Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn- Chuyện Hiển Linh ở Việt Nam

Chuyện Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ở Việt Nam ta rất nhiều. Chỉ hiềm vì hai ngàn năm nay chiến tranh liên miên nên các tài liệu chẳng được lưu truyền. Thành ra những chuyện linh ứng về Ngài mà chúng ta được đọc phần lớn được dịch từ Trung Quốc.

Tôi từ ngày học Phật đến nay vẫn đau đáu tìm kiếm những câu chuyện linh ứng của Ngài với dân tộc Việt Nam. Bởi phước bạc nên đến nay mới có duyên lành được một bạn đọc vô danh gửi cho cuốn: ” Linh Ứng Quán Thế Âm” của Hòa Thượng Tịnh Từ. Lại dặn dò thêm:

“Biên tập rồi đăng lên cho nhiều người cùng đọc. Việc ấy sẽ giúp tăng trưởng tín tâm cho người sơ cơ, đặc biệt là trong thời buổi pháp nhược ma cường này. Nên biết rằng: Phàm người gặp bất cứ khổ nạn gì, chỉ cần chí tâm niệm một câu Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát thôi, không ai không được Ngài rủ lòng từ gia bị.“.

*

Nay tôi mạn phép Hòa Thượng Tịnh Từ, trích đăng những phần cốt yếu nhất của sách cho mọi người cùng đọc. Có chút phước nào, nguyện hồi hướng cho Pháp giới chúng sanh cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây phương Tịnh độ.

Xin nhấn mạnh rằng: Không nói dối là một trong năm trọng giới của Phật pháp. Những câu chuyện dưới đây đều là những câu chuyện hoàn toàn có thật. Bạn đọc nếu tin được thì thật tốt lành. Bằng nếu chẳng tin, cũng xin chớ hủy báng mà mang tội!

  • Trùng tang – Là thật hay cú lừa xuyên thế kỷ mang tên Tâm linh.
  • Tam giới là gì.
  • Thiên Ma là loại ma gì.
  • Phẩm Phổ môn Quán Thế Âm Bồ Tát.
  • Chuyện Quán Thế Âm bồ tát cảm ứng.
  • Chuyện Tâm linh có thật.
  • Lúc khẩn cấp nhớ niệm Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn
Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn

Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn

Nhiệm Mầu Thay Đức Tin

Tôi hồi còn nhỏ học trường tư thục Thiên Chúa Giáo, trốn nhà vào chùa ở lúc mười bốn tuổi. Bổn sư tôi là Ðại sư Viên Giác – sáng lập tu viện Giác Hải ở làng Viên Tự, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh hòa, Nha Trang. Thầy tôi rất thương tôi, nhưng người cho tôi là loại trẻ “cứng đầu”.

Thầy tôi tin tưởng Ðức Quán Thế Âm một cách lạ lùng, còn tôi thì hời hợt với chuyện này. Không phải chỉ lúc mới đi tu trí óc còn non dại, mà ngay đến khi thọ giới tôi vẫn quan niệm: Ðức Quán Thế Âm như một hình ảnh biểu tượng về tình thương. Thờ Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng qua là hiếu kính người hiền và nặng lòng tín ngưỡng. Thầy tôi đã huy động dân làng và Phật tử khắp nơi dựng Quán Âm Ðiện Các ở trên đỉnh núi Ông Sư tại làng Xuân Tự để phụng thờ. Tôi là người hưởng ứng và săn sóc hương khói một cách bất đắc dĩ.

Năm 1958, tôi không may bị chứng đau đầu thống trầm trọng. Lý do là tôi ham học và thiếu ngủ. Tôi mê say học kinh điển như một bộ môn triết lý đầy thú vị. Mặt khác tôi lo học chương văn hóa ở cấp trung học. Một đêm tôi không ngủ quá ba tiếng đồng hồ.

*

Sau kỳ thi cử không bao lâu, tôi buông bỏ bút nghiên, sự nghiệp học vấn. Ðầu tôi đau như muốn vỡ tung từng mảnh, mắt xốn như bị bão cát lùa vào từng cơn. Mũi chảy ra nước xanh, nước vàng. Tôi bỏ ăn, bỏ ngủ. Bao nhiêu nhà thương, bác sĩ tây y có tiếng, tôi đều tìm đến. Bao nhiêu thầy giỏi thuốc bắc, thuốc nam gia truyền tôi đều khẩn cầu. Vậy nhưng tất cả đều vô hiệu.

Vào Sài Gòn chữa bệnh, tinh thẩn tôi càng thêm sa sút. Nhiều lần tôi muốn vào trong lòng đại dương tươi mát để tìm giấc ngủ an lành. Thầy tôi biết rõ tình trạng đau khổ, bi quan của tôi nên thường ở bên cạnh để săn sóc an ủi. Dồn hết để lo chữa bệnh cho tôi. Thầy đã nhiều tháng thức trắng đêm với tôi. Thầy trò thường đi bộ trên bờ biển hóng mát để tôi bớt đau nhức, vì bệnh hành hạ về đêm.

