợp đồng. Cũng có những loại quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở ý chí nhà nước, như quan hệ pháp luật ngân sách nhà nước (các loại thuế).
Thông qua ý chí, quan hệ xã hội từ trạng thái vô định (không có cơ cấu chủ thể nhất định) đã chuyển sang trạng thái cụ thể (có cơ cấu chủ thể nhất định).
Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, tức là trên cơ sở ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thể chế hoá, vì thế, quan hệ pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc.
Nội dung của quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Đây là đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật. Trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt pháp luật.
Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật luôn gắn liền với sự kiện pháp lý. Nói cách khác, chỉ khi có các tình huống, hiện tượng, quá trình xảy ra trong cuộc sống được ghi nhận trong quy phạm là sự kiện pháp lý và các chủ thể pháp luật tham gia thì mới xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội, xuất hiện dưới sự tác động của các quy phạm pháp luật, trong đó các bên tham gia quan hệ có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ đó được pháp luật ghi nhận và nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, cưỡng chế nhà nước.
- Cấu thành của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và khách thể.
a, Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ pháp luật, nói cách khác, đó là các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ do nhà nước quy định trong pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức.
Những người có ý thức và ý chí nhất định sẽ có đủ tư cách để tham gia quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là quan hệ giữa người với người. Trong quan hệ pháp luật có sự tham gia của con người hoặc tổ chức của con người. Chủ thể pháp luật có những phẩm chất riêng biệt nhà nước trao cho là năng lực chủ thể.
Năng lực chủ thể gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi của mình thực hiện một cách độc lập các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các quan hệ xã hội.
Đây còn là khả năng của chủ thể có thể tự bản thân mình thực hiện các hành vi pháp lý do nhà nước quy định, tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội. Muốn tham gia vào các quan hệ, con người phải có ý thức và ý chí nhất định. Thực tế không phải tất cả mọi người đều có ý thức, ý chí nhất định do đó không phải tất cả mọi người đều có đầy đủ các tiêu chuẩn để tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi hình thành nên quyền chủ thể của quan hệ pháp luật. Như vậy, khả năng trở thành chủ thể quan hệ pháp luật là thuộc tính không tách rời của mỗi cá nhân nhưng không phải là thuộc tính tự nhiên và sẵn có khi người đó sinh ra, mà do nhà nước thừa nhận cho mỗi tổ chức hoặc cá nhân.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật bắt đầu kể từ khi cá nhân đó sinh ra, có những trường hợp con chưa sinh ra nhưng đã được quyền thừa kế “con sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết” (Điều 635 Bộ luật dân sự 2005).
Năng lực pháp luật của cá nhân chấm dứt khi cá nhân chết. Việc xác định một người đã chết dựa vào thực tế và có chứng tử của Uỷ ban nhân dân cơ sở. Cũng có những trường hợp việc xác định một người là đã chết căn cứ vào quyết định của Toà án tuyên bố chết (các Điều 81, 82 của Bộ luật dân sự 2005). Trong một số lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ thuộc vào sự phát triển thể lực và trí lực của cá nhân. Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi cá nhân đã đạt đến độ tuổi nhất định và đạt được những điều kiện nhất định. Phần lớn pháp luật các nước đều lấy độ tuổi 18 tuổi tròn và tiêu chuẩn lý trí làm điều kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ thể của đa số các nhóm quan hệ pháp luật. Trên cơ sở đó pháp luật Việt Nam cũng quy định độ tuổi để xác định năng lực hành vi đầy đủ của cá nhân là từ đủ mười tám tuổi trở lên (trừ những trường hợp khác như tuổi kết hôn đối với nam từ 20 tuổi trở lên).
Đối với tổ chức, năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một lúc, vào thời điểm tổ chức được thành lập và được ghi nhận trong điều lệ, quy chế hoặc văn bản của nhà nước, năng lực hành vi của tổ chức thực hiện thông qua người đứng đầu cơ quan hoặc người đại diện (tổ chức có thể có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân).
* Pháp nhân.
