QUAN NIỆM VỀ KHỐI- KHÔNG GIAN TỈ LỆ NHỊP ĐIỆU TRONG ...
Có thể bạn quan tâm
Các hình khối uốn lượn, mềm mại tao cho không gian kiến trúc đẹp
Sự biểu hịên nghệ thuật của hình khối kiến trúc: có thể đạt được nhờ nắm vững các yếu tố sau :
Mục lục
- Sự biểu hịên nghệ thuật của hình khối kiến trúc: có thể đạt được nhờ nắm vững các yếu tố sau :
- Nguyên tắc 1: Nắm vững ngôn ngữ của các khối cơ bản .
- Nguyên tắc 3: Nắm được quy luật phân chia khối kiến trúc nếu khối có kích thước lớn :
- Nguyên tắc 4: Lựa chọn hình khối kiến trúc phải căn cứ vào :
- Nguyên tắc 5: Đảm bảo tỷ lệ giữa các khối có tầm thước hoặc áp dụng luật phi tỷ lệ tùy theo ý đồ biểu hịên của tác giả cho từng thể loại khối kiến trúc .
- Không gian – Khối và Biến thể của Khối (Phần 1)
- Không gian – Khối và Biến thể của Khối (Phần 2)
- Tỷ lệ và Nhịp điệu trong kiến trúc
- Những yếu tố căn bản trong kiến trúc (Phần 1)
– Ngôn ngữ của các khối cơ bản, tức là các khối được tạo thành bởi kích thước theo các chiều hướng khác nhau, mỗi khối biểu hịên được những cảm xúc khác nhau . – Kết hợp các khối cơ bản với nhau, hoặc dùng một khối cơ bản kết hợp với phong cảnh tự nhiên, hay kiến trúc có sẵn ở xung quanh làm yếu tố tổ hợp . – Tầm nhìn, góc nhìn tới khối hay tổ hợp khối của tác phẩm kiến trúc gây được ấn tượng cảm xúc nhất định . Nguyên tắc thiết kế tổ hợp hình khối không gian kiến trúc :
Nguyên tắc 1: Nắm vững ngôn ngữ của các khối cơ bản .
Nguyên tắc 2: Lựa chọn các khối cơ bản độc lập, hay tổ hợp các khối theo luật bố cục : – Dùng các khối cùng một loại khối cơ bản có kích thước khác nhau hoặc giống nhau, sắp xếp theo các quy luật . – Dùng các khối thuộc nhiều loại khối cơ bản sắp xếp theo vị trí, chiều hướng khác nhau .
Nguyên tắc 3: Nắm được quy luật phân chia khối kiến trúc nếu khối có kích thước lớn :
– Phân chia theo dạng đơn giản hay phức tạp trên các khối . – Phân chia để hỗ trợ về chiều hướng của khối kiến trúc .
Nguyên tắc 4: Lựa chọn hình khối kiến trúc phải căn cứ vào :
– Nội dung sử dụng của công trình – Bố cục mặt bằng . – Ý đồ tư tưởng cần biểu đạt – Thể loại công trình kiến trúc . – Góc nhìn và tầm nhìn thường xuyên của số đông người . – Không gian của tổng thể quy hoạch nơi đặt công trình .
Nguyên tắc 5: Đảm bảo tỷ lệ giữa các khối có tầm thước hoặc áp dụng luật phi tỷ lệ tùy theo ý đồ biểu hịên của tác giả cho từng thể loại khối kiến trúc .
Nguyên tắc 6: Đảm bảo sự thống nhất, hài hòa hoặc tương phản trong tổ hợp khối và trong khung cảnh thiên nhiên, hoặc với các yếu tố quy hoạch ở khu vực gần công trình