Có một đêm ngồi trên vịnh eo biển Phan Rang, thầy trông có vẻ rất buồn. Người bảo tôi rằng: “Thầy thương quý con hơn cả vàng ngọc. Tuy vậy nhiều lúc thầy rất giận con, vì con ngang ngược, cứng đầu. Con không chịu nghe lời thầy trì tụng kinh Phổ Môn, xưng danh hiệu đức Quan Thế Âm Bồ Tát để cầu ngài chữa bệnh cho con”. Ðó là đêm hai thầy trò chúng tôi ôm nhau mà khóc.

*** Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ***

Tôi nghe lời thầy tôi như con trẻ tin lời mẹ dạy. Tôi không còn đi cầu thầy chữa bệnh nữa, trở lại chùa ở Xuân Tự; nhập thất ba tháng, chuyên trì tụng chú Ðại Bi; tụng kinh Phổ Môn và niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Sau ra thất bệnh chẳng thuyên giảm, tôi vào chùa Ông ở Nha Trang xin tịnh dưỡng. Lại tiếp tục nhập thất, lễ sám hối và trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Kỳ diệu thay, sau hai tháng sám hối và nhất tâm xưng niệm Thánh hiệu; tôi cảm ứng Mẹ Hiền Quán Âm cứu khổ và dứt trừ cơn bạo bệnh. Thân tâm tôi nhẹ nhõm như một cuộc tái sanh mới.

Tối đó là ngày rằm, khoảng đầu mùa hè năm 1960. Tôi ngồi thiền và niệm chú Ðại Bi nơi gác chuông Chùa Ông. Lúc đó khoảng hai giờ sáng, tôi thấy một luồng ánh sáng rọi vào gác chuông. Kết đến hiện ra một thiên nữ mặc áo trắng. Ngài trao cho tôi mười hai viên thuốc nhỏ xíu và một bình nước trắng đựng trong lọ thủy tinh có buộc giải lụa màu xanh. Thiên nữ xoa đầu tôi và nói:

“Ðây là thần dược, ngươi uống xong sẽ hết bệnh, hết khổ. Nhưng nên nhớ khi khỏe mạnh rồi, lo chăm chỉ hành đạo để cứu người. Chớ có để vọng tâm buông lung, tình đời chi phối.” Lời thiên nữ hiền dịu như lời mẹ hiền, tôi cúi đầu đãnh lễ tạ ơn và phục mệnh.

*

Lúc ấy, tôi có cảm giác an lạc lạ lùng. Tôi chấp tay cung kính cầm thuốc bỏ vào miệng uống mà không nói một lời nào. Vị thiên nữ bảo tôi nằm ngủ rồi tan biến vào hư không. Sau một giấc ngủ dài, tôi thức dậy không cảm thấy đau đầu nữa.  Bệnh tôi chấm dứt hẳn. Hình ảnh người thiên nữ mặc áo trắng kia là ai, tùy mỗi người đặt tên gọi.

Sự “cứng đầu” của tôi đã bắt đầu “mềm”. Từ đó, tôi tin tưởng và tích cực tìm hiểu về hạnh nguyện cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Hôm tôi lành bệnh trở lại chùa, trong bữa cơm liên hoan của đại chúng, thầy  tặng cho tôi bài thơ:

Thương con như trái tim mình

Thương con vượt thoát ngục hình đớn đau

Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu

Trí bi song vận duyên lành ứng cơ

Tín tâm dứt mối nghi ngờ

Thuyền từ đưa đến bến bờ an vui

Ðường tu mãi tiến chớ lùi

Giới răng gìn giữ ngọt bùi chớ mê

Tịnh thiền định huệ đường về

Ngộ tâm đạt tánh nguyện thề độ sanh

Bồ đề quả kết chóng thành

Nối dòng Phật tổ cứu người trầm luân.

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Thoát Nạn Nước Cuốn

Nước trôi song bị chìm

Nhờ sức niệm Quán Âm

Ðược sống lâu thọ mạng

Nhờ Quán Âm thọ trì.

Hồi mới lên 6,7 tuổi, tôi và anh tôi cứ mỗi buổi trưa cuối tuần hay trốn mẹ ra sông để tắm. Một hôm gặp mùa mưa tháng tám, nước lớn từ trên nguồn tuôn về quá mạnh, khiến con đê trong làng bị vỡ. Nơi khúc sông cạn bỗng dưng nước ngập, xoáy sâu và chảy xiết. Cả hai anh em tôi đều bị cuốn theo dòng nước và không sao gượng nổi để vào bờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ kịp nghe tiếng anh tôi nhắc: “Em ơi! đừng sợ, niệm Phật Quán Âm đi”, rồi anh tôi mất dạng.