Theo Điều 84 của Bộ luật dân sự 2005, một tổ chức có pháp nhân tổ chức phải có những điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất, được thành lập hợp pháp. Được thành lập hợp pháp là do cơ quan có thẩm quyền thành lập (thường là các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp), đăng ký kinh doanh (đối với các doanh nghiệp) hoặc công nhận (đối với các hội, quỹ từ thiện). Ví dụ: Đại học Huế được thành lập theo Nghị định số 30/CP ngày 4 tháng 4 năm 1994 của Chính phủ.
Điều kiện thứ hai, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ trong đó có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các thành viên của pháp nhân. Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, mục đích hoạt động và số lượng thành viên pháp nhân lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp.
Điều kiện thứ ba, có tài sản độc lập với tài sản của cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó.
Điều kiện thứ nhất tư, nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập. Khác với cá nhân, pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật thông qua người đại diện hợp pháp (gồm người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền). Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người đứng đầu pháp nhân theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (như giám đốc Đại học Huế, Hiệu trưởng các trường thành viên,…) hoặc theo điều lệ của pháp nhân (Tổng giám đốc, giám đốc các doanh nghiệp). Người đại diện theo pháp luật có thể uỷ quyền cho thành viên của pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật nhân danh pháp nhân.
b, Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa bao gồm quyền và nghĩa vụ chủ thể.
* Quyền chủ thể: Quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép.
Quyền chủ thể có những đặc điểm như sau:
Một là, khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép. Pháp luật quy định cá nhân có quyền ký kết hợp đồng, khiếu nại, tự do ngôn luận.
Hai là, khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở nó thực hiện các quyền và nghĩa vụ hoặc yêu cầu tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này. Chẳng hạn cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt cản trở trái pháp luật đối với chủ sở hữu khi thực hiện quyền tài sản, chấm dứt vi phạm các quyền nhân thân (sử dụng hình ảnh với mục đích kinh doanh không xin phép), quyền tác giả.
Ba là, khả năng các chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình như yêu cầu huỷ hợp đồng do lỗi của bên kia, yêu cầu bồi thường thiệt hại, kiện đòi nợ.
Các thuộc tính kể trên của quyền chủ thể là thống nhất không thể tách rời.
* Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể: Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác.
Nghĩa vụ pháp lý có những đặc điểm sau:
Chủ thể cần phải tiến hành những hành vi bắt buộc nhất định. Những hành vi này được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động như không vứt rác nơi công cộng, không tự ý sửa sửa chữa thay đổi cấu trúc nhà đang thuê, đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm.
Việc thực hiện những hành vi bắt buộc nhằm đáp ứng quyền chủ thể của chủ thể bên kia. Thông thường trong quan hệ pháp luật này thường có hai bên tham gia xác định như bên vay phải trả nợ bên cho vay, bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật mà mình gây ra.
Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện những hành vi bắt buộc.
Đối với người vi phạm tuỳ theo từng trường hợp phải chụi trách nhiệm pháp lý tương ứng như bị phạt tiền do không đọi mũ bảo hiểm, buộc phải trả nợ và chịu lãi suất nợ quá hạn do chậm trả, bị phạt hành chính do hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Quyền và nghĩa vụ chủ thể là hai hiện tượng pháp lý không thể thiếu trong một quan hệ pháp luật cụ thể. Trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ chủ thể luôn thống nhất, phù hợp với nhau. Nội dung, số lượng và các biện pháp bảo đảm thực hiện chúng đều do nhà nước quy định hoặc do các bên xác lập trên cơ sở các quy định đó.
c, Khách thể của quan hệ pháp luật
Khách thể quan hệ pháp luật là lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân mà vì chúng các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật, nghĩa là, vì chúng mà họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình.
Khách thể của quan hệ pháp luật cần được phân biệt với đối tượng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà pháp luật tác động tới. Tuỳ theo từng quan hệ pháp luật mà khách thể khác nhau: Chẳng hạn quyền sở hữu trong Luật Dân sự có khách thể là tài sản, khách thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu trong Luật hình sự là quyền sở hữu, còn đối tượng tác động là tài sản,…
- Sự kiện pháp lý
Quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt dưới tác động của ba điều kiện: quy phạm pháp luật, năng lực chủ thể và sự kiện pháp lý.