Không gian – Khối và Biến thể của Khối (Phần 1)
1. Khối là một khái niệm vật lý nói lên sự chiếm chỗ trong không gian. Nó bao gồm hai mặt: thể tích tức phần không khí nó lấy mất đi khi có mặt trong một không gian cụ thể và khối lượng của thể tích đó trong quan hệ sức hút của trái đất. Tương quan giữa hai mặt thể tích (tính bằng m3) và khối lượng (tính bằng kg – làm đơn vị gốc) tạo ra khái niệm chung là khối. Đối với con mắt, tính thống nhất giữa hai mặt này rất quan trọng bởi mắt người có khả năng nhận biết sự chiếm chỗ trong không gian và có thể nhận biết một phần xúc giác và một phần cầu giác. Hai khối cầu bằng nhau, một đen một trắng cho ta hai cảm giác to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Hai khối cầu bằng đồng và bằng bông có thể tích bằng nhau cho ta hai cảm giác to nhỏ, nặng nhẹ cũng khác nhau.
Trong kiến trúc, điêu khắc và đồ đựng (gốm – sứ) cảm giác đồng thời về hai mặt này của khối có giá trị thẩm mỹ lớn và là một phần của ngôn ngữ tạo hình, vững bền hay thoảng qua, chắc chắn hay mỏng manh. Những tòa nhà thờ Hồi giáo trắng cho cảm giác nhẹ nhàng. Những lâu đài đá xanh, xám thời Phục Hưng ở Florencia cho cảm giác bền chắc hơn những lầu, gác, bằng gỗ Á Đông. Kim tự tháp Ai cập với khối đá xám sẽ gây cảm giác ít vĩnh hằng hơn nếu nó được làm bằng bìa giấy trắng. Tất nhiên ở ba khối thu nhỏ lại ta cũng thấy rõ điều đó. Các nhà kiến trúc Ai Cập, Phục Hưng rõ ràng ý thức về cảm giác đối với sức nặng với người xem khi làm các công trình kiến trúc. Người Gothic với các nhà thờ bằng đá đã cố gắng phá cảm giác nặng nề của đá, tạo cho đá một ấn tượng nhẹ nhàng, thanh thoát. Các nhà kiến trúc Ấn Độ với vô vàn pho tượng bọc ngoài bề mặt kiến trúc đã gây cảm giác ấm áp thân mật cho khối đá vẫn lạnh và đồ sộ, đe dọa của bản thân kiến trúc.
.jpg)
Bức tượng Viên thư lại Kai
Ở điêu khắc cũng vậy, ta hãy tưởng tượng pho tượng “Viên thư lại” bằng đá ở Ai Cập cổ, được chuyển sang gỗ thì sẽ như thế nào? Và ngược lại? Trong mỹ thuật Việt Nam cổ ta thấy rõ chất đá của tượng A Di Đà Phật, tính khác của chất gỗ của các pho tượng chùa Tây Phương và khác chất đồng của các pho tượng đền Quán Thánh thờ quan Trấn Võ hay tượng phật chùa Ngũ Xã. Việc sử dụng các chất liệu khác nhau của mỗi thời kỳ nghệ thuật rõ ràng không chỉ là vấn đề kinh tế, kỹ thuật mà chắc chắn còn bắt rễ từ những tư tưởng thẩm mỹ khác nhau.
.jpg)
Hai trong 18 vị La Hán có trong chùa Tây Phương
.jpg)
Pho tượng thờ quan Trấn Võ – Đền Quán Thánh
.jpg)
Tượng phật chùa Ngũ Xã
Với các đồ đựng, thẩm mỹ tạo hình lại càng lộ rõ tính chất thẩm mỹ về vật chất – trong cảm giác về nặng nhẹ, bền hay mau hỏng, nhẵn hay nhám và kết cấu vật chất của đồ vật ra sao. Với đồ gốm, đồ sứ, đồ sành rõ ràng ta không cần chạm tay vào, chỉ bằng con mắt đã nhận biết được những phẩm chất khác nhau của nó. Hãy xếp cạnh nhau ba đồ đựng có hình khối giống nhau bằng các chất liệu khác nhau, ta lập tức ý thức bằng xúc giác sự khác nhau của các tính chất vật lý, do vật liệu gây ra. Ngược lại, khối – hình cũng có thể gây cảm giác mâu thuẫn, đi ngược chiều cảm giác về chất liệu. Hãy đặt ba đối tượng có chất liệu nặng nhẹ khác nhau (đồng, gốm, nhựa – sức nặng giảm dần), có các dáng hình khác nhau ta sẽ thấy cái bình thứ nhất bằng đồng nhưng dáng thanh thoát – gây cảm giác nhẹ, bình thứ hai – gốm nhưng không quá nhẹ và bình thứ ba bằng nhựa nhưng hình dáng thô hơn cho cảm giác nặng hơn ta tưởng.
Như vậy khái niệm khối bao gồm ba tương quan chủ yếu:
– Sự chiếm chỗ trong không gian (thể tích);
– Cảm giác về tính chất vật lý của chất liệu;
– Cảm giác về hình như là một sự trừu tượng hóa khối lên một bề mặt.
Sự thống nhất và các mặt đối lập ba tính chất trên của khối với tư cách một khái niệm thị giác là một phương tiện biểu đạt quan trọng của nghệ thuật tạo hình, trước hết trong điêu khắc, kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng.
2. Những phẩm chất trên của khối thị giác lại được lạ hóa – làm lại một lần nữa, ý muốn nói rằng cảm giác về chất liệu và không gian mất đi trong thực tế, chỉ còn là những cảm giác ảo – trên mặt phẳng của tác phẩm hội họa. Trên một bức tranh sơn dầu, sơn mài, lụa, thuốc nước hay một tranh nét bằng mực nho, bút sắt hay bút chì cảm giác về sự chiếm chỗ, về nặng nhẹ, về nhẵn, nhám… hoàn toàn là hiệu quả ảo giác. Thời Phục Hưng châu Âu (thế kỷ XV, XVI) và nhất là thiên hướng hiện thực và nghệ thuật Ba-rốc của châu Âu (đặc biệt ở Hà Lan, Bỉ và Tây Ban Nha, Italy) đã khơi sau, tận dụng triệt để hiệu quả lạ hóa này.
Nó buộc người xem phải nhận biết, phải cảm thấy và phải tin ở con mắt (bị đánh lừa) rằng sự chiếm chỗ, độ nặng nhẹ, tính chất vật lý của vật chất của những thứ được mô tả trong tranh là thực Bằng mặt phẳng hai chiều, Leonard de Vinci cho ta thấy một không gian xa hút và luật xa gần là cơ sở khoa học của việc mô tả không gian hình hộp – có chiều sâu với đường tầm mắt, điểm trông và các đường thẳng từ cận cảnh đến viễn cảnh sẽ cùng đi tới một điểm trên đường chân trời.
.jpg)
Hình 13
Bằng chất liệu sơn dầu của họa sỹ Hà Lan, Bỉ cho ta thấy các cảm giác khác nhau về gỗ, vải, sắt, đồng, gốm, sứ, thủy tinh, không khí, lá cây, trái quả mọng nước, hơi ấm của làn da. Tất cả cảm giác có thực đó nằm ở các khối ảo và sự chiếm chỗ giả vờ của nó trong một không gian ảo ba chiều, được tạo ra một cách giả tạo trên một mặt phẳng hai chiều. Cảm giác như thực về toàn cục khi ta xem tranh của họ, chính là một hiệu quả lạ hóa vì ta vẫn luôn ý thức được rằng trước mắt ta chỉ là một mặt phẳng được làm bằng vải và sơn dầu.
Kiến trúc Ba-rốc khác hẳn kiến trúc Gothic về tạo hình song lại triển khai một khía cạnh quan trọng của nền kiến trúc hậu kỳ Trung cổ là không gian ảo. Trong tòa nhà của chúa trời Gothic, từ nền nhà lên đến vòm trần là một không gian phi thường thống nhất làm cho tín đồ cảm thấy không gian đó khác hẳn với không gian ngôi nhà mình ở, con đường mình đi, cánh đồng mình cày cấy, đồng thời các cột và vòm gợi cảm giác cao vọt khác với chiều cao thực của nó. Còn tròng tòa nhà Ba – rốc, tính chất ảo của không gian là ở chỗ người xem nhận rõ một phần không gian thực và không phân biệt được nó với phần ảo, không nhìn nhận được chỗ chuyển từ thực sang ảo của những phần bên trong tòa nhà.
Một ví dụ nữa về sự lạ hóa không gian thực là tranh cổ Trung Hoa, Viễn cận Á Đông của Vương Duy đời Đường, Ngô Trần đời Nguyên cho ta thấy một không gian xa vời.
Càng biết càng nghi ngờ, đó không chỉ là một câu châm ngôn. Trong đó chứa một nội dung biện chứng có tính chất thúc đẩy, vận động đúng với chung và đúng với riêng con mắt. Nhờ khả năng nhận thức hiện thực không gian và khối (cũng như các phẩm chất khác như màu, nét) mà con mắt đồng thời có khả năng lạ hóa. Sự lạ hóa này diễn ra ở nhiều bình diện tạo ra một chiều thực và một chiều không thực ngay ở một biểu hiện tạo hình. Triệt tiêu đến cùng mâu thuẫn thực và không thực này thì tác phẩm tạo hình không còn tồn tại nữa. Nhiều xu hướng nghệ thuật tâm lý nhằm biến nghệ thuật thành phản nghệ thuật đều vô nghĩa, và không bao giờ đi tới sự phủ định được hoàn toàn mối quan hệ biện chứng đó. Chúng chỉ làm nghèo quan hệ này và làm nghèo nghệ thuật mà thôi.
3. Khối cầu:
Khối cầu có lẽ là khối đơn giản nhất. Nó được tạo nên bởi vô vàn điểm trọng không gian ba chiều cách nhau một điểm cho trước bằng một khoảng cách R cố định. So với những khối khác cùng diện tích thì khối cầu cho một thể tích lớn nhất. Do hai đặc điểm đó khối cầu cho cảm giác vô hướng, vì nó có vô tận hướng bằng nhau và cho cảm giác rỗng hơn các khối khác. Cùng một thể tích nhưng một khối cầu cho cảm giác rỗng hơn một khối chữ nhật hình bẹt hay một khối lập phương.
Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều nhà kiến trúc ở mọi thời đã mong ước đặc tính nỳ của khối cầu được áp dụng cho nhà ở. Họ cho rằng như vậy sẽ tăng thêm khoảng không gian sử dụng cho con người và trong khối cầu con người sẽ vận động thoải mái hơn. Tuy nhiên, những hạn chế vật liệu kỹ thuật không cho phép họ thực hiện được điều đó. Ngày nay kỹ thuật đã tiến bộ, con người có thể làm được những ngôi nhà hình cầu song chỉ trong những mục đích chuyên dụng. Còn con người vẫn quen vận động theo hai phương chính là thẳng đứng và nằm ngang nên vẫn ưa ngôi nhà có không gian hình hộp chữ nhật hay lập phương hơn. Khối cầu cho cảm giác đầy đủ nhất vì không thể thêm và bớt. Do vậy, tự nó cho cảm giác khép kín. Một phần của khối cầu luôn gợi cảm giác về sự tồn tại của phần ta không trông thấy.
.jpg)
Hình 14
Hình trên cho thấy cảm giác này rất rõ rệt. Một khối bán cầu lớn hơn 1800 đặt trên một khối lập phương cho ta cảm giác cố định của hình cầu mà nó vốn không có và cảm giác cố định đó được gây ra bởi cảm giác về một phần của khối cầu nằm lõm trong khối lập phương. Các khối cầu nhỏ bám vào một khối cầu to cho cảm giác hữu cơ gắn bó. Còn hai khối cầu đặt tiếp giáp nhau lại cho cảm giác rời rạc, rơi, gẫy, lỏng lẻo hơn hai khối chữ nhật đặt cạnh nhau.
Sở dĩ như vậy vì hình cầu luôn thúc đẩy ta nhìn thấy nó một cách đầy đủ. Sự toàn vẹn của nó không cho mắt ta được nhìn nó chỉ ở một phần nào, do vậy ta có cảm giác nó ngập một phần vào hình cầu lớn, gây ra cảm giác bền chặt. Ngược lại, hai khối cầu để cạnh nhau lại có cảm giác rời rạc vì mỗi khối đã tự đủ, tự hoàn chỉnh, không cần thêm bớt, không cần gắn vào đâu nữa, dù chỉ là một điểm tiếp xúc. Hai khối chữ nhật để cạnh nhau không gây cảm giác bền chặt như khối cầu đan vào nhau song không rời rạc như khối cầu để cạnh nhau vì chúng có bề mặt tiếp xúc lớn hơn và bề mặt này chính là một diện của khối nhỏ hơn.
Với trẻ em ta có thể làm thí nghiệm này: đặt một cái bình tròn có dung tích 1 lít bên cạnh một hình lập phương và một hình chữ nhật đứng hoặc một hình trụ có cùng dung tích. Các em bé chưa có kinh nghiệm quan sát, chỉ dựa vào ấn tượng thị giác ban đầu sẽ nói hình cầu “bé” nhất còn các bình hình chữ nhật hoặc hình trụ “to” nhất.
Do hình cầu có một tâm điểm cũng như hình tròn nó luôn gợi cảm giác cân bằng – con người luôn có hướng đi tới sự cân bằng ấy bởi chuyển động luôn có xu hướng đi đến cái tĩnh. Một ngôi đền, căn phòng có mặt bằng hình tròn luôn đẩy người xem đi vào tâm để từ đó nhìn mọi điểm xung quanh với một khoảng cách bằng nhau. Các kiểu cửa của kiến trúc Hồi giáo, cửa tròn Á Đông, kiến trúc cổ đại, Phục hưng cho cảm giác thoải mái hơn vì chúng gợi cảm giác dân chủ gần gũi hơn những vòm háp nhọn hoắt chỉ định một hướng nhìn hẹp của con mắt là vì vậy.
Nhìn rộng ra mọi vật có khối cầu như quả bóng, trái cay, mặt trăng rằm, mặt trời tròn, v.v… trong đời sống hằng ngày luôn cho ta cảm giác đầy đủ khi chúng đứng một mình, là một vật duy nhất trong trường nhìn của chúng ta Trong kiến trúc, điêu khắc và đồ dùng, khối cầu tuyệt đối này khó được thực hiện vì nó có phần vi phạm, làm mờ nhạt nguyên tắc ổn định theo hai trục tung và hoành của mọi vật chịu sức hút của trái đất.
4. Khối lập phương:
Khối đầu tiên cho ta cảm giác thực “ba bề, bốn bên” là khối lập phương. Viễn cận Phục Hưng và không gian ba chiều của hình học cổ điển lấy nó làm đơn vị khối gốc. Xét theo hai trục tung và hoành ta luôn có 4 bề là 4 hình vuông và nhìn toàn bộ ta luôn có 3 cặp diện phẳng tạo ra tính ba chiều của không gian này.
Sự trừu tượng hóa được triển khai bằng các đoạn thẳng bằng nhau tức các cạnh. Khối lập phương gây cảm giác vững chãi và đầy đủ vì nó cụ thể hóa không gian thành 3 chiều rõ rệt hơn khối cầu. Bốn bên thực chất là sự phân biệt có tính phân cực của hai trục tung – hoành trên mặt phẳng thành trên và dưới, bên phải và bên trái. Do người nhìn bao giờ cũng bị quy định ở một địa điểm nào đó, sức hút trái đất vuông góc với mặt đất và ấn tượng thẳng của đường chân trời tạo ra hình vuông. Hiện tượng mất trọng lượng trong không gian vũ trụ làm mất đi cảm giác mà ta cứ tưởng là bản chất vĩnh hằng của vũ trụ. Khi mất trọng lượng ta không còn cảm giác trên hay dưới nữa, ta không có cảm giác về ba bề của vũ trụ nữa do có các tiết diện phẳng và vuông, sự phối hợp các khối lập phương trong kiến trúc luôn cho cảm giác đè, đỡ, gắn bó với nhau.
Khối chữ nhật động hơn do nó luôn luôn là một phần của khối lập phương. Song khác với khối bán cầu, nó không có nhu cầu khép kín, do vậy độc lập hơn khối bán cầu. Gắn hai khối lập phương và chữ nhật với nhau ta có cảm giác chúng ở cạnh nhau một cách vững chắc, khác với các khối bán cầu và đồng thời không gắn bó, ăn lõm vào nhau như khối cầu và bán cầu.
.jpg)
Kiến trúc hình hộp theo phương pháp xây dựng tấm lớn dựa trên kết cấu của các khối chữ nhật và lập phương như vậy. Khối chữ nhật do có tiết diện không giống nhau nên có cảm giác định hướng rõ rệt. Đặt đứng, nó nhấn mạnh chiều cao; đặt nằm nó gây cảm giác chiều dài, cả hai đều có năng lực gây ấn tượng đồ sộ. Những ngôi nhà hiện đại trên khắp thế giới ngày nay cho thấy rõ điều đó.
Các khối lập phương bằng nhau tạo nên khối chữ nhật vuông càng định hướng rõ hơn một chiều phát triển của khối vì một tiết diện vuông. Nó làm mất cảm giác bị ép về một phía của khối chữ nhật không vuông. Do vậy, khối chữ nhật vuông ổn định hơn.
.jpg)
Hình 16
5. Khối tam giác:
Hình tam giác đều là hình tối đơn giản có tính chất bất ổn định nhất trong không gian. Chỉ có 3 điểm, con số tối thiểu để tạo một mặt phẳng và ba điểm đó cách đều tâm của hình. Khối tam giác gồm 4 mặt tam giác đều là khối đơn giản nhất, chỉ có 4 điểm, số lượng tối thiểu để tạo ra một không gian ba chiều. Bốn điểm đó cách đều tâm của khối. Khối tam giác không có cái đầy đủ của khối cầu và cái vững chãi ổn định của khối lập phương. Nếu khối cầu không định hướng, khối chữ nhật có hai hướng chính dựa trên hai trục chính là tung và hoành thì khối tam giác định hướng rõ nhất, ba hướng phát triển về ba góc và trục cơ bản tung – hoành lại bị phá hủy bởi các cạnh chéo. Phương chéo đối lập với tung – hoành tạo ra các góc tù hoặc góc nhọn và do đó tạo ra sự không ổn định. Nhìn một dãy mái nhà có hình tam giác nhấp nhô trên nền trời ta thấy vui mắt. Sự lặp lại của khối tam giác trong không gian không gây ra sự đơn điệu như sự lặp lại các khối chữ nhật vì bản thân các phương chéo của khối tam giác đã đối lập với phương thẳng đứng và nằm ngang cố hữu của phong cảnh.
Khối tam giác được ứng dụng để tạo nên sự ổn định tương đối bằng cách đặt mặt theo phương nằm ngang. Xét ba hình: tam giác cân, vuông và tròn cũng như xét ba khối của nó ta thấy có sức căng của lực ly tâm ở hình tam giác, khối tam giác rất rõ.
Các khối tam giác lệch, biến thể của khối tam giác nói trên là những khối đơn giản nhất có định hướng mạnh nhất.
.jpg)
.jpg)
Không gian – Khối và Biến thể của Khối (Phần 2)
6. Khối e-líp:
Khối e-líp là một khối cơ bản tổng hợp ba khối cầu, lập phương và tam giác. Hãy xét trên bình diện mặt phẳng ta thấy hình e-líp có những quan hệ hữu cơ với các hình tròn, vuông và tam giác. Trước hết, nó được tạo nên bởi các hình tròn to nhỏ khác nhau, để cạnh nhau và nối với nhau bởi các tiếp tuyến – tức không có chỗ chuyển đột ngột. Nó tạo ra sức căng bởi hai hướng đối lập nhau khá cân bằng. Về phía hình tròn lớn, lực lớn bởi cung tròn lớn, còn về phía hình tròn nhỏ lực lớn do độ dài của hình e-líp dần về phía đó. Sự ổn định của hình e-líp tạo ra bằng sức căng của hai hướng đối lập này. Cũng có thể quan niệm hình e-líp là kết quả vận động theo một trục thẳng của hình xoáy ốc. Nó kết hợp được hai chiều vận động thẳng và xoay tròn quanh tâm. Lực xoay cân bằng với lực chuyển động thẳng cho ta hình hình e-líp đặc trưng.
Hai hình tròn, hai khối cầu có bán kính theo tỷ lệ 2/1 làm cơ sở để tạo ra một hình khối e-líp bằng cách nối hai hình tròn với nhau qua hai đường tiếp tuyến ta có thể có một hình e-líp giả định là lý tưởng. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng hai đường tiếp tuyến này thực ra không phải là hai đoạn thẳng mà là sự chuyển dịch lớn dàn của các cung tròn lớn hơn hình tròn nhỏ và nhỏ hơn hình tròn lớn. Trong hình này ta dễ dàng thiết lập hình chữ nhật bằng hai hình vuông.
Đồng thời, trong hình e-líp, ta có một hình tam giác cân lý tưởng. Nếu ta quy ước là R của hình tròn nhỏ trong hình e-líp bằng 2/3R của hình tròn lớn thì chiều cao của hình tam giác lý tưởng sẽ bằng 5/3 của R. Cũng trong hình e-líp ta thấy các biến thể của hình lập phương, hình chữ nhật, hình tròn, hình tam giác rất tiêu biểu. Động và tĩnh, đóng và mở, chuyển động có hướng và vô hướng kết hợp ở mức hoàn chỉnh nhất, bằng cách đơn giản nhất trong hình e-líp. Có thể nói hình e-líp là hình có chất tạo hình nhất trong các hình cơ bản.
Chuyển sang khối cũng tương tự như vậy. Khối hình e-líp chứa trong nó các khối cơ bản ở thể năng động của chúng do là khối lập phương, khối chữ nhật, khối cầu, khối tam giác cân. Nó tổng hợp tính chất của cả ba khối trên. Có thể nói nó vừa tròn, vừa vuông, vừa tam giác, không phải ngẫu nhiên nhiều nhà điêu khắc.