Tôi cũng chìm ngập trong biển nước xoáy. Nhờ lời nhắc niệm Phật Quán Âm của anh, nên ý thức của tôi lúc đó rất bình tĩnh và sáng suốt. Tôi nói thầm trong miệng: “Phật Quán Âm ơi! cứu con với! Con mệt lắm rồi…” Tôi cứ lẩm bẩm trong miệng hoài như thế cho đến khi không còn biết gì nữa. Tôi đã bị chết trôi? Không, tôi đã được đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu sống đến bây giờ. Năm nay tôi đã 57 tuổi, kể ra tôi cũng thọ mạng đấy chứ.

*

Trong cơn mê man của một giấc ngủ dài, tôi nghe tiếng một ông lão gọi bên tai: “Này con, thức dậy để đi tìm anh con vể nhà. Mẹ, ba con, ông bà nội của con đang nóng lòng chờ hai anh em con về ăn cơm trưa đó.” Khi thức dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một cồn cát trắng, sát bên cạnh một vùng nước mênh mông. Nhìn quanh bốn phía chẳng thấy nhà cửa, chẳng thấy bóng dạng người qua lại. Nhìn vào thân thể, tôi bỗng thẹn thùng vì thấy mình trần trục, không có quần áo gì cả.

Nhìn vào ngực, tôi bắt gặp cái tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát nhỏ mạ vàng mà mẹ tôi đã đeo trong cổ cho tôi ngay hồi tôi mới sinh được vài tháng. Tôi mỉm cười, cầm cái tượng vân vê trên tay, rồi nói: “Phật Quán Âm ơi! Anh của con đâu rổi? Nếu anh của con mà bị nước cuốn trôi thì mẹ, ba, ông bà nội, ông bà ngoại của con khóc đó. Con cũng không chịu mất đi anh của con đâu. Phật Quán Âm ơi! chỉ cho con biết anh của con đang ở đâu, để con tới dẫn anh con về nhà kẻo mẹ lo. Mẹ thương hai anh em con lắm đó.”

Vừa réo gọi Phật Quan Âm vài tiếng, tôi ngẩng đầu nhìn ra phía sóng nước trùng khơi. Thấy một con đò nhỏ đang chạy thoăn thoắt đi về phía mình. Tôi reo lên mừng rỡ và nhảy ra con nước ôm lấy anh tôi khi con đò vừa đến. Anh tôi đã đến trên một con đò nhỏ với ông lão.

*

Sau phút chốc anh em mừng tủi; Tôi quay lại nhìn thì không thấy chiếc đò và ông lão đâu nữa. Cả hai anh em kinh ngạc tìm kiếm… Nhưng, giữa cánh đồng con nước mênh mông, vẫn im lìm không một bong thuyền đò qua lại. Ông lão chèo đò như chưa từng tồn tại.

Anh tôi bảo rằng khi cơn nước đẩy, vì không nhìn thấy tôi nên anh tôi la lớn, bảo tôi niệm Phật Bà Quán Âm. Anh biết mình sắp chết đuối và nhớ lời mẹ dặn là khi gặp tai nạn thì niệm Phật Bà Quán Âm. Lúc đó, anh tin là có Phật Bà và nghĩ Phật Bà rất linh thiêng, nên không lo sợ. Anh tôi nhắm mắt và thầm niệm: Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Anh niệm tên của Phật Bà ước chừng được mười lần thì chẳng còn hay biết gì cả.

Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trên chiếc giường tre với bộ áo quần xanh mới. Ngay bên cạnh là bếp lửa đang nấu nồi cháo trắng sôi sùng sục. Trong nhà chỉ có một ông lão tuổi chừng bảy mươi, tướng mạo rất đẹp, miệng luôn cười như Phật Di Lặc. Ông lão lấy cháo trộn với đường cát cho anh ăn rồi ông khen anh ngoan. Bảo còn nhỏ mà đã biết tin Phật Bà Quán Âm.

*

Anh tôi hỏi: “Bác có biết Phật Bà ở đâu không?” Ông lão cười và chỉ vào trái tim của anh tôi. Ý ông lão nói là Phật Bà ở trong tâm của anh tôi. Ăn cháo xong, ông lão nói với anh là đi tìm tôi và sẽ đưa cả hai anh em về nhà. Anh ngồi trên chiếc đò nhỏ và ông lão đưa anh tới đây gặp tôi.

Tôi bảo anh: “Như vậy ông lão đó chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà anh em mình thường nghĩ và niệm bấy lâu nay.”

