Quan Lớn Tuần Tranh - Phủ Dầy Nam Định

Quan Lớn Tuần Tranh còn gọi là Đệ Ngũ Tuần Tranh hoặc Ông Lớn Tuần Tranh là vị Quan lớn đứng hàng thứ năm trong hàng Ngũ vị Tôn Quan (sau hàng Tam Tòa Thánh Mẫu) cũng cuối cùng xếp sau Quan lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Ngài là vị tướng tài ba danh tiếng lẫy lừng, nắm quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh được nhân dân nhất mực tôn kính phụng thờ.

Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh

Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh vào thời Hùng Vương

Sự tích cho rằng Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai thứ năm của Vua Bát Hải Động Đình, ngài giáng dưới thời vua Hùng Định Vương trong Hùng Triều Thập Bát, vào một gia đình ở tại phủ Ninh Giang (Hải Dương). Ngài cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Tại nơi đây ngài đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.

Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Truyền thuyết khác về Quan Lớn Tuần Tranh

Theo truyền thuyết, ngày xưa lưu truyền tại khu vực Đền Ninh Giang ngày nay: Ngày xưa ở làng Lạc Dục, huyện Tứ Kỳ có hai vợ chồng nhà nghèo, đã già mà chưa có con. Một hôm người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh bụi cây 2 quả trứng, ngỡ là trứng chim nên đem đi cất cẩn thận. Ngờ đâu, 2 quả trứng nở thành 2 con rắn. Người vợ sợ quá, định đem giết đi nhưng người chồng không nghe, nói rằng có lẽ trời cho ta khuây khỏa cảnh già đây. Quả nhiên, hai con rắn quấn quýt với 2 vợ chồng ông già. Một hôm ông cuốc đất, 1 con nhảy vào đùa nghịch, bị ông cuốc cụt đuôi (Về sau khi linh ứng, dân làng lập miếu thờ, gọi là miếu Ông Cộc, Ông Dài). Nhưng phải một nỗi, 2 con rắn ấy chỉ ăn gà thôi. Ông già đi ăn trộm gà cho chúng ăn nhiều rồi, sau sợ hàng xóm biết thì phải tội nên đành phải mang 2 con rắn vứt xuống sông Tranh. Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau sóng xoáy dữ lắm. Một hôm có bà công chúa muốn qua sông nhưng nớưc xoáy dữ, thuyền không qua được. Sau theo lời quan, dân sở tại đòi 2 vợ chông ông già đến hỏi chuyện. Bà lão sợ quá, bèn lấy 2 nắm cơm vứt xuống sông và nói rằng “con ơi, con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để mẹ khỏi tội”. Bà vừa nói xong thì sóng yên lặng.

>> Xem thêm:

Quan Đệ tứ Khâm Sai

Về sau có ông quan phủ tên là Trịnh Thường Quân được bổ về Ninh Giang. Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm. Một hôm bà đi chơi thuyền trên sông Tranh, gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ. Bà nhất định không nghe. Đêm về, đang ngủ, bỗng lại thấy người đó hiện vào phòng, nhất định đòi lấy. Bà đem chuyện này nói với quan Phủ. QUan Phủ cũng lấy làm lạ nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm ngài có việc quan đi vắng, đến luúc về thì thấy buồng không. Quan Phủ lấy làm phiền lắm, bèn từ chức, ngày ngày ra bờ sông Tranh tìm vợ. Sau gặp một ông Tiên tên là Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của Vua Thủy bắt xuống làm vợ rồi. Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện Vua Thủy mà kêu, Tiên cũng kêu hộ. Sau Vua Thủy cho cả hai vợ chồng về rồi bắt Hoàng tử thứ 5 đem đày ra sông Tranh. Từ đó dân ở 2 bên bờ thấy có nhiều điều kỳ dị nên lập đền thờ, gọi là đền Tranh. Dân quanh bến hoặc thuyền bè xuôi ngược qua đây nếu gặp sóng gió đều kêu cầu, sóng gió sẽ êm. Ai có cầu kiểu gì cũng đều linh ứng. Thỉnh thoảng những đêm trong sáng, có người trông thấy một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra. Người ta liền kháo nhau, đó là Quan lớn Tuần Tranh. Về sau, do có nhiều công giúp dân buôn thuyền, bán bè, qua sông bình an, may mắn nên vị thần được tôn là: Quan “đệ ngũ Tranh Giang Hoàng hợp tôn thần”. Đền Tranh có tiếng linh thiêng, cầu việc gì được việc ấy nên khách đến lễ ngày càng đông…