Hình 19
Họa sỹ rất quan tâm đến khối e-líp. Một giọt nước đang rơi hay được bắn lên có hình e-líp (ở giai đoạn giữa của sự rơi hay sự bay lên). Ví dụ này cho thấy hình trứng động vì nó có hướng và tĩnh vì nó tiêu biểu thế cho ổn định – động. Đó là điểm tiêu biểu cho bản chất của chuyển động.
Do vậy hình e-líp là hình giọt nước. Sự hấp dẫn của hình e-líp và khối e-líp còn ở chỗ như ta thấy ở các phần sau, nó chứa được các khối biến thể của ba khối cơ bản nói trên.
Phần lớn chỉ có trong nghệ thuật trang trí, mỹ thuật ứng dụng, kiến trúc ta mới thấy rõ các khối tròn, vuông, tam giác còn trong hội họa, điêu khắc và đồ họa các hình, khối đó luôn biến đổi. Ở đây trên bề mặt, trong không gian ta luôn luôn có thể xác định được những hình, khối e-líp.
Vì vậy, tuy không đưa ra ví dụ cụ thể ta vẫn có thể nhận biết vai trò của hình khối cơ bản này trên các tác phẩm. Tất nhiên, trong một số trường phái thiên về tính ổn định như đã nêu ở trên hình khối này ít xuất hiện hơn.
7. Các khối biến thể:
Xuất phát từ ba hình học cơ bản và ba khối cơ bản ta sẽ tạo ra được các khối biến thể cơ bản. Các khối này là sự kết hợp các tính chất của cặp đôi một hìn một khối được ghép với nhau. Hình học ở đây đóng vai trò làm thiết diện của khối (xem hình 20).

Hình 20
Ví dụ: Hình vuông và hình tam giác cho ta một hình thang thì đó chỉ là biến thể của hai hình vuông và tam giác, do vậy khối hình thang không phải là khối biến thể theo ý nghĩa nêu trên. Ta thấy rõ ràng là hình tam giác không được bảo toàn đầy đủ như hình vuông. Do vậy những kết hợp khối với khối và hình với hình không cho một biến thể cơ bản. Ta khó tưởng tượng ra một sự phối hợp của hai khối tam giác và lập phương. Cũng khó có một khối lập phương hay một khối tam giác nghĩa là trong những trường hợp này các khối không “ăn” với nhau mà vẫn như để cạnh nhau ghép vào nhau. Hoặc ngược lại chúng sẽ “nuốt” hẳn nhau để về thực chất vẫn chỉ là một khối cơ bản nào đó mà thôi. Nói chung chúng tạo cảm giác gắn ghép hoặc bị thiếu hụt.

Hình 21
Nếu xét khối biến thể cơ bản là khối tạo nên sự phối hợp hài hòa giữa các hình học cơ bản với các khối cơ bản thì ta có các khối sau đây:

Hình 22
Như vậy ta có ba khối biến thể là khối trụ, khối nón và khối chóp (cũng có thể gọi là khối tháp). Ở mỗi khối này tính chất của khối là sự kết hợp tối giản không mâu thuẫn các tính chất của hình tạo nên hai tiết diện của nó. Khối trụ có cái chắc chắn của hình chữ nhật, có sự định hướng về chiều dài do độ dài của hình chữ nhật quy định. Hình chữ nhật có thể mở dài vô tận về cả bốn phía song ở đây hai phía đã bị bán kính R của hình tròn giới hạn lại, do vậy khối trụ có định hướng hơn khối chữ nhật Đặt hai khối đó cạnh tranh, ta thấy khối trụ có nhu cầu được kéo dài hơn. Một ống khói thẳng đứng gây cảm giác cao hơn một tòa nhà hình hộp chữ nhật.
Mặt khác, tính chất ổn định đầy đủ của khối trụ được quy định bởi hình tròn vì tiết diện tròn của hình không bao giờ thay đổi.
Nếu khối trụ mở về hai phía vô tận thì khối nón và khối chóp do có hình tam giác làm 1 trong 2 tiết diện nên chúng luôn đóng về một phía và mở vô tận về một phía. Các tiết diện tròn và vuông ở hai khối này nhỏ dần về phía đỉnh. Chiều cao của khối càng lớn thì sự thay đổi độ lớn của tiết diện càng tinh vi hơn, khối càng được định hướng rõ rệt hơn. Hai khối này vừa tĩnh hơn nếu đáy của chúng nằm trên trục hoành. Và chúng sẽ động hơn nếu đáy của chúng không nằm trên trục này.

Kim tự tháp Magician (teotiuacan)

Kim tự tháp Magician (uxmal)
Các kim tự tháp Mexico có bậc thang, các khối cơ bản là kim tự tháp cụt, trên bề mặt là nơi dựng các đền đài.
Cảm giác do khối gây ra phụ thuộc vào sự sắp đặt các hướng vận động của nó trong không gian và điểm nhìn, diện nhìn tức tương quan giữa nó với mắt người (phụ thuộc vào vị trí của người xem trong không gian). Do vậy tính chất của các khối cơ bản nêu trên không bất biến. Tính chất ổn định của chúng biến hóa phụ thuộc hai điều nêu trên Đó chính là một phương tiện biểu đạt của nghệ thuật tạo hình.
Khối lập phương vững chãi bao nhiêu thì khi đặt nghiêng nó gây cảm giác đổ lớn bấy nhiêu.

Hình 23
Khối nón và khối cầu để cạnh nhau như hình 23 cho cảm giác nó tấn công khối cầu. Ở hình bên cạnh, các khối cơ bản đè nén, xô đẩy, tấn công nhau không trực diện gây cảm giác hỗn độn – bị đè nến, rơi đổ, rời rạc trong mình nó một phần của không gian. Không gian bên trong của kiến trúc và của các đồ đựng chính là nội dung khối của chúng. Toàn bộ kiến trúc nhân loại từ xưa đến nay có thể nói là sự sử dụng, kết hợp biến thể các khối cơ bản nói trên trong điều kiện phù hợp với luật về sức nặng của vật thể, sức hút của trái đất theo phương thẳng đứng, cần lưu ý trong kiến trúc hiện đại, người ta áp dụng nhiều vật liệu mới như kính ở diện tích lớn, bê tông dự ứng lực, các chất dẻo… nên nhiều tác giả đã có thể làm “mất” đi cảm giác thông thường về sức nặng và sức hút trái đất ở các công trình, gây ấn tượng mới lạ, bay bổng. Lược qua các thời kỳ kiến trúc đặc sắc của một số dân tộc thường được nêu trong các cuốn lịch sử mỹ thuật ta có thể dễ dàng đọc ra khối cơ bản của chúng như hình 24.