Anh gật đầu thốt lên: “Ừ hơ, ờ hơ, anh có cảm giác là ông lão này là lùng lắm, không phải là một người thường…” Mặt trời chiếu lên cao, anh cởi chiếc áo đang bận trùm lên mình tôi. Hai anh em tôi dắt nhau về nhà một cách bình an.

Chuyện này xảy ra tại thôn Phường Sắn là một thôn nhỏ tại làng Long Hưng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị – Nơi tôi ra đời và lớn lên.

( Nguyễn Năng Diêu, anh hai tôi ghi lại chuyện này trong nhật ký của người. Tôi cung kính chép lại nơi đây để cống hiến đến quý thân hữu xa gần và mong bạn đọc cho anh tôi một lời cầu nguyện. Anh tôi đã qua đời năm 1961 vì chiến tranh và bom đạn vô tình.)

( Nguyên Quang)

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Người đưa đường chỉ lối

Quán Âm người dẫn lối

Ði tìm đại từ bi

Quán Âm thầy thắp sáng

Soi nẻo về thênh thang.

Năm tôi đi tu, đường đi nước bước không rành; cũng chẳng biết chùa và thầy hiền ở đâu mà tìm kiếm. Mới mười bốn tuổi đầu, lòng tha thiết quyết chí đi tu; nhưng trước đó tôi chưa hề quen biết với bất cứ một vị thầy hay một sư chú nào trong chùa viện. Ðể thực hiện ý định đi tu của mình, ngày đêm tôi chỉ biết cầu nguyện và thầm xưng niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Cách niệm tôi tạm trình bày cho có vẽ “tươm tất” như sau:

  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con gặp người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con được vào chùa tu học và có cơ duyên trau dồi tình thương cao rộng.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con gặp được vị thầy sáng suốt và hiền đức để được tu tập.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tai ương trên đường đi cầu đạo giải thoát.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con giữ vững niềm tin nơi bản thân và Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con không bao giờ thối chí trong mọi hạnh lành, đem niềm vui đến cho nhiều kẻ khác.
    *
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con sớm khai mở trí tuệ và có đìều kiện tốt để giúp người thoát khỏi khổ đau.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con có đủ tâm đại hùng, đại lực để cứu nhân sanh vượt ra mọi ngục hình tư tưởng trong đời sống.
  • Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin giúp con mau thành Phật quả để đem đến hạnh phúc, lợi ích cho nhiều người. Cho nhiều tâm hồn đang bị đọa lạc trong kiếp luân hồi.

Hồi ấy, tôi không thể nói ra thành lời như vậy. Nhưng trong tâm tôi luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và hằng khởi lên những ý nghĩ tương tợ như thế.

Khuya hôm ấy, khoảng tháng 10 năm 1956, bên ngoài trời mưa tầm tã. Gió nổi tứ bề, cây cảnh ngã đổ, nước lũ tràn khắp đường sá xóm làng. Lúc khoảng 12 giờ đêm, tôi rón rén mở cửa trốn nhà đi vào Huế tìm chùa, tìm thầy học đạo. Từ làng ra tỉnh và từ tỉnh Quảng Trị đón xe đò đi vào Huế. Đối với tôi lúc bấy giờ là một con đường thăm thẳm, diệu vợi và hết sức khó khăn. Thế những tôi không hề có chút chần chờ, lo ngại.

Trong cái nãi xách tay của tôi chỉ có hai bộ áo quần màu xám. Thêm một tấm hình Quán Thế Âm nhỏ bằng giấy, dán liền trên tấm ván mỏng. Tấm hình này được một anh huynh trưởng trong làng cho tôi cách đó hai năm về trước.

*

Ngoài cái “gia bảo” ấy, trong túi tôi còn có hai chục bạc để đi đường. Số tiền này đứa em gái đã cho tôi cách đó vài hôm; khi em được phần quà thưởng học giỏi từ ông cậu ruột gởi cho.

Ra khỏi nhà, tôi phải đi qua chiếc cầu tre bắc ngang một con sông rộng chảy qua làng. Đến giữa cầu thì rủi ro, cái cầu tre bị gãy. Thế là tôi bị trôi sông, cuốn theo dòng thác lũ đưa về xóm Bàu. Nhờ sức niệm Bồ Tát Quán Âm mà tôi thoát tai nạn nước chìm. Không ngờ trong tai nạn ấy hóa ra tôi đã đi con “đường tắt”:

Con đường từ xóm Bàu lên đường cái quan rất gần, chỉ đi bộ khoảng hai mươi phút thôi. Trong khi đó nếu tôi không bị dòng nước cuốn trôi, thì phải đi con đường dài từ làng ra đường cái quan. Lên tỉnh để đón xe đi vào Huế cũng phải mất mấy tiếng đồng hồ. Nhưng chưa chắc thành công, vì tôi có thể bị người nhà tìm bắt trở lại.

Nước lũ đưa đường chỉ lối cho tôi lên chùa

Nước lũ chỉ nẻo đường tắt đưa tôi về nguồn cội

Nước lũ giúp tôi đi mau tới đích

Và không bị cản, ngăn chướng ngại.

*** Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ***

Lên xe đò vào Huế, ông tài xế thấy tôi còn nhỏ quá nên không lấy tiền. Khi xuống tại bến đò, đang lay hoay tìm kiếm đường lên chùa, thì một bà cụ nói là bà ở trước chùa Báo Quốc. Bà tự động kêu xe xích lô bảo bác tài xế đưa tôi về chùa ấy. Lên đến cửa chùa, tôi lấy hai chục đồng bạc trong túi trả bác xích lô. Thế nhưng bác nói là bà cụ khi nãy đã trả tiền xong rồi. Thế là gia tài số tiền mặt ấy tôi vẫn còn giữ hoài trong túi không bao giờ tiêu xài. Bà cụ thuê xe và chỉ đường lên chùa cho tôi là ai, tôi không biết rõ lai lịch?

Sau này tôi nghiệm lại, tôi mới biết đây là sự chỉ điểm của thánh hiền. Là sự mầu nhiệm đưa đường chỉ lối của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Chùa Báo Quốc tại Huế là một viện Phật học. Là nơi đào tạo chư Tăng và nhân sự Phật Giáo tài đức để hoằng pháp, lợi sanh –  Dưới sự dám viện của hòa thượng Thích Trí Thủ. Khi vừa bước chân lên cổng chùa thì tôi liền được sư chú Tâm Hòa tiếp đón rất niềm nở như người nhà. Việc này khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Vì dường như việc tôi đến đây sư chú có linh tính biết trước rất rõ ràng.

*

Sư chú Tâm Hòa dẫn tôi vào phòng khách và nói cho tôi biết: “Có đại sư Thích Viên Giác sáng lập và Trụ trì tu viện Giác Hải ở tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang. Ngài đã đến đây ba hôm để đợi em đó. Em có phải từ tỉnh Quảng Trị vào và đang đi tìm thầy, tìm chùa để xuất gia học đạo không?”

Tôi chỉ cuối đầu dạ và chưa kịp nói thì sư chú Tâm Hòa nói tiếp: “Ðại sư Viên Giác cho tôi hay là được Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ điểm, nên ngài đến chùa Báo Quốc từ Nha Trang để nhận một chú bé đem về chùa nuôi. Ngài bảo tôi ra đứng trước của Tam Quan suốt cả buổi chiều nay để đợi em. Em hãy vào trong để ra mắt vị thầy của em”.

Nghe sư chú Tâm Hòa nói, lòng tôi sung sướng vô vàn. Tôi thấy tràn ngập hạnh phúc và nhẹ nhõm như mình đang bay trên một không gian vô tận.

Bước chân vào phòng, tôi thấy một vị thầy mặc áo nâu rộng, thân thể gầy ốm nhưng đôi mắt rất sáng. Thầy trạc tuổi 40 đang ngồi kiết già, mặt quay về phía cửa chính như đang chờ đợi một người. Ngài chờ đợi tôi, đó là đứa bé mới 14 tuổi đầu, bỏ nhà, bỏ cha mẹ đi tìm thầy khai mở tâm linh.

– Con muốn tìm thầy để được tu tập phải không? – Ngài nhìn tôi hỏi.

Tôi cúi đầu trả lời:

– Thưa thầy dạ phải.

– Con đi tu để làm gì?

*

– Thưa thầy, con đi tu để làm giảng sư để dạy cho cái tâm của con trở nên hiền lành và dạy cho người khác bớt đau khổ nhờ cái tâm sáng suốt.

Nghe xong, ngài cười và không hỏi thêm gì nữa. Tôi được sư chú Tâm Hòa và Diệu Trí giúp chuẩn bị việc làm lễ xuống tóc cho tôi. Sau khi cạo tóc và măc y phục của chú tiểu vào mình, tôi thấy mình là một con người mới. Ba giờ sáng hôm sau thầy trò tôi ra sân ga trở về tu viện Giác Hải Nha Trang. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Ðời tôi đã có vị thầy đưa đường chỉ lối. Đó là đại sư Viên Giác, vị bổn sư của tôi, nuôi dưỡng tâm tôi khôn lớn.

Sau này tôi mới rõ, thầy tôi lập chùa Giác Hải được ba năm -Trên núi Ông Sư, làng Xuân Tự ở quận Quảng Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thầy có nuôi vài ba chú tiểu nhưng tất cả đều bỏ về nhà. Thầy tôi tụng kinh Phổ Môn để nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát tìm giúp thầy tôi một chú tiểu có nhân duyên và căn khí, để nối chí thầy tôi hoằng pháp trong tương lai. Nhờ đức Quán Thế Âm  điểm hóa và thầy trò chúng tôi đã gặp nhau. Tôi được xem như đệ tử lớn của thầy. Tâm ý giữa hai thầy trò chúng tôi rất tương đắc.

*

Quán Âm Bồ Tát rất nhiệm mầu

Thanh tịnh trang nghiêm nhiều kiếp tu

Khắp xứ người cầu đều cảm ứng

Biển trần qua lại độ quần mê.

Năm 1975 tôi qua Mỹ học, thầy tôi không vui lắm, vì người lúc nào cũng muốn tôi ở bên cạnh để lo việc chùa viện và giao phó hoằng pháp, nuôi Tăng độ chúng. Song thấy chí xuất dương của tôi đã quyết nên thầy tôi không ngăn cản. Bao nhiêu tình thương và ánh sáng soi đường, thầy tôi gói trọn cho tôi trong bài kệ:

Trái đất quê hương mẹ

Trong tim có quê hương

Mầu nhiệm trong tỉnh thức

Thực tại nẻo quay về.

( Nguyên Nguyện.)

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Thoát nạn trên Biển

Gia đình tôi gồm có bảy người, hai vợ chồng và năm đứa con nhỏ cùng vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ đánh cá với năm mươi hai người cùng xóm. Chỗ khởi hành là cửa biển Thuận An, Huế vào tối hai mươi tháng tư âm lịch năm 1979.

Ðó là một đêm tối trời và đầy kinh hãi, vì chúng tôi vừa cho tàu khởi hành vừa được bốn mươi phút thì bị tàu biên phòng Bình Trị Thiên phát giác và đuổi bắt. Chúng tôi ai cũng hoảng sợ, không còn đủ bình tĩnh để tính toán và nghĩ rằng, phen này tất cả đều bị bỏ tù, vì đây là lần vượt biên thứ ba bị phát giác của chúng tôi.

Trong khi nhiều người đang bối rối thì bác Tư Hiền, chủ bán tiệm vải ngày trước ở chợ Ðông Ba, hô to như ra lệnh cho mọi người trong tàu yên lặng, và bác bảo mọi người chắp tay thành kính niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Không ai bảo ai, mọi người răm rắp niệm Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát râm lên cả một góc trời, theo sự hướng dẫn của bác Tư Hiền giữa sóng nước mênh mông.

Lạ thay, thình lình một cơn mưa nặng hạt đổ xuống tầm tã trên biển cả. Trong màn đêm dày đặc, sấm chớp nổi lên giữ dội, thét gào như cơn thịnh nộ của những vị hung thần. Kỳ diệu thay, trong lúc đó con tàu nhỏ của chúng tôi chạy vi vút như tên bay, hướng ra khơi bởi một sức mạnh phi thường nào đó, ngoài sự kiểm soát tay lái của tài công.

*

Tài công hôm đó là anh Thông và tôi là người phụ tá cùng chấm địa bàn tay lái của anh. Cùng trong lúc ấy anh cảm thấy như đang rơi vào trong giấc ngủ, nằm kê đầu trên một thác nước chảy róc rách trên một sườn núi. Ở đây có nhiều khóm trúc và trên các cây cổ thụ xinh đẹp, treo sà xuống nhiều giò phong lan đủ màu, tỏa hương thơm ngát.

Trong khi đó, tiếng mọi người trên tàu vẫn tiếp tục niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ước độ mười phút sau, thì tàu chúng tôi vượt ra khỏi hải phận của công an kiểm soát biên phòng mà chúng tôi không hề hay biết. Thoát nạn, con tàu nhỏ của chúng tôi chạy thẳng vào đảo Hải Nam chỉ hơn bốn ngày sau. Thức ăn nước uống trên tàu còn hơn một nữa, vì vật thực chúng tôi chuẩn bị cho mọi người có thể sống đến ba tuần lễ trên đường lánh nạn.

Khi tàu ra khỏi hải phận, chúng tôi những người cùng đi hôm đó tôn bác Tư Hiền là mẹ đỡ đầu tinh thần. Bác Tư Hiền khiêm tốn không chịu, nhưng vì chúng tôi năn nỉ và trình bày chi tiết về sự quan trọng của đời sống tâm linh, nên bác Tư Hiền vui vẻ nhận lời. Mà bác Tư Hiền làm mẹ đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi là xứng lắm, vì bác đã trên sáu mươi tuổi, vóc dáng phương phi, nụ cười hoan hỷ, lời nói lúc nào cũng từ tốn, sắc sảo và đầy trìu mến.

*

Hơn nữa, bác Tư Hiền đã quy y Tam Bảo năm giới, và thọ thập thiện, và thọ Bồ Tát Giới với hòa thượng Quy Thiện từ lúc bác mới ba mươi mốt tuổi. Hòa thượng đặt cho bác cái pháp danh là Thiện Yên. Vị bổn sư không phải đặt pháp danh cho bác theo dòng kệ mà đặt theo tâm địa hiền lành và bình yên của bác. Về sau chúng tôi thường gọi bác là cụ Thiện.

Cụ Thiện Yên đã ăn chay trường trên ba mươi năm kể từ ngày thọ Bồ Tát giới. Hằng ngày cụ thường trì tụng kinh Pháp Hoa, mà phẩm Phổ Môn cụ nằm lòng như kinh tụng mỗi ngày. Cụ không những tự mình tu hành tinh tấn, mà lúc nào cũng vui vẻ khuyên bảo con cháu, người xa kẻ gần, làm lành lánh dữ. Vì cụ Thiện Yên là người đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi nên chúng tôi đều lắng nghe lời dạy của cụ là phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày và cách tu tập hàng ngày là lấy yếu chỉ kinh Phổ Môn làm đề mục trì tụng, sống theo hạnh từ bi, lợi người, cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Cụ Thiện Yên sống với đứa cháu nội làm nha sĩ ở bên Thụy Sĩ. Chúng tôi cả nhà may mắn được tàu Cao Ủy đưa về Hồng Kông tạm trú sáu tháng, và sau đó được chú em bảo trợ qua Mỹ, đã có nhà ở tại một thành phố nhỏ cận Monterey, tiểu bang California.

*

Gia đình chúng tôi mua vé máy bay mời cụ Thiện Yên, bà mẹ đỡ đầu tinh thần của chúng tôi qua Mỹ thăm hai lần. Cụ Thiện Yên cũng có đi Pháp, Cannada, đi Úc… thăm bởi những đứa con tinh thần của cụ bảo trợ tài chánh.

Chúng tôi đến Mỹ và thỉnh tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát về thờ ngay trong nhà. Trong nhà mỗi tuần tụng kinh Phổ Môn một lần và hàng ngày mỗi người đều trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà và đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi hết lòng tri ân và kính trọng cụ Thiện Yên như hình ảnh của một vị Bồ Tát, vì không những nhờ ảnh hưởng tu hành của cụ mà chúng tôi được thoát nạn; xa hơn, chính nhờ sự hướng dẫn của cụ mà cả gia đình chúng tôi biết hòa hợp, biết thương yêu và đùm bọc lẫn nhau một cách tốt đẹp trong nếp sống mới.

( Quảng Ðại  – Nguyễn Thanh Hậu)

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Cứu con thoát nạn giao thông

Trong chánh điện chùa Từ Quang tại San Francisco, đối diện với tượng thờ đức Bổn Sư Thích Ca là Quan Âm Các. Ðiện này làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất đẹp, những đường nét uốn cong, chạm trổ rất công phu. Tượng đức Quán Thế Âm ngồi trên tòa sen cũng chạm trổ bằng gỗ trầm hương và thếp vàng lá. Ðây là một bảo vật vô giá về mặt tinh thần, được Hòa Thượng Nhất Văn, vị sư người Tàu liên lạc thỉnh từ Ðài Loan. Ðiện Thờ đức Quán Thế Âm được thỉnh về tôn trí tại chùa vào tháng 2 năm 1978. Kinh phí lá 9 ngàn năm trăm Mỹ kim, do gia đình đạo hữu Nguyễn Thị Quy, pháp danh Quảng Lạc phát tâm cúng dường.

Hồi mới lập chùa Từ Quang, đạo hữu Quảng Lạc có nói với tôi rằng: “Bạch thầy, Ðức Quán Thế Âm linh hiển lắm, gia đình ba mẹ con của con sống sót trên đất khách quê người, lập nghiệp nên nổi là chính nhờ Ðức Quán Thế Âm cứu thoát mọi tai nạn. Ngài đã thường báo cho con nhiều điềm mộng dị thường. Hồi mới qua, con đi làm thuê đầu tắt mặt tối, đứa con trai đầu lòng của con mười hai tuổi đi học và đi bỏ báo, cháu gái út mới hai tuổi, phải nhờ hàng xóm coi chừng và trả tiền rất đắt. Tiền bạc thiếu kém, nhưng không đáng ngại, về mặt tinh thần của con thì lại quá trống trải buồn thảm, xuống dốc vô cùng trước nếp sống khác biệt mọi thứ.

*

Nhưng may nhờ nhớ lơì mẹ con ngày xưa dặn là hễ có tai nạn nên nhất tâm lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thì được giải cứu. Con đã làm theo và đã phát tâm thờ Phật Quán Thế Âm, tụng kinh Phổ Môn, bái sám hàng ngày nên cả nhà con đều được hạnh phúc và bình yên. Nay con xin phát nguyện và mong thầy hứa khả hoan hỉ thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm về thờ ở chùa nhà để Phật tử đến chùa có cơ duyên lễ bái và phát tâm tu tập theo hạnh từ bi của Ngài, phí tổn bao nhiêu cũng được, đình con xin nhất tâm tùy hỷ cúng dường.”

Ðó là nguyên do Ðiện Các Quán Thế Âm tại chùa Từ Quang được thỉnh về thờ. Rất nhiều câu chuyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện cứu nguy ba mẹ con đạo hữu Quảng Lạc trong những lúc hiểm nghèo mà đạo hữu đã kể cho tôi nghe. Ðây là câu chuyện Ðức Quán Thế Âm cứu đúa con trai gia đình thoát nạn lưu thông vào năm 1981 trên đường đi Nevada:

*

Thành, con trai của đạo hữu Quảng Lạc, hôm đó buồn mẹ bỏ nhà đi chơi một tuần lễ chưa về. Mẹ ở nhà lo lắng và nóng ruột quá, ăn không được, ngủ không yên, bèn đóng cửa tiệm ăn mấy hôm để tĩnh tâm tụng kinh và cầu nguyện cho Thành trở lại nhà. Linh tính cho đạo hữu Quảng Lạc cảm thấy có điều chi chẳng lành xảy ra cho đứa con trai duy nhất của mình. Thành đã bỏ nhà đi chơi nhiều lần, nhưng chưa có khi nào tâm thần đạo hữu Quảng Lạc bồn chồn, lo lắng nhu lần này.

Vì không an tâm nên đạo hữu Quảng Lạc thức suốt nhiều đêm để niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Trước bàn Phật, đạo hữu Quảng Lạc mệt quá và thiếp đi chốc lát. Trong lúc đó, có một em bé trai độ mười lăm tuổi, bận áo màu xanh trông rất đẹp, tự xưng là đạo sĩ của Ðức Bạch Y đến báo mộng cho đạo hữu Quảng Lạc biết là Thành, đứa con trai của bà đã bị tai nạn xe hơi và đã được cảnh sát đưa vào nhà thương lớn nhất tại thành phố Nevada. Và, em bé trai bận áo xanh còn báo mộng cho đạo hữu Quảng Lạc luôn cả số đìện thoại của nhà thương nữa.

Giật mình thức dậy, đạo hữu Quảng Lạc cuống cuồng, khóc lên ầm ĩ và quá sợ nên không dám gọi điện thoại, dù đạo hữu Quảng Lạc nhớ rõ số điện thoại em bé trai đã cho trong mộng.

*

Thay vì liên lạc ngay để biết hư thực việc tai nạn xe hơi  của con mình, đạo hữu Quảng Lạc với kéo tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thờ trên bàn cao xuống sàn nhà “hạch tội” Ðức Quán Thế Âm. Ðạo hữu kêu gọi tên Ngài không ngới rồi nói: “tại sao Mẹ Hiền không cứu sống con của con. Con chỉ có một đứa con trai duy nhất mà thôi. Tại sao nó phải chết sớm, chết một cách oan uổng như vậy?…”

Ngay khi đạo hữu Quảng Lạc đang “đối chất” với pho tượng đức Quán Thế Âm thì có đìện thoại reo từ cục cảnh sát Nevada gọi về báo tin tất cả chi tiết tai nạn lưu thông của Thành cho đạo hữu Quảng Lạc biết. Tình trạng tai nạn của Thành vô cùng nguy khốn.

Khi nghe tin sét đánh xác thực này, đạo hữu Quảng Lạc ngất xỉu nhiều lần trong đêm. Và trong con mê đạo hữu Quảng Lạc thấy rõ ràng, một người thiếu nữ mặc áo trắng xinh đẹp đến vỗ vai an ủi và báo cho đạo hữu Quảng Lạc hay là mạng sống của Thành đã được cứu thoát, đừng quá đau khổ, lo âu. Người áo trắng nói: “Nhờ phúc đức của mẹ biết làm lành và lễ niệm Ðức Quán Thế Âm mà con được nhờ”.

Sáng hôm sau, đạo hữu Quảng Lạc mua vé máy bay cấp tốc đến thành phố Nevada tìm con trai trong một tâm tư hết sức bình tĩnh. Bước vào phòng cấp cứu, bà trông thấy một cơ thể bất động bó vải trắng nằm sóng sượt trên giường. Chung quanh có bác sĩ và nhiều y tá túc trực săn sóc.

*** Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ***

Hồ sơ bác sĩ cho hay là Thành đã bị thương tích toàn cơ thể, và nhiều đốt xương sườn bị rạn gãy, bệnh nhân có thể ở đây từ năm đến sáu tuần lễ mới biết kết quả tốt hay xấu. Dẫu Ðức Quán Thế Âm, hiện thân là người áo trắng đã báo cho đạo hữu Quảng Lạc là con trai sẽ thoát hiểