Quan Lớn Đệ Tam: Thần Tích, Văn Khấn, Nơi Thờ | Thoải Phủ

Là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, Quan lớn Đệ Tam thoải phủ được giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Vậy thần tích về Quan lớn Đệ Tam như thế nào? Đền thờ Quan Đệ Tam hiện nay ở đâu? Người có Căn quan đệ Tam tính cách và cuộc sống sẽ ra sao? Văn khấn Quan lớn Đệ Tam thoải phủ?.... Hãy cùng Tamlinh.org tìm hiểu.

quan lon de tam thoai phu

Khâm Sai Thoải Phủ Đệ Tam Hoàng Thái Tử Vương Quan Tôn Thần

Quan lớn đệ Tam là ai?

- Tên đầy đủ: Đệ Tam Thượng thiên hoàng thái tử vương quan - Tước phong: Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần.

Như vậy, quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam. Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương.

Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan. Vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng.

Quyền phép của Quan lớn Đệ Tam

Khi hát văn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:

“Hoá tức thì lâu đài điện các Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi Có phen lấy ngọc lưu ly Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Trong hệ thống thống thần linh Tam, Tứ Phủ, Quan Lớn Đệ tam là vị nam thần có vai trò quan trọng, ông đảm nhiệm cai quản “đầu đồng”, bút phê sớ khảo. Là vị thần tối cao của Thoải phủ (một trong bốn phủ: Thiên – Địa – Nhạc – Thoải), ông được thờ phụng khắp các khu vực sông nước với nhiều sự linh thiêng của bậc Thượng đẳng thần.

Thần tích về Quan lớn đệ tam

Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng) do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang (dân gian coi nơi thờ chính) như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi. Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực.

Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý.Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi.

Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc).

Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh.

Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông.

Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian (1)

(1)Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Thủy Đế và nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông).

Bấy giờ Thục Phán có ý định cướp ngôi vua Hùng Duệ Vương. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc đánh vào kinh đô. Duệ Vương bèn lập đàn cầu đảo. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, quân Thục đều bị tiêu diệt.

Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

den lanh giang ha nam, quan lon de tam

Đền Lảnh Giang

Đền thờ quan lớn đệ tam ở đâu?

Hiện nay, đền thờ Quan lớn Đệ Tam chính là:

  • Đền Lảnh Giang (Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam): Đền Lảnh Giang còn có tên gọi là Lảnh Giang linh từ, tọa lạc tại thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Đền thờ Tam vị danh thần là ba anh em Quan Lớn Đệ Tam và thờ Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử. Đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, uy linh. Tam quan xây theo kiểu chồng diêm tám mái, các đầu đao cong vút thanh thoát hình đầu rồng đắp nổi, đan xen mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm mại. Phía trước Tam quan là hồ bán nguyệt, nước hồ phẳng lặng như bàn ngọc thạch bày lên những đóa hoa súng đỏ tươi. Giũa hồ, ngọn bảo tháp đứng trầm mặc được nối với cửa đền bằng chiếc cầu cong tạc hình lưỡi long hướng địa, ẩn hiện dưới bóng cây si già hàng ngàn năm tuổi. Đền Lảnh Giang được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc gồm 3 tòa, 14 gian, hai bên có nhà khách, lầu thờ, 4 bên có tường gạch bao quanh. Trong đền có nhiều đồ thờ giá trị như tượng Tiên Dung công chúa, khánh long đình, khám đặt tượng thờ 3 vị tướng thời Hùng vương được chạm khắc công phu theo phong cách đời Lê. Ngoài ra đền còn giữ được hai kiệu bát cống long đình, một sập thờ và nhiều hoành phi, câu đối, nhang án. Đến Đền Lảnh Giang chúng ta có thể đến chiêm ngưỡng đền thờ Cô Bơ Thoải Phủ ngay bên Đền Lảnh Giang. Xung quanh đền Lảnh Giang còn có Đền Đức Vua Cha thờ vua Lê; Đền thờ Ngọc Hoa Công chúa, em gái của Tiên Dung Công Chúa; đền thờ Trần Khánh Dư, một vị tướng của Trần Hưng Đạo.
  • Xích Đằng (Hưng Yên): Toàn bộ ngôi đền được xây dựng trên một khu đất rộng, kiến trúc nếp nhà cao, thoáng đãng, tăng thêm vẻ hoành tráng cho ngôi đền. Tam quan được xây dựng theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái là khoảng sân đền có đặt đôi rùa đá và đôi nghê đá ngày đêm canh gác cho sự uy linh của ngôi đền. Cung thứ nhất là ban công đồng các quan, tiếp đến là cung Tam tòa Thánh mẫu, cung thứ ba thờ Quan Lớn Đệ Tam, cuối cùng là cung cấm đặt tượng của Ngài được đúc bằng đồng. Ngoài các ban thờ chính còn có các ban thờ khác: Ban chúa Sơn Trang, ban Vương ông nhà Trần, ban thờ ông Hoàng Mười, Hoàng Bảy… Trong đền có rất nhiều hiện vật giá trị: Hai quả chuông đồng, hệ thống các bức đại tự, câu đối được sơn son thiếp vàng ca ngợi công đức của Ngài với dân với nước. Trong khuôn viên ngôi đền còn có cây cổ thụ là sự hợp thân, quấn quýt lấy nhau của năm loại cây: Đa, Sung, Khế, Cọ, cây lá nón bao trùm lên mái ngôi đền, tỏa bóng râm mát.

Đây là 2 nơi thờ chính vị nam thần thượng cổ: Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần (dân gian vẫn gọi Quan Lớn Đệ Tam).

Ngoài ra, còn nhiều ngôi đền cạnh sông nước cũng thờ phụng quan Đệ Tam như:

  • Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn
  • Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội
  • Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng
  • Đền Quan Lớn - Phủ Dầy......

quan de tam thoai phu

Sắm lễ Quan lớn đệ tam như thế nào?

Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn hát:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng

Xông pha trăm trận cũng như không

Ra tay cứu nước trừ nguy biến

Tiếng để ngàn thu với non sông

[…] Gươm thần ba thước tay ngang dọc

Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”

Giữa những lời văn dập dìu, khói hương nghi ngút tại khắp đền, phủ thờ Quan Lớn Đệ Tam, mỗi người đến đều chuẩn bị những mâm lễ màu trắng để cầu bình an sức khỏe. Có cụ đã 70, 80 cũng sai con cháu đưa đi lễ Quan vào dịp tháng 6 âm lịch như một cái lệ khó bỏ mà dân gian vẫn gọi tháng tiệc “Thoải phủ

Quan lớn Đệ Tam ngự đồng như thế nào?

Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:

"Lòng thành thắp một chiện nhang Tấu về Thoải Phủ các ban các toà Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình Vốn xưa là chúa Thủy Tinh...”

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

Ngày tiệc Quan Lớn Đệ Tam

Ngày tiệc của Quan Lớn Đệ Tam là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông).

Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

quan de tam thoai phu, dao mau

*****************************

Bản văn Quan lớn Đệ Tam:

Trịnh giang biên giành ngân lai láng Đôi vầng hồng soi rạng nam minh Con vua thủy quốc Động Đình Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng Dọc: Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc Bẩm sinh thành tư chất long nhan Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ Trấn nam minh quy đủ bốn phương Ra uy chấp chính kỉ cương Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

Chốn long giai cầm quyền thay chúa Phép màu quan tối tú tối linh Lệnh truyền thủy bộ chư dinh Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la

Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình Chốn ấy là chốn thủy cung Phú: Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan Đệ tử con tiến văn đàn Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử

Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2) Người con vua thoải quốc động đình Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử

Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao Bẩm dung y diện mạo hồng hào Ngôn trung chính tài cao quán cổ Thơ: Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng Xông pha trăm trận dạ như không Ra tay cứu nước trừ nguy biến Tiếng để ngàn thu với núi sông Xá lửng: Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích Đưa quân chèo du lịch bốn phương Có phen tuần thú sông Thương Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu

Có phen ngự sông Dâu sông Hát Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi Có phen vào lạch ra khơi Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa

Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi Dạo xem phong cảnh mọi nơi Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người

Có phen chơi cửa đài cửa bích Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về

Trải giang khê lên ngàn xuống bể Lảnh Giang từ quý địa danh lam Đền thờ quan tam tía kiệu vàng Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi

Hóa tức thì lâu đài điện các Dâng nước về thủy quốc một khi Có phen lấy ngọc lưu ly Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang

Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả Kéo quân về đóng ngã ba Tranh Xướng ca đàn hát tập tành Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời

Có phen lại về nơi thủy phủ Đóng cân đai áo mũ vào tâu Dăm ba đồng tử theo hầu Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương

Cũng có khi phi thường biến hóa Qua Nghệ An thượng hạ đại giang Thuyền rồng chèo quế buồm lan Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu

Có phen ngự Nam lâu Bắc điện Trở ra về đến huyện Thiên Tôn Dạo miền thác cái thác con Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ

Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo Truyền chư quân đôi đạo tiên phong Chuông kêu cờ phất trống dong Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh

Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn Triều thần văn vũ bách quan Sai lên đón rước vương quan về chầu

Trên các lầu thơ ngâm phú đọc Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên Vua cha giá ngự ngai vàng Phán đòi thái tử vương quan vào chầu

Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ Sai ông lên cứu trợ trần gian Một tay thái tử vương quan Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều

Nay ông đã về chầu nhân đức Độ nhân gian vạn ức siêu sinh Nay ông về chốn thủy đình

Cuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Văn khấn quan lớn Đệ Tam

Bản ngắn gọn dành cho khách thập phương

Nam mô a di dà phật (3 lần)

Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật. Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh. Con lạy: ...........( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Quan Đệ Tam ta khấn: Con lạy Quan lớn Đệ Tam tối linh)

Đệ tử con tên là:............. tuổi:.......... Ngụ tại:.................................

Hôm nay là ngày...., Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.

Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).

Một lần nữa, thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.

Nam mô a di dà phật (3 lần).

Bản đầy đủ dành cho các thanh đồng đạo Mẫu

Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật ,chư Phật mười phương, - Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật. - Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. - Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật. - Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng. Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.

Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ. Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.

Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu: Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh Đông A Phủ.

Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân, Trần Triều Vương Huynh, Vương Đệ. Vương Tử ,Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều

Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Con lạy Tôn Quan Điều Thất.

Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà, Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông Chầu Đệ Tam Thoải Phủ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai Chầu Năm Suối Lân Chầu Lục Cung Nương Chầu Bảy Tiên La Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân Chầu Cửu Sòng Sơn Chầu Mười Đồng Mỏ Con lạy Hội Đồng Chầu Bé - Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ

Con lạy Tam Tòa chúa bói – Hội đồng Chúa bói Chúa chữa - Chúa Mán - Chúa Mường Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ Chúa Đệ Tam Lâm Thao Tiên Chúa Thác Bờ Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa - Năm Phương Chúa Bà

Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng

Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng

Con lạy Tứ Phủ Thánh Cô Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La, cô Tám Đồi Chè , 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải. con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện)

Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải, Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên , Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành , Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên , Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát. Con lạy cậu bé bản Đền( Bản Điện).

Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng- -Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ , Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.

-Đệ tử con tên là:............. tuổi:.......... Ngụ tại:................................. Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:... ( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới) Nhân …………..

Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.

Mong trên Cha độ, dưới Mẫu thương, đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối, phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, vuốt ve che trở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi- Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được bình an vô sự, cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc, đắc tài sai lộc...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!

Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán.....,Tổ Cô Mãnh Tướng, cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên, dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ ,cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm…

------ HẾT -------

“Trăm cảnh nghìn cảnh không bằng bến Lảnh đò Mây”, hàng trăm người dân từ khắp nơi đổ về các nơi phụng thờ nhớ công ơn vị Thần thượng cổ với niềm mong mỏi tâm linh nơi của Thánh. Dù vẫn còn nhiều huyền tích nhưng thượng thần Thổ Lệnh, Quan Lớn Đệ Tam, ba anh em họ Phạm và câu chuyện nàng Quý Nương sinh ra bọc trứng đã ăn sâu tâm thức người dân, để hậu thế về sau khắp miền sông Lục Đầu, Tam Giang, Tranh Giang, Vị Thủy, Đà Giang đều có bóng dáng người anh hùng họ Phạm thời Hùng Triều.

Từ khóa » Bài Khấn đền Tam Kỳ