Hình 24
Hình 24 chỉ cho ta thấy cái toàn cục, khối bên ngoài tức cảm giác trực tiếp về khối. Kiến trúc lại rất đa dạng phong phú ở từng tác phẩm cụ thể do sự biến đổi, nhiều khi rất nhỏ của một yếu tố nào đó. Khối cơ bản thay đổi một chút thôi, giống như một hạt thủy tinh màu nào đó trong ống vạn hoa thay đổi vị trí, thì toàn bộ hình ảnh kiến trúc, hình ta thấy trong kính vạn hoa cũng thay đổi bất ngờ, thiên biến vạn hóa.
8. Như trên ta thấy khối rỗng chứa trong lòng nó một phần của không gian, khối đặc thì vật chất của khối chiếm phần không gian ấy. Vậy khối và không gian là một. Bản chất của khối là không gian và bản chất của không gian là tạo khối. Điêu khắc là nghệ thuật chiếm chỗ trong không gian. Kiến trúc là nghệ thuật phân chia không gian theo các khối.
Ta có thể thấy ba loại không gian khối:
Ai Cập cổ, một số tượng phật, một số tượng vị tổ Tây Phương dựa trên các khối khép kín nhằm gây cảm giác tĩnh và vững bền. Đặc biệt ở những pho tượng người: quan văn, quan võ, lính hầu… tại các khu lăng mộ trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam cổ ta thấy rõ ý đồ sử dụng các khối khép kín, ít có sự đục đẽo sâu, len lỏi vào khối đá, ít có động tác tay, chân, mình uốn lượn của các nhân vật. Do vậy ý nghĩa tưởng niệm, sự yên lặng của các tác phẩm đó rất rõ rệt, phù hợp với chức năng của chúng ở lăng mộ.
– Khối có sự len lỏi của không gian bên ngoài vào trong lòng nó. Sự chiếm chỗ ít khẳng định hơn, giao lưu giữa khối và không gian vây quanh tích cực hơn – do vậy khối có tính chất riêng cũng rõ rệt hơn. Một khối cầu lõm vào một chỗ gây cảm giác nó xô ra không gian xung quanh và không gian xung quanh thâm nhập vào đó (Hình 25).

Hình 25
Đối với khối lập phương, khối chóp và các khối khác cũng vậy. Sự thâm nhập của không gian vào khối cơ bản có thể được coi là sự biến dạng của khối cơ bản. Điêu khắc Ba-rốc ở châu Âu (thế kỷ XVII, XVIII), điêu khắc đình làng ở Việt Nam (thế kỷ XVI, XVII, XVIII), điêu khắc hiện đại v.v… cho thấy việc sử dụng tương quan này.
– Trong kiến trúc và đồ đựng khối chính là không gian nằm bên trong cơ thể vật chất của tác phẩm. Phần bên trong của một cái nậm rượu là phần cơ bản của “khối nậm rượu”. Phần bên trong của ngôi nhà là một phần căn bản nhất của khối kiến trúc. Do vậy, sự thay đổi trong và ngoài, di chuyển từ không gian ngoài khối vào không gian trong khối, sự thống nhất hay mâu thuẫn giữa khối – không gian bên trong và bên ngoài của kiến trúc, đồ đựng là bản chất của các nghệ thuật này. Ở đồ đựng, sự thống nhất tất nhiên giữa khối bên ngoài và không gian bên trong được quy định sẵn và không bàn cãi gì vì con người không đi vào bên trong cái bình, cái lọ, chỉ nhìn bên ngoài, sử dụng cái bên trong như một “hộp đen”.
Con mắt cảm thụ khối không chỉ ở sự chiếm chỗ của nó trong không gian mà còn cảm thụ cả tính chất vật chất của khối đó nữa. Do con mắt làm được một phần chức năng của xúc giác nên tùy không sờ vào tượng, mắt ta vẫn có cảm giác về các tính chất vật chất này Ở đây, bề mặt và kết cấu bề mặt tượng cho một cảm giác cụ thể. Bề mặt tượng có hai khía cạnh, một là nó đại diện cho mắt cắt trừu tượng của một khối nào đó và hai là bề mặt tự nhiên do chất liệu sinh ra. Đá khác đồng, gỗ khác đất nung, bê tông khác nhựa tổng hợp. Thạch cao là chất liệu trung gian do nó không có thuộc tính riêng của chất liệu. Thuộc tính riêng của chất liệu biểu hiện ở khả năng, những đặc điểm thuận lợi hay khó khăn về mặt gia công nó. Do đó bề mặt tượng còn mang dấu ấn kỹ thuật xử lý chất liệu. Ví dụ gỗ có thể đẽo gọt phụ thuộc vào nhiều thớ gỗ, đá có thể đục đẽo hoặc cắt thành những lát mỏng, nhát đục đá khác nhát đục gỗ, đồng tuy rắn nhưng có thể đổ khuôn… Đất nung thì được nặn bóp dễ dàng, sau đó đem nung mới cứng lại. Quá trình gia công chất liệu là biểu hiện vật chất cụ thể của quá trình sáng tác điêu khắc, kiến trúc và các đồ đựng. Do vậy kết cấu bề mặt, tính chất của chất liệu thể hiện qua bề mặt là một phần của ngôn ngữ khối, quan hệ khối với bề mặt của nó là không tách rời.
10. Khối cơ bản trên cơ thể người:
Tìm hiểu cơ thể người và kết cấu bên trong của nó được tiến hành từ ngàn xưa trên hai bình diện y học, giải phẫu học nghệ thuật. Việc này được tiến hành mạnh mẽ nhất vào thời Phục Hưng. Các hình cơ bản như hình vuông, tròn, tam giác được dùng để xác định cơ cấu của cơ thể con người. Điều đó được tiến hành song song với việc nghiên cứu kiểu thực nghiệm và mô tả từ kết cấu xương gân, cơ bắp đến việc phủ làn da lên các kết cấu bên trong đó. Trong nghệ thuật cổ, đặc biệt trong nghệ thuật nguyên thủy ta thấy cơ thể người đã được quy về các khối cơ bản như khối trụ, khối cầu, khối tam giác v.v… ở tranh vẽ thiếu nhi, nhất là các em dưới 7 tuổi ta thấy rất phổ biến việc quy cơ thể người thành các khối cơ bản, hình cơ bản. Đầu là một hình tròn, thân là một hình tam giác hay chữ nhật, tay chân là các ống trụ hay các vạch thẳng.
Tuy nhiên, việc quy các phần cơ thể về các hình thường được tiến hành ở một hoặc hai diện, trong khi đó con người là vật thể đa diện trong không gian. Nhược điểm thứ hai của những cách này là việc quy về các hình cơ bản bỏ qua những chuyển từ hình này sang hình khác mà chính những chỗ chuyển này rất quan trọng, lại thuộc về bản chất vận động của các bộ phận, nơi thực hiện chuyển động của cơ thể.