Quy phạm pháp luật tác động tới các quan hệ xã hội nhất định và biến chúng thành quan hệ pháp luật.
Như vậy, quy phạm pháp luật và năng lực chủ thể là hai điều kiện chung cho sự xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật.
Tuy nhiên, sự tác động của quy phạm pháp luật đển làm nảy sinh quan hệ pháp luật là một cơ chế phức tạp, quy phạm pháp luật chỉ có thể làm nảy sinh quan hệ pháp luật giữa các chủ thể nếu có sự kiện pháp lý xuất hiện.
Sự kiện pháp lý là những tình huống, hiện tượng, quá trình xảy ra trong đời sống có liên quan với sự xuất hiện, thay đổi và chấm dứt các quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý là những sự kiện trong số các sự kiện xảy ra trong thực tế, là bộ phận của chúng. Song, không phải sự kiện thực tế nào cũng là sự kiện pháp lý, sự kiện thực tế chỉ trở thành sự kiện pháp lý khi pháp luật xác định rõ điều đó.
Thứ nhất, căn cứ vào tiêu chuẩn ý chí, sự kiện pháp lý được phân thành sự biến và hành vi.
Sự biến là những hiện tượng tự nhiên (không phụ thuộc vào ý chí của con người) mà trong những trường hợp nhất định, pháp luật gắn sự xuất hiện của chúng với sự hình thành ở các chủ thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Như vậy những sự kiện này được pháp luật quy định trong những quan hệ pháp luật cụ thể, ví dụ: bão, lụt, thiên tai, hoả hoạn,..
Hành vi pháp lý (hành động hoặc không hành động) là những sự kiện xảy ra theo ý chí của con người, là hình thức biểu thị ý chí của chủ thể pháp luật, ví dụ: hành vi ký kết hợp đồng, hành vi trộm cắp, sự bỏ mặc không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,…
Hành vi được chia thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp.
Thứ hai, căn cứ vào số lượng những hoàn cảnh, điều kiện làm nảy sinh hậu quả pháp lý, có thể phân chia sự kiện pháp lý thành sự kiện pháp lý đơn giản và sự kiện pháp lý phức tạp.
Sự kiện pháp lý đơn giản chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự xuất hiện với sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ khi một người chết làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng.
Sự kiện pháp lý phức tạp bao gồm một loạt các sự kiện mà chỉ với sự xuất hiện của chúng các quan hệ pháp luật mới phát sinh, thay đổi hay chấm dứt. Ví dụ khi một người chết thì có thể phát sinh quan hệ thừa kế nếu người đó có tài sản (thừa kế phát sinh khi người có tài sản chết); khi cơn bão xảy trên biển có hai ngư dân đánh cá ở khu vực đó không thấy trở về sau một năm thì những người có liên quan có quyền yêu cầu tuyên bố người đó đã chết.
Thứ ba, căn cứ vào hậu quả của sự kiện pháp lý, ta có sự kiện pháp lý phát sinh quan hệ pháp luật, sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật và sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật.
Giáo trình Pháp luật Việt Nam đại cương
Từ khóa » đại Cương Pháp Luật Việt Nam Là Gì
-
Pháp Luật đại Cương Nghiên Cứu Vấn đề Gì? Luatsux - Luật Sư 247
-
Chương Trình Môn Học Pháp Luật đại Cương
-
Pháp Luật đại Cương Tiếng Anh Là Gì?
-
[PDF] PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
-
Giáo Trình Pháp Luật đại Cương đầy đủ - Áo Kiểu Đẹp
-
Top 14 đại Cương Pháp Luật Việt Nam Là Gì
-
Khái Quát Chung Về Pháp Luật đại Cương - Tài Liệu Text - 123doc
-
Mục Tiêu Và Yêu Cầu Của Pháp Luật đại Cương
-
Pháp-luật-đại-cương De Cuong Phap Luat Dai Cuong - StuDocu
-
Đại Cương Về Nhà Nước Và Pháp Luật | ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-
Pháp Luật đại Cương Là Gì
-
Giáo Trình Đại Cương Về Nhà Nước Và Pháp Luật - Khoa Luật
-
Thực Hiện Pháp Luật - Giáo Trình Pháp Luật Việt Nam đại Cương