Kể về nỗi oan Quan Lớn Tuần Tranh

Nói về nỗi oan của Quan Lớn Tuần Tranh khi dâng văn có đoạn:

“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi Người anh hùng mang tội xiềng gông Tháng năm đày chốn Kì Cùng Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân Trước cung điện triều đình tra xét Bắt long hầu truyền hết mọi nơi Oan vì bướm lả ong lơi Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt Nỗi oan này có thấu cao minh Áo bào đã nhuộm chàm xanh Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”

Hầu Quan Lớn Tuần Tranh khi ngự đồng

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm toà Quan Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất. Bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp lễ tiệc, đàn tràng nào cũng đều phải thỉnh Quan Lướn Tuần Tranh về ngự.

Quan lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh giá ngự về đồng.

Khi loan giá ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù. Sau khi làm lễ tấu hương, khai quang, ngài chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các Quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ rồi mới được đem đi hoá.

>>> Xem thêm: Đệ Ngũ Vương Quan

Đền thờ Quan Lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi, đền nào cũng có ban Ngũ vị Tôn Quan thờ ngài, tuy nhiên để nói về đền chính thờ thì phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:

    • Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích).
    • Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).

Quan Lớn Tuần Tranh

Quan đệ Ngũ Tuần Tranh

Đền Tranh thờ Quan Lớn Tuần Tranh

Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh

Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.

Kinh nghiệm đi lễ đền Quan Lớn Tuần Tranh Văn Khấn Quan Lớn Tuần Tranh

(Bản văn Tham khảo)

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu

Kính lạy: Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, cộng đồng các quan.

Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Các bản văn Quan Lớn Tuần Tranh

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 1

Đệ tử tôi khấu đầu củng thủ Tiến văn chầu đệ ngũ Tuần Tranh Uy gia lẫm liệt tung hoành Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài Cảnh thiên thai Quan Tuần giá ngự Các bộ nàng tiên nữ dâng hoa

Ninh Giang chính quán quê nhà Danh lam cổ tích ngự tòa ngôi cao Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy Khắp mọi miền đã dậy thần cơ Cửa sông đâu đó phụng thờ Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh Cảnh am thanh nhiều bề lịch sử Vốn đặt bầy tự cổ dĩ lai Có phen chơi chốn thiên đài Đào, Lan, Quế, Huệ vui vầy xướng ca Trên bát ngát Long, Xà, Hổ phục Dưới tam đầu cửu khúc chầu lên Lân rờn Phượng múa đôi bên Thỉnh ông Đệ Ngũ ngự trên sập rồng Sắc vua phong kiêm tri tam giới Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh Quan Tuần vạn phép muôn linh Quyền ông cai quản thiên binh nhà trời Ngự đồng chơi minh quyền bóng quý Nương uy trời thuỵ khí đoan trang Quan Tuần hiển hách uy quang Ra tay tế độ trần gian được nhờ Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ Nương uy trời cứu độ sinh nhân Đùng đùng nổi trận phong vân Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà Khắp gần xa bách quan đều phục Ai có lòng hưởng phúc hà sa Dù ai bệnh hạn không qua Cầu quan Đệ Ngũ bệnh đà tan không Nay dốc lòng ơn ông vạn bội Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha Hay là cách trở giang hà Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không Tiếng nức danh tung hoành dũng lược Cảnh non bồng nước nhược bồng lai Khi chơi bạn trúc bạn mai Bàn loan tiệc ngọc vui vầy sướng ca Các bộ nàng ra tay bẻ quế Quan dạo chơi thành thị hồ tiên Ba nghìn thế giới dư thiên Tiếng Quan Đệ Ngũ khắp miền đông tây Uy ra thổi gió thét mây Phép ông ứng hiện đổ cây tốc nhà Bốn phương hoà đội ơn đức cả Ai có lòng hỉ xả từ bi Phút thôi ông lại biến đi Cưỡi tướng Bạch Hổ lên chầu thượng thiên Khi cầm quyền còn đương tra sổ Hay ông còn đổi sổ cho ai Thiên binh văn võ gồm tài Đức ông lịch sự đáng trai anh hùng Đêm ngày giữ việc thuỷ cung Đợi lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhân Ai mà cầu nhân đắc nhân Cầu phúc đắc phúc bản thân điều hoà Kiên tri tam giới các toà Ông về giáng ngự xướng ca điện tiền Chữ thập biến làm chữ thiên Phù hộ đệ tử thiên niên hoà hài Một nguyện giáng phúc trừ tai Đồng gia nam nữ ai ai thịnh cường Hai nguyện buôn bán trăm đường Tiền vàng lưu loát bạc vàng đề đa Nguyện thứ ba công hầu cập đệ Hộ tiểu tôi phú quý giầu sang Bốn nguyện quốc phú dân an Can qua ninh tỉnh dân an thái bình Ông về linh giáng điện đình Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 2

Việt sử chép Hùng triều thập bát Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu Dựng nền xã tắc dài lâu Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn Vừa gặp hội bể yên sóng lặng Triệu bách thần gia tặng phong công Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh Bao phen đắp luỹ xây thành Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng Tài cung kiếm sánh cùng võ tử Đức kinh luân ví tựa Trương Tô Phong lưu mã thượng giang hồ Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông Chí đã quyết ngoài vòng cương toả Hay đâu là duyên nợ ba sinh Buồng xuân thiếu bạn chung tình Thoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyền Thề non nước nên duyên kì ngộ Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên Tin đâu khẩn cấp ban truyền Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh Có ngờ đâu đất trời thay đổi, Người anh hùng cổ nặng xiềng gông. Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân Trước cung điện, triều đình tra xét, Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi. Ngài oan vì ong bướm lả lơi, Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung. lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt, Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh. Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh Tấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thường Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ Hỏi trăng già có tỏ cho ai Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi, Vẫn vươn mình há ngại phong ba. Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta, Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng Thà thác vinh còn hơn sống nhục, Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn Kiệt Cùng hiu hắt trăng non Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong Lòng riêng đã quyết với lòng Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời Rừng hoa cỏ thương người đã khuất Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa Nỗi oan chuyển động đất trời Dây oan kia biến thành đôi bạch xà Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc Thử lòng người trong lúc lánh thân Tháng hai vừa tiết trung tuần Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ Đôi bạch xà tựa cửa hai bên Long xà kì dị thảo hiền Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà Ba tháng sau đàn gà đã hết Thương rắn hiền không biết lo sao Khó khăn âu cũng tính liều Ông bà nông lão sớm chiều đông tây Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi Hai ông bà mắc tội cửa công Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng Tậu gà nuôi rắn không dung tội này Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể Thương rắn thần tựa thể thương con Khấu đầu tạ trước công môn Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông Long xà thoát xuống thuỷ cung Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan Khắp duyên hải sấm ran từ đấy Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi Những phường bán nước hại nòi Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc Tội gia hình bõ lúc sai ngoa Lẽ thường tội báo oan gia Hại nhân nhân hại sự đà không sai Nước Văn Lang vào đời Thục Phán, Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng, Triều đình ra lệnh tiến binh, Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời. Bỗng nổi trận phong lôi bão táp Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh Hỏi ra mới biết sự tình Thiết bày hương án lễ trình bên sông Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm Khấn vừa xong gió lặng sóng yên Uy linh sự đã hiển nhiên Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông Công hộ quốc gia phong thượng đẳng, Tước phong hầu truy tặng Đại vương, Bảng vàng thánh thọ vô cương Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai. Gương anh hùng muôn đời soi tỏ, Đất Văn Lang thiên cổ anh linh, Bao phen đắp luỹ xây thành, Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 3

Quyết mở đường dân an quôc thái Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh Tuổi niên thiếu đao binh yên ngựa Sống vì đời thác trợ muôn dân Sinh làm tướng thác làm thần Dấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờ Gương đã tỏ soi đời càng tỏ Trấn Ninh Giang vạn cổ anh linh Bao phen đắp lũy xây thành Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng Quan Lớn Tuần đánh Đông dẹp Bắc Đã quyết lòng đánh giặc ghi công Làm trai đáng mặt anh hùng Sông Thương đột phá treo cung non Đoài Gương anh khí sáng ngời muôn thủa Chí hào hùng rạng rỡ non sông Vinh quang thay nòi giống tiên rồng Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao

Thơ:

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh, Non nước còn ghi trận tung hoành, Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ, Ngàn thu ghi để dấu oai linh. Ai về qua bến sông Tranh, Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời. Dẫu rằng nước chảy hoa trôi, Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi. Loa đồng hỏi nước sông Tranh, Long đao cứu nước, anh hùng là ai? Sông Tranh đáp tiếng trả lời, Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang Nước sông Tranh đêm ngày vẫn chảy Sóng tuôn trào cuồn cuộn về đâu Chúng con nhớ người tráng sĩ lập lên công Ngàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêu Ngựa chiến xông pha đao thần ra trận Sinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôi

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên

>>> Nhấn Subscribe để theo dõi các video về Phủ Dầy Nam Định tại kênh: Phủ Dầy Nam Định Official – YouTube

Từ khóa » Căn ông Tuần Tranh