Hình 26
Ở phương Đông, tượng phật cũng có chuẩn tắc, quy ước về hình tròn. Một đầu ba thân, rốn nằm giữa vòng tròn to hất ôm từ đầu tới hai ép gối của thế ngồi nhà Phật (xem hình 26). Ở đây ta thấy một tam giác cân trong một vòng tròn, làm lộ rõ một đặc điểm quan trọng của cơ thể là sự đối xứng qua trục thẳng đứng. Tuy nhiên tượng Phật là khối chứ không phải là hình bẹt, mâu thuẫn này dẫn tới sự khô cứng của tượng Phật ngồi nói chung, làm cho tượng phật ngồi luôn chỉ có một mặt chính. Nhìn từ các bên này hay từ phí sau của tượng Phật ít khi thấy đẹp và chuẩn như ở mặt chính. Nhiều khi ta thấy việc quy cơ thể người về khối trụ, các khối vuông hay khối hình thang là quá trình đi xa dần hình khối cơ bản. Song nếu đi từ quan hệ giữa các hình vuông, tròn, tam giác và từ các khối cầu, lập phương, tam giác ra hình và khối e-líp ta có thể kết luận rằng cơ thể con người quả là tập hợp của các khối cơ bản nhưng là một hợp thể biểu hiện tập trung ở dạng khối và hình e-líp.
Tóm lại, thiên nhiên phức tạp được quy về bốn khối cơ bản là cầu, lập phương, tam giác, quả trứng (hay giọt nước) và ba khối biến thể là trụ, nón và khối tháp. Cơ thể con người là hội tụ phức tạp và phong phú nhât của các khối trên, chúng biến hóa không cùng trong tổng thể của khối hình e-líp như đã nêu, cần có một môn cơ thể học không chỉ dựa vào xương, cơ, gân mà dựa vào phân tích các khối khi chúng vận động, biến thể khi đó ta mới có một môn cơ thể hay giải phẫu học nghệ thuật thực sự.
Tỷ lệ và Nhịp điệu trong kiến trúc
Nhịp điệu của những hàng cột ở đền Louxor (Ai Cập), xây dưới triều Aménophis III, 1401-1363 tr. C.N.)
Có một hiện tượng, tưởng như chẳng có một ý nghĩa gì quan trọng lắm, mà ta thường hay được chứng kiến trong đời thường và khiến cho ta phải ngạc nhiên. Đó là hiện tượng một đứa bé mới chỉ ở tuổi vừa biết nói thôi, nhưng đã biết thích thú khi nhìn thấy một bông hoa, hay một vật thể có màu sắc, mà chắc hẳn người lớn đã bảo cho nó là “đẹp”. Đứa bé đã biết lồng cái cảm giác mà nó có được trước hiện tượng nó nhìn thấy với lời khen “đẹp” mà nó nghe được từ người lớn, cũng như khi nó ngắt được một bông hoa dại, nhặt được một hòn cuội, một vỏ sò, vỏ hến, hay khi nó được phép dùng bút chì màu để vẽ nguệch ngoạc trên tờ giấy.
Điều này cho thấy, không phải tự nhiên mà đứa bé nhận biết được cái đẹp, bởi vì cái đẹp thật ra không nằm ở trong bông hoa, mà nằm ở trong đầu óc con người (Kant). Ở đây, nó nằm trong khái niệm “đẹp” mà người lớn đã “truyền đạt” cho đứa bé qua câu khen cửa miệng kia. Vô hình chung, đó chính là một hình thức “giáo dục”, một cách “khai tâm” cho đứa bé. Thực ra, người lớn cũng chỉ lặp lại những điều mà chính họ đã “đồng thuận” với nhau về cái đẹp. Cũng như bao đứa trẻ khác, nó thường hay hỏi tại sao, hỏi vậy thôi, nhưng rồi nó cũng quên đi. Dù thế nào, mỗi lần như thế cũng là một cuộc “trải nghiệm” đối với chính nó về cái “đẹp”. Có được “thao luyện” như thế, thì khi nhìn thấy những bông hoa khác tương tự, nó mới lại biết reo lên thích thú và khen là “đẹp”.
Lâu dần, rồi nó cũng quen đi với “khái niệm” đó, với cái “quy ước” đầu tiên “chưa thành văn bản” đó về cái đẹp, mà vô tình người lớn đã dạy cho nó, và đó cũng vừa là một bài học cho nó về sự “đồng thuận”, mà mãi sau này nó mới hiểu hết được ý nghĩa.
Có một điều mà nó cũng không quan tâm lắm, là ít khi nào người lớn giải thích cho nó tại sao bông hoa lại đẹp?
Cái đẹp của tỉ lệ và của nhịp điệu
Đứng trước một lăng mộ cổ Ai Cập ở Karnak, hay ở Louxor (thiên niên kỷ II tr. C.N.), hoặc đứng trước một ngôi đền Hy Lạp cổ, như đền Parthenon ở Athènes (Athínai, thế kỷ V tr. C.N.), một người dù không hiểu biết gì mấy về khái niệm tỉ lệ, cũng vẫn có thể thấy được một vẻ đẹp toát ra từ những công trình kiến trúc này, mỗi công trình có một vẻ đẹp riêng: ở Karnak hay Louxor, đó là một vẻ đẹp hoành tráng, thâm nghiêm; ở Athènes, hay ở Paestum, cái đẹp của những hàng cột tuy cũng trang nghiêm không kém, nhưng gần gũi với kích thước của con người hơn. Sự khác nhau giữa hai phong cách kiến trúc này, chủ yếu là ở kích thước, tỷ lệ, hình dạng, rồi đến vật liệu, cùng các chi tiết chạm khắc, xẻ rãnh, trên mặt cột để làm cho cây cột sinh động dưới ánh mặt trời.
Karnak (Ai Cập – thiên niên kỷ II tr. C.N.),
| Tỉ lệ và nhịp điệu của những hàng cột ở đền Parthénon, trên đỉnh Acropole (Athènes, Hy Lạp, thế kỷ V tr.C.N.)
Lại có những người, tuy chưa biết đến khái niệm nhịp điệu, nhưng đứng trước những công trình kiến trúc hiện đại như cung Opera ở Sydney (Úc), hay viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao (Tây Ban Nha), đều thấy rằng có một cái gì đó mới mẻ về mặt thẩm mỹ làm cho họ xúc động. Nhưng thực ra, họ không cảm nhận hết được cái đẹp ấy, một khi mà họ chưa đi lần lên đến cái ngọn nguồn của nó, để biết rằng cái lộ trình nghệ thuật và nhất là kỹ thuật đã dẫn đến sự sáng tạo ra những tác phẩm độc đáo ấy, tính ra đã dài đến vài ngàn năm nay.
Có người thấy cung Opera ở Sydney, nhìn chung là đẹp, song cũng có một số khuyết điểm về mặt thẩm mỹ. Điều này cũng có những nguyên nhân của nó. Lẽ ra tòa nhà này còn đẹp hơn nhiều. Chỉ vì vào những năm 1956-57, điều kiện kỹ thuật và tài chính đã không cho phép nhà nước Úc thực hiện y chang dự án thiết kế đã chiếm giải nhất này của Jorn Utzon, kiến trúc sư người Đan Mạch, do đó đã đề nghị sửa đổi, song Jorn Utzon đã phản đối, và cuối cùng đã phải rút lui khỏi dự án, bỏ ngang công trình đang được thi công dở dang. Sau đó, công trình đã được tiếp tục bởi những kiến trúc sư khác, nhưng những người này đã không thực hiện đúng nguyên tắc của Jorn Utzon.
Jorn Utzon, Cung Opera ở Sydney, Úc (1956-76)
Thoạt tiên, trên những bản vẽ của Jorn Utzon, các vòm bê tông mỏng đã được quan niệm mỏng hơn, với những đường cong khác nhau, những hình khối cũng bay bướm hơn, nhịp điệu phong phú hơn. Song, vì kỹ thuật tính toán kết cấu vòm mỏng lúc đó chưa phát triển đến độ có thể cho phép thực hiện được những công trình có những kích thước khổng lồ như vậy, với một giá có thể chấp nhận được. Cũng như, thời đó chưa có những phương tiện máy tính điện tử tối tân để nghiên cứu, tính toán, và vẽ một cách chính xác và nhanh chóng các hình khối trong không gian ba chiều, cho nên dự án của Jorn Utzon cuối cùng đã phải thay đổi giữa chừng: các vòm bê tông mà chúng ta nhìn thấy hiện nay có cùng một đường vòng cung hình cầu, và đã bị xén cụt đi một phần, do đó trông đơn điệu và cục mịch hơn, cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa tỉ lệ và nhịp điệu: chỉ cần thay đổi tỉ lệ, là nhịp điệu cũng thay đổi, đôi khi bị mất hẳn đi.
Điều này cho thấy rằng quan niệm về nhịp điệu của Jorn Utzon ở cung Opera – Sydney, tuy rằng đã có một bước tiến nhảy vọt, so với công trình Nhà ga hàng không ở New York của Eero Saarinen vào đầu những năm 60, nhưng vẫn còn bị hạn chế, vì chưa hội đủ một số điều kiện, chủ yếu là điều kiện kỹ thuật và tài chính.
Một thí dụ khác về cái đẹp của nhịp điệu trong kiến trúc: đó là viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao, do kiến trúc sư Frank O. Gerhy thiết kế (1991-97), mà hầu hết mọi người có đôi chút kiến thức về nghệ thuật đều công nhận là đẹp và độc đáo.
Nếu ở cung Opera ở Sydney, cảm hứng của Jorn Utzon khi ông vẽ những bức phác thảo đầu tiên, có thể chỉ là nhịp điệu thuần túy (của các đường cong), nhưng cũng có thể đó là hình tượng của những cánh hải âu tung bay, hay những cánh buồm căng gió – vì công trình nằm sát ngay trên mặt biển – thì cảm hứng của Frank O. Gerhy là gì khi ông quan niệm hình khối chung của viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao?
Franck O. Gerhy, Mô hình nghiên cứu thiết kế Viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao (1991-97)
Thực ra , trong các tác phẩm trước đó, tác giả cũng vẫn thường hay bố trí các hình khối và không gian kiến trúc theo chức năng, cho nên nhịp điệu chung toát ra từ những công trình kiến trúc của ông thường hơi có vẻ lộn xộn, song bao giờ cũng sinh động (Vitra Center, ở Bâle, Thuỵ Sĩ,1988-1994). Điều này không có gì là khác thường cả, vì trong kiến trúc đương đại, đã từng có một lúc, vào những năm 50-60 của thế kỷ trước, có cả một trào lưu đi theo xu hướng này (xu hướng chức năng, hay biểu hiện), nhưng đồng thời cũng có một trào lưu khác, coi kiến trúc chủ yếu là cái vỏ ngoài bao che cho những chức năng được bố cục một cách kín đáo hơn ở bên trong.
Frank O. Gerhy chắc hẳn đã phải dung hoà cả hai xu hướng này, cho nên ông đã chỉ nhịp điệu hóa một số bộ phận của công trình mà thôi để tránh những khó khăn, rắc rối về mặt thực hiên. Cách làm ấy của ông ở Bilbao, thực ra cũng hoàn toàn phù hợp với cái quan niệm vốn có của ông về sự tương phản đôi khi chỉ cần rất là nhẹ nhàng giữa các hình khối kiến trúc, để đạt được hiệu quả thẩm mỹ tối đa.
Sơ đồ nghiên cứu hình khối Viện bảo tàng Bilbao trên máy vi tính (Franck O.Gerhy.1990)
Nếu ta quan sát những mô hình nghiên cứu và những phác thảo vẽ bằng máy vi tính của Frank O. Gerhy, ta sẽ thấy rằng ông đã không lạm dụng trình độ kỹ thuật cũng như khả năng của máy vi tính điện tử, để thiết kế những hình khối quá rắc rối cho việc thực hiện. Mặt khác, ông đã không ngần ngại sử dụng những hình khối vuông, và thay đổi vật liệu, để khai thác sự tương phản giữa các hình khối – đây cũng là một khái niệm thẩm mỹ gần gũi với khái niệm nhịp điệu. Nhờ ở máy vi tính tối tân, các giao điểm của các hình khối đã được thể hiện một cách chính xác, rõ ràng, trong không gian ba chiều, điều mà cách đây hơn 40 năm Jorn Utzon đã không có được, để thực hiện cho đến cùng những ý tưởng thẩm mỹ của mình.
Nguồn gốc và định nghĩa của hai khái niệm tỉ lệ và nhịp điệu
Từ khi nghệ thuật kiến trúc ra đời, con người đã biết vận dụng khái niệm tỉ lệ để có được sự cân xứng, hài hòa, giữa các bộ phận của một công trình, hoặc một tổng thể công trình. Cả hai khái niệm đều được sử dụng cả trong các nghệ thuật điêu khắc và hội họa.
Thang tỉ lệ của người Ai Cập cổ đại (thiên niên kỷ II tr. C.N.)
Người Ai Cập cổ đại (thiên niên kỷ II – III tr. C.N.) đã tìm ra những con số vàng, tỉ lệ vàng, và đã sáng tạo ra một thang tỉ lệ, dựa trên sự hài hòa của các bộ phận trên cơ thể con người (bàn tay có kích thước bằng 1/9 chiều cao của cơ thể, v.v.). Còn người Hy Lạp cổ đại (th. kỉ VII-IV tr. C.N.) cũng đã biết áp dụng tỉ lệ một cách chính xác vào hệ thống thức cột, và vào các tác phẩm điêu khắc (Phidias, thế kỷ V tr. C.N.)
Không những thế, cả hai nền văn hóa cổ đại này đều đã biết đến khái niệm nhịp điệu. Người Ai Cập cổ đại thể hiện khái niệm này chủ yếu trên những bức phù điêu, với nhịp điệu song song thẳng đứng của những cây cói ở bờ sông Nil, và những chuỗi người và vật di chuyển theo chiều ngang (như trong nền nghệ thuật ở Lưỡng Hà, thiên niên kỷ III tr. C.N.).
Nhịp điệu thẳng đứng của những cây cói trên một bức phù điêu thể hiện cảnh đi săn của Ti, vua Ai Cập (th.niên kỷ III tr. C.N.)
Trong kiến trúc, đó là nhịp điệu của những hàng cột và gối cột vĩ đại ở Karnak, Louxor, v.v. (Ai Cập). Người Hy Lạp cổ đại, đương nhiên đã chịu ảnh hưởng của nền kiến trúc cổ đại Ai Cập, nhưng đã có những đóng góp nhất định về tỉ lệ và nhịp điệu, với những hàng cột ở các ngôi đền ở Acropole, Athènes (Hy Lạp) và ở một vài nơi khác, đã từng là thuộc địa cũ của đế quốc Hy Lạp, như : Paestum (Ý, gần Salerme), Agrigente (đảo Sicile, nay thuộc Ý).
Nhìn từ góc độ thẩm mỹ, thì tỉ lệ là quan hệ so sánh về mặt kích thước giữa các bộ phận của một tổng thể, trong thiên nhiên cũng như trong nghệ thuật. Chẳng hạn như cơ thể con người là một tổng thể. Nếu cơ thể đó lành mạnh, cơ bắp phát triển đều đặn, thì nó thường có những tỉ lệ cân xứng, hài hòa, giữa những bộ phận của nó. Tỉ lệ thay đổi, thì hình dạng cũng thay đổi. Điều này chỉ là lô gích. Song, chúng ta sẽ thấy rằng, tỉ lệ có thể thay đổi đến mức tạo ra nhịp điệu, một yếu tố thẩm mỹ khác. Thí dụ điển hình nhất là các tác phẩm hội họa của El Greco, họa sĩ người Tây Ban Nha (1541-1614), trên đó hình dạng các nhân vật được cố ý kéo dài ra. Cũng như các nhân vật gầy đét và dài lòng thòng của Giacometti (điêu khắc), hoặc ngược lại, các nhân vật béo mũm mĩm của Botero, hoạ sĩ người Colombia (Nam Mỹ), hoặc các bức tượng phụ nữ khổng lồ của Niki de Saint Phalle, tất cả những tác phẩm này đều giàu nhịp điệu và tạo nên một không khí sinh động, đượm chất tinh nghịch, hài hước.
Vậy, nhịp điệu là gì ? Tại sao nó lại là một yếu tố của cái đẹp?
Nhịp điệu là biểu hiện của sự chuyển động, của sự sống của một vật thể. Nó thể hiện cái cốt lõi (hay cấu trúc) của một vật thể trong sự chuyển động theo một hướng nhất định, thường là do một áp lực nào đó thúc đẩy. Nó cũng nói lên cái bản chất, hoặc cái thần của vật thể đó.
Chẳng hạn như: những cây cói mọc ở bờ sông Nil (Ai Cập), thân thẳng đứng, mọc song song, sát nhau, mặc dầu đứng im nhưng cũng tạo nên một nhịp điệu thẳng đứng; cũng như cây tre trước gió, lá tre bị thổi bạt theo một hướng, cũng tạo nên nhịp điệu. Mỗi loài hoa, mỗi loài cây cỏ, đều có một cấu trúc đặc thù, do đó mỗi loài đều có một hình dạng và một nhịp điệu riêng biệt. Cấu trúc của cây táo, chẳng hạn, khác với cấu trúc của một cây sung; hình dạng và nhịp điệu của cây đa khác với hình dạng và nhịp điệu của cây gạo, v.v.
Cả hai khái niệm tỉ lệ và nhịp điệu đều đã được người Ai Cập biết đến ngay từ lúc khởi đầu của các nền nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, muộn nhất là ở thiên niên kỷ II tr. C.N., mặc dầu những khái niệm này chưa được lý thuyết hóa một cách rõ ràng, ngoại trừ những con số vàng (hay tỉ lệ vàng – còn được gọi là proportio divina, chữ của Luca Pacioli, một nhà tu hành người Ý, 1509 – Từ này rất có thể đã được chính Leonardo da Vinci sử dụng cùng vào thời kỳ này. Tỷỉlệ vàng cho phép chia một đoạn thẳng ra làm hai phần không bằng nhau, theo một tỉ lệ chính xác; xuất xứ của nó là hình tam giác vuông, mà một cạnh dài bằng 1/2 cạnh kia… Chúng ta sẽ không đi sâu thêm vào chi tiết này, mà chỉ cần biết rằng tỷ lệ vàng đã được áp dụng rất nhiều trong kiến trúc và điêu khắc, không chỉ ở Ai Cập mà còn ở Hy Lạp vào thời cổ đại.
Ngoài ra, người Ai Cập cũng đã sáng tạo ra một thang tỉ lệ, kẻ ô vuông, lấy cơ thể của con người làm điểm xuất phát: chiều dài của bàn tay người bằng 2 ô vuông. Chiều cao của thân thể con người bằng 18 ô vuông.
Về nhịp điệu, người Ai Cập cổ đại đã biết đến nhịp điệu của những đường song song thẳng đứng, cũng như những chuỗi người và vật di chuyển theo chiều ngang. Còn nhiều khái niệm thẩm mỹ quan trọng khác đã có ảnh hưởng đến các nền nghệ thuật của nhiều nền văn hóa đến sau, như cách thể hiện trên một mặt bằng thẳng đứng những hiện vật lẽ ra nằm ngang trên một mặt bàn, vì luật viễn cận khiến cho vật đằng trước che lấp vật đằng sau, con mắt người nhìn theo chiều ngang, không thể thấy rõ hết được.
Trong nền kiến trúc cổ đại Hy Lạp, tỉ lệ đã được quy ước hóa đến cao độ. Chúng ta biết rằng, kiến trúc của các ngôi đền cổ Hy Lạp đã được thiết kế dập theo những kích thước chuẩn, đã được đo đạc, tổng hợp, điều chỉnh và ghi chép lại rất tỉ mỉ từ những công trình kiến trúc cổ được coi là đẹp, từ tỷ lệ của các thức cột, đến các mô típ trang trí ở mặt tiền. Tuy nhiên, hệ thống tỷ lệ này cũng không phải là bất di bất dịch. Ở thời kỳ cổ điển (thế kỷ V tr. C.N.), tỷ lệ của các thức cột có khác với tỷ lệ ở thời kỳ sơ khai (thế kỷ VI – VII tr.C.N.). So sánh ngôi đền Parthénon (thế kỷ V tr.C.N.), ở Acropole, Athènes, với ngôi đền ở Paestum (th. kỷ VII tr. C.N.), thuộc địa cũ của Hy Lạp (nay thuộc nước Ý), người ta thấy vẻ đẹp của hai ngôi đền khác hẳn nhau. Đối với con mắt của người ngày nay, thì cái đẹp sơ khai đôi khi lại độc đáo, đậm đà hơn cái đẹp cổ điển, trong kiến trúc cũng như trong điêu khắc.
Tỉ lệ đã đóng một vai trò quan trọng trong các nền kiến trúc Ai Cập và Hy Lạp cổ đại. Trong kiến trúc Ai Cập, do tính chất hoành tráng và thiêng liêng của các công trình, cách thức cột cũng được quan niệm trong tinh thần này. Các nghệ sĩ Ai Cập đã sáng tạo ra những hàng cột vĩ đại, với những gối cột dựa theo mẫu mực có sẵn trong môi trường thiên nhiên của vùng sông Nil: đó là hình tượng cây cói thân thẳng, mọc ở bờ sông này, cây cói mà người Ai Cập cổ đại dùng làm nguyên liệu để sản xuất ra giấy.
Người Hy Lạp cổ đại chắc hẳn đã học được ở nền văn hóa Ai Cập cái quan niệm về các thức cột này, nhưng đã khai thác nó một cách khác, với những tỷ lệ khiêm tốn hơn, phù hợp với kích thước con người hơn, lược bỏ những ý nghĩa tượng trưng có tính chất thần bí, đồng thời kiến trúc của người Hy Lạp cổ cũng lô gích hơn, sáng sủa và tiện dụng hơn. Những hàng cột xung quanh các ngôi đền Hy Lạp, tạo ra một không gian cách ly và che mưa nắng, chính là một mẫu mực cho các nền kiến trúc ở phương Tây sau này trong nhiều thế kỷ.
Truyền thống thức cột sẽ còn đeo đẳng nền kiến trúc ở phương Tây mãi cho đến tận ngày nay, với phong cách tân cổ điển.
Nền kiến trúc Hy Lạp – La Mã, mà ta quen gọi là Hy-La, đã được chuẩn hóa đến triệt để. Người đầu tiên đã có công sắp xếp, và ghi chép lại các tiêu chuẩn và quy ước là Vitruve, một kiến trúc sư người La Mã sống ở thế kỷ I tr. C.N. Đến thế kỷ XVI, những tiêu chuẩn và quy ước này lại được Vignole, một kiến trúc sư người Ý cải biên lại, và tác phẩm của Vignole sau này sẽ là ngọn đuốc soi đường cho nhiều thế hệ kiến trúc sư cổ điển ở phương Tây, trong suốt mấy thế kỷ.
Tầm quan trọng của yếu tố nhịp điệu
Nền kiến trúc của Ai Cập cổ đại và của hai nền văn hoá Hy-La cổ đại, với những thức cột, và nói chung, với những hình khối vuông góc – thi thoảng về sau này mới có những vòm cuốn – sở dĩ đã lưu truyền được mãi cho đến chúng ta, chủ yếu là do, trong nhiều thế kỷ, kỹ thuật và khoa học xây dựng chưa phát triển, vật liệu duy nhất là gỗ, đá, gạch, đất, v.v. Vòm cuốn xây bằng những vật liệu truyền thống và kỹ thuật sơ khai, chỉ đạt được những kích thước rất giới hạn. Do đó, hình khối và thẩm mỹ kiến trúc trong những thời kỳ này đã tùy thuộc hoàn toàn vào sự giới hạn của vật liệu xây dựng và của các phương tiện kỹ thuật. Người ta không làm sao thoát ra khỏi được sự khống chế của những điều kiện tự nhiên, cho nên kỹ thuật xây dựng chủ yếu là kỹ thuật rầm cột (tải trọng được truyền xuống tới móng theo đường thẳng đứng, theo hệ thống rầm cột và tường chịu lực), và thẩm mỹ kiến trúc, nhất là ở những công trình có kích thước lớn, chủ yếu là thẩm mỹ của góc vuông và của đường thẳng “thước thợ”.
Bởi vậy, đem khái niệm tỉ lệ áp dụng vào hệ thống thức cột, và các không gian kiến trúc bên ngoài và bên trong của một công trình, là điều duy nhất mà người xưa có thể làm được vào những thời ấy về mặt thẩm mỹ.
Nếu tỉ lệ là một yếu tố của cái đẹp tĩnh, thì nhịp điệu là yếu tố của cái đẹp động, nó nói lên sự chuyển động, và một cách chung hơn, sự sinh động, hay sự sống. Cái đẹp của cây đa là cái đẹp tĩnh, cái đẹp của ký hiệu. Trong khi cái đẹp của cây tre trước gió, là cái đẹp của nhịp điệu.
Tuy nhiên, những hàng cột, dù cho là ở Karnak (Ai Cập), hay ở Acropole, Athènes (Hy Lạp), với những đường rãnh được khắc trên mặt cột để bắt nắng một cách sinh động, đều là những biểu hiện bước đầu của sự áp dụng khái niệm nhịp điệu trong kiến trúc.
Khái niệm nhịp điệu ngày càng phổ biến cùng với sự phát triển của các nền kiến trúc ở phương Tây, bắt đầu từ thời trung cổ, trải qua các nền kiến trúc rômăng, và nhất là gôtích, với những hàng cột chống thẳng đứng cao vút, cùng các đường vòm cong ở bên trong nhà thờ, và các vòm chống ở bên ngoài. Kiến trúc gothic có thể được coi là nền kiến trúc giàu nhịp điệu nhất, ở bên ngoài cũng như bên trong, nhờ ở chính cái cấu trúc của nó.
Kiến trúc barốc và rôcôcô cũng là những nền kiến trúc giàu nhịp điệu, và mặc dầu đó chỉ là nhịp điệu của các chi tiết trang trí, chứ không phải là của cấu trúc, nhưng nó đã đem đến cho các công trình một sự sinh động mà ít nền kiến trúc nào có thể đạt được.
Nhịp điệu cũng là một nét nổi trội trong các nền kiến trúc Hồi giáo, sử dụng vòm cuốn một cách phổ biến, như ở các nước Trung Cận Đông, Ấn Độ Hồi giáo, Bắc Phi, Tây Ban Nha (đặc biệt là Andalousie, vùng ảnh hưởng mạnh nhất của nền văn hoá Hồi giáo của người Ả Rập trong nhiều thế kỷ).
Phải chờ đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khái niệm nhịp điệu mới thực sự có điều kiện để nảy nở và để được áp dụng một cách rộng rãi, trong hội họa, điêu khắc, cũng như trong kiến trúc, một mặt với sự ra đời của nền hội họa hiện đại, mặt khác, trong lĩnh vực kiến trúc, với sự ra đời của các vật liệu mới (bê tông, sắt thép, v.v.) và các kỹ thuật xây dựng mới, với cách tính toán kết cấu theo những phương pháp hiện đại, sau này lại còn nhờ vào những máy vi tính tối tân nhất và những hiểu biết khoa học mới nhất về vật liệu xây dựng.
Kỹ thuật vòm mỏng bằng bê tông cốt sắt ngày càng phát triển, trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, cũng như các kỹ thuật cấu trúc nhẹ bằng khung sắt thép. Lần đầu tiên, người ta đã thực hiện được những công trình mà trước đây không bao giờ mơ tưởng tới được, những công trình mà trong đó, nhịp điệu là nét nổi bật nhất.
Ở trên, chúng ta đã nêu lên hai thí dụ điển hình là: cung Opera ở Sydney, tác phẩm của kts Jorn Utzon (1956-76) và viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao, do kts Gerhy thiết kế (1991-97). Đương nhiên, trong nền kiến trúc đương đại, không chỉ có hai tác phẩm ấy.
Có thể nói rằng, trong kiến trúc, về phương diện thẩm mỹ thuần túy, cả hai khái niệm tỉ lệ và nhịp điệu đã được người xưa khám phá ra ngay từ thời cổ đại ở các nền văn hóa Lưỡng Hà, Ai Cập, và Hy Lạp, nhưng về phương diện kỹ thuật, thì từ kỹ thuật rầm cột đến kỹ thuật kết cấu vòm mỏng bêtông, hay kết cấu khung sắt thép nhẹ, nhân loại đã phải trải qua trên dưới 3500 năm.
Điều không thể tưởng tượng được, mặc dầu suy cho cùng, thì cũng chỉ là lô gích, là cái nền kiến trúc dựa trên các thức cột và tỉ lệ ấy, đã kéo dài ngần ấy thế kỷ, dưới nhiều hình thức biến tướng, và trải qua nhiều thời kỳ nghệ thuật, mà đến nay vẫn chưa chấm dứt được ! Sở dĩ như vậy, là vì trong kiến trúc, không chỉ có vấn đề thẩm mỹ như hội hoạ, hay điêu khắc, mà còn có vừa cả vấn đề kỹ thuật, lẫn kinh tế.
Ngay cả ngày nay, họa hoằn lắm, người ta mới có được một vài công trình mà thẩm mỹ thiên về nhịp điệu. Nhưng đó chỉ là những trường hợp ngoại lệ, vì những lý do kỹ thuật và kinh tế, kể trên.
Nhìn dưới góc cạnh này, thì cung Opera ở Sydney do Jorn Utzon thiết kế, quả là đã đi quá cái mức có thể thực hiện được so với trình độ kỹ thuật ở thời của Jorn Utzon. Ngược lai, ở viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao, tác phẩm của Frank O. Gerhy, tác giả đã dung hoà được thẩm mỹ hiện đại và kỹ thuật tiên tiến một cách chừng mực hơn, để đạt hiệu quả tối ưu.
– Văn Ngọc –
Những yếu tố căn bản trong kiến trúc (Phần 1)
Những yếu tố căn bản của hình khối trong trình tự phát triển từ một điểm tới kích thước một chiều – đường, từ đường tới kích thước hai chiều – diện, và từ diện tới kích thước ba chiều – khối. Mỗi yếu tố trước tiên được xem như một quan niệm, sau đó được hiểu như một yếu tố thị giác trong hệ thống từ vựng của kiến trúc.
Giống như những yếu tố thuộc về quan niệm, điểm, đường, diện và khối là vô định hình ngoại trừ trong nhận thức thị giác. Chúng không tồn tại thực tế nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của chúng. Chúng ta có thể cảm nhận được một điểm ở sự giao cắt giữa hai đường, một đường xác định giới hạn của một diện, một diện bao quanh khối và khối của một vật thể chiếm lĩnh không gian.
Khi tạo nên sự hữu hình trên mặt giấy hoặc trong không gian ba chiều, những yếu tố này bắt đầu được định hình với những đặc điểm vật chất, hình dạng, kích cỡ, màu sắc và chất cảm. Khi trải nghiệm những hình thức trong môi trường, chúng ta có thể cảm nhận được cấu trúc đang tồn tại những yếu tố căn bản: điểm, đường, diện và khối.

Điểm: Như nguồn phát sinh căn bản của hình khối
– Điểm: Đánh dấu một vị trí trong không gian. Một điểm kéo dài thành một …
– Đường: Với các thuộc tính:
+ Chiều dài
+ Phương, chiều
+ Vị trí
Một đường mở rộng thành một …
– Diện: Với các thuộc tính:
+ Chiều dài và chiều rộng
+ Diện tích
+ Hướng
+ Vị trí
Một diện đẩy lên thành một…
– Khối: Với các thuộc tính:
+ Chiều dài, chiều rộng và chiều sâu
+ Hình khối và không gian
+ Bề mặt
+ Hướng
+ Vị trí


1. Điểm:

Một điểm đánh dấu một vị trí trong không gian. Theo định nghĩa, điểm không có chiều dài, chiều rộng hay chiều sâu, và do đó tĩnh tại, tập trung, vô hướng.
Là một yếu tố căn bản trong hệ thống từ vựng của hình thức, điểm có thể dùng để đánh dấu:
– Hai đầu giới hạn của một đoạn thẳng.
– Sự giao cắt của hai đường thẳng.
– Sự giao nhau ở những góc của một diện hay một khối.
– Tâm của một vùng.

Mặc dù một điểm xét về lý thuyết không phải là hình hay khối, nhưng nó cũng bắt đầu tạo nên sự hiện diện có thể cảm nhận được khi đặt trong trường thị giác. Ở trung tâm của trường thị giác đó, điểm tĩnh tại và ở trạng thái nghỉ, tổ chức các yếu tố xung quanh nó và chế ngự trường thị giác.
Khi điểm di chuyển xa trung tâm, trường thị giác bị xung đột và bắt đầu tranh chấp những ưu thế thị giác. Sức căng thị giác được tạo ra giữa điểm và trường thị giác.
Yếu tố điểm trong kiến trúc:

Quảng trường Campldogllo/Rome/1544/Michelangelo Buonarroti Tượng cưỡi ngựa của Marcus Aurelius đánh dấu trung tâm của không gian đô thị này.
Một điểm không có kích thước. Để đánh dấu một vị trí trong không gian hay trên mặt đất, một điểm phải được phóng lên theo phương đứng thành một hình thức đường: cột, obelish hoặc tháp. Bất kỳ yếu tố dạng cột nào cũng được xem như một điểm và vì thế giữ được đặc trưng thị giác của một điểm. Những hình thức khác phát triển từ một điểm có cùng thuộc tính thị giác là:



* Bộ đôi điểm:

Hai điểm vạch ra một đoạn thẳng nối chúng. Tuy hai điểm giới hạn chiều dài của đoạn, nhưng đoạn cũng có thể coi là một phần trong cả một đường thẳng dài hơn.



Hai điểm, thêm nữa, còn gợi ra một trục vuông góc với đường nối giữa chúng mà chúng đối xứng qua đó. Vì trục này có thể có chiều dài vô hạn nên trong nhiều trường hợp nó có ảnh hưởng thị giác còn mạnh hơn cả đoạn thẳng đã vạch ra ban đầu.
Dù thế nào thì trong tất cả các trường hợp, đường thẳng nối hai điểm và trục vuông góc của nó đều có ưu thế về thị giác so với những đường chỉ đi qua một điểm.
Torii, Miếu Ise/Quận Mie, Nhật Bản/690 TCN
Hai điểm được tạo nên trong không gian bởi hai yếu tố cột hoặc những hình thức tập trung có thể xác định được một trục – một phương tiện bố cục thông suốt quá trình tổ chức gây dựng lên những hình khối và những không gian.
2. Đường:

Một điểm kéo dài thành một đường. Về quan niệm, một đường có chiều dài nhưng không có chiều rộng và chiều sâu. Trong khi điểm được tạo bởi một trạng thái tĩnh tự nhiên, một đường, trong sự vạch ra hình dáng của nó bởi chuyển động của một điểm, có khả năng biểu hiện chiều hướng thị giác, sự chuyển động và sự phát triển.
Đường là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành bất kỳ cấu trúc thị giác nào.
Một đường có thể dùng để:
– Nối, liên kết, bao hoặc phân cắt những yếu tố thị giác khác.

– Xác định cạnh và hình dạng bất kỳ của diện nào.

– Làm rõ bề mặt của một diện.

Tuy một đường, theo lý thuyết, chỉ có một chiều kích thước, nhưng nó phải có độ dày để có thể cảm nhận được. Khi đó nó trông như một đường vì chiều dài chiếm ưu thế thị giác so với chiều rộng của nó. Đặc tính của một đường, dù căng hay mềm, dứt khoát hay đứt đoạn, mượt mà hay lởm chởm, đều được xác định bằng cảm nhận của chúng ta từ tỉ lệ dài/rộng, đường nét và mức độ liên tục của chúng.

Ngay cả sự lặp lại đơn giản của những yếu tố giống hoặc gần giống nhau, nếu đủ liên tục, cũng có thể được coi như một đường.

Hướng của một đường ảnh hưởng tới vai trò của nó trong cấu trúc thị giác. Trong khi đường thẳng đứng có thể biểu hiện cho sự cân bằng với lực trọng trường, tượng trưng cho trạng thái bình thường của con người hoặc đánh dấu một vị trí trong không gian, thì đường nằm ngang lại biểu hiện sự cân bằng, tương đương với mặt đất, hoặc trạng thái nghỉ ngơi của con người.

Những đường xiên là dạng lệch của những đường thẳng đứng hoặc nằm ngang.
Nó có thể trông như một đường thẳng đứng đổ xuống hoặc như một đường nằm ngang đang nâng lên. Trong bất kể trường hợp nào, dù nó đang đổ xuống một điểm trên mặt đất hay đang nâng lên mặt phẳng trên cao, nó vẫn rất sinh động và có hiệu quả thị giác trong trạng thái không cân bằng.
* Yếu tố đường nét trong kiến trúc:
Tháp chuông nhà thờ ở Vuoksenniska Imatra, Phần Lan/1956/Alvar Aalto
Các đường thẳng đứng, giống như cột, những obelisk và những tháp, suốt trong chiều dài lịch sử, được sử dụng để đánh dấu một sự kiện trọng đại và lập nên những điểm riêng biệt trong không gian.
.jpg)
– Menhir: Một dạng tượng đài sơ khai bao gồm một cột cự thạch dựng đứng, thường đứng đơn lẻ song có khi được xếp thành hàng với những cái khác.
– Cột Marcus Aurellus: Piazza Colonna/Rome/174. Khối hình trụ này tưởng nhớ chiến thắng của đế quốc trước bộ tộc German ở phía bắc sông Danube.
– Obelish ở Luxor: Quảng trường Concorde/Paris/Pháp. Obelish là cột đánh dấu lối vào đền thần Amon ở Luxor, được trao bởi phó vương Ai Cập, Mohamed Ali, cho Louis Phillipe và đặt tại đây vào năm 1836.
Thánh đường Hồi giáo Edirne, Thổ Nhĩ Kỳ/1569-1575
Những đường thẳng đứng có thể vạch ra khối tích vô hình trong không gian. Trong ví dụ minh họa ở bên trái, bốn tháp hồi giác vạch ra một vùng không gian ở trên mái vòm nhà thờ Hồi giáo nâng lên trong sự tráng lệ.
Cầu Salginaatobel Thụy Sĩ/1929-1930/Robert Mailiart
Những dầm và sườn cầu có khả năng chịu uốn để kéo dài không gian giữa những cột đỡ chúng và nhận những tải trọng ngang.
.jpg)
Những thành phần đường có độ cứng cần thiết có thể đảm nhận chức năng kết cấu. Trong 3 ví dụ sau, các yếu tố đường:
– Biểu thị sự chuyển động qua một không gian.
– Đỡ trần.
– Tạo nên khung kết cấu ba chiều cho không gian kiến trúc.
Vương phủ Katsura/Kyoto, Japan/thế kỷ 17 Những cột thẳng và dầm cùng tạo nên hệ khung ba chiều cho không gian kiến trúc
Biệt thự Aldobrandini Ý/1958-1603/Glacomo Della Porta
Đường giống như một yếu tố quan niệm hơn là một yếu tố thị giác trong kiến trúc. Một ví dụ là trục, một đường trung hòa tạo ra bởi hai điểm có khoảng cách với nhau trong không gian và các yếu tố được sắp xếp đối xứng quanh nó.
House 10/1966/John Hejduk
Mặc dù không gian kiến trúc tồn tại trong ba chiều, nó cũng có thể tuyến tính dưới dạng một đường chuyển động thông qua một công trình và liên kết những không gian của công trình đó.
Những công trình có thể mang hình thức tuyến, đặc biệt khi chúng bao gồm những không gian được sắp xếp dọc theo một đường giao thông. Như minh họa ở đây, hình thức tuyến tính có khả năng vây những không gian bên ngoài cũng như thích ứng với những điều kiện môi trường của khu đất.
Tòa thị chính Saynatsalo/Phần Lan/1950-1952/Alvar Aalto
Ở tỉ xích nhỏ, những đường thẳng kết nối những cạnh của diện và bề mặt của khối. Những đường thẳng có nhiều dạng biểu hiện khác nhau như những mối nối bên trong hoặc giữa các mảng vật liệu xây dựng, khung cửa sổ hoặc cửa đi, hay là lưới kết cấu của dầm và cột. Cách thức những yếu tố đường nét gây hiệu quả chất cảm bề mặt sẽ phụ thuộc vào trọng lượng thị giác, không gian và chiều hướng của nó.
Crown Hall/Trường Kiến trúc và Thiết kế đô thị, Học viện Công nghệ Illinois/Chicago/1956/Miles van der Rohe
.jpg)
Seagram Building/New York/1956-1958 Mies van der Rohe
* Từ đường thành diện:

Hai đoạn song song có khả năng thiết lập một mặt phẳng về mặt thị giác. Màng ngăn trong suốt này được căng giữa hai đoạn thẳng và tạo ra mối liên hệ thị giác giữa chúng. Sự liên hệ càng chặt chẽ, diện mà chúng tạo nên càng được biểu hiện rõ.

Một hàng các đường song song, thông qua sự lặp lại, tăng cường cảm giác của chúng ta về diện mà chúng biểu hiện. Nếu những đường dày lên theo diện mà chúng tạo nên, mặt phẳng ẩn dụ này trở thành thực sự và khoảng trống ban đầu giữa các đường lại trở thành khoảng gián đoạn trên mặt phẳng.
Giản đồ minh họa sự biến đổi của những hàng cột tròn, ban đầu đỡ tải trọng của một phần tường, rồi phát triển thành cột vuông có thể ăn nhập với mặt phẳng tường, và cuối cùng trở thành thành phần xuất hiện như một sự thay thế mặt tường.

“Cột là một phần nào đó của tường, dựng thẳng góc từ móng cho tới đỉnh… Một hàng cột thực ra là một bức tường hở và bị phá hủy vài chỗ”. Leon Battista Alberti.
* Những yếu tố đường tạo nên diện:
Bảo tàng Altes/Berlin/1823-1830/Kari Friedrich Schinkel
.jpg)
Một hàng cột đỡ cho mũ cột – hàng cột cổ điển – thường được sử dụng để phân định khu vực công cộng hoặc mặt đứng của công trình, đặc biệt khi nó nằm trước không gian đón tiếp. Một mặt đứng tạo bởi hàng cột có thể dễ dàng bố trí lối vào, tạo sự che chắn nhất định và tạo nên màng chắn bán trong suốt thống nhất với khối công trình đơn lẻ ở phía sau nó.
Basllica/Vicenza, Ý
Andrea Palladio thiết kế nó gồm loggia hai tầng vào năm 1545 để bao trùm lên kết cấu thời trung cổ. Phần thêm vào này không chỉ chống đỡ vững chắc thêm cho kết cấu cũ mà còn tác động như một bức bình phong che đi sự bất quy tắc của phần lõi nguyên bản và tạo nên mặt đứng đồng đều nhưng tao nhã ở quảng trường Signori.
Cổng vòm Attalus phía trước Agora ở Athens
Hàng hiên tu viện Moissac/Pháp/1000
Ngoài vai trò kết cấu của cột trong việc đỡ sàn phía trên hoặc mặt mái, cột có thể ăn khớp với đường bao xuyên suốt vùng không gian, vì thế không gian dễ dàng hòa nhập với không gian xung quanh.
Nhà thờ St. Philibert/Tournus, Pháp/950-1120
Khung nhìn gian giữa của giáo đường chỉ ra cách những hàng cột có thể tạo nên một giới hạn giàu tính nhịp điệu của không gian.
Cary House/Thung lũng Mill, California/1963/Joseph Esherick
Giàn ở sân trong, biệt thự Georgia O’Keefe /Abiquiu, phía Tây Bắc Sante Fel New Mexico.

Phòng tắm nắng, Khu quản lý đơn vị 1, biển Ranch/California /1966/Moore, Lyndon, Turnbull, Whitaker (MLTW)
Những thành phần dạng giàn có thể điều tiết sự phân định và sự bao che không gian bên ngoài trong khi vẫn cho phép ánh sáng tràn vào.
Những đường ngang dọc có thể phân định một khối tích trong không gian như nhà tắm nắng. Chú ý rằng hình khối chỉ được xác định một cách đơn giản bởi những yếu tố đường.
Từ khóa » Hình Khối Kiến Trúc
-
Hình Khối Trong Kiến Trúc (Phần 1) - MyThuatMS
-
Hình Khối Trong Kiến Trúc (Phần 2) - MyThuatMS
-
Nguyên Tắc Hình Khối Trong Thiết Kế Không Gian Kiến Trúc đẹp
-
Nguyên Lý Tổ Hợp Hình Khối Kiến Trúc - Nội Thất Gia Khánh
-
Dấu ấn Từ Hình Khối Kiến Trúc - EBM Doors And Windows
-
Nguyên Lý Tổ Hợp Hình Khối Kiến Trúc - Trangwiki
-
Mẫu Biệt Thự Kiến Trúc Hình Khối Hiện đại
-
370 Cơ Sở Tạo Hình Khối ý Tưởng - Pinterest
-
Hình Và Khối Ngôn Ngữ Của Sự Biểu Hiện Trong Nghệ Thuật Tạo Hình
-
CÁC QUY LUẬT BỐ CỤC HÌNH KHỐI KHÔNG GIAN CỦA CÔNG ...
-
Các Nguyên Tắc Tổ Hợp Hình Khối Không Gian - Tài Liệu Text - 123doc
-
Phong Cách Kiến Trúc Hiện đại - Thiết Kế & Xây Dựng Nhà đẹp AZAR
-
Thiết Kế Kiến Trúc Theo Phong Cách Hiện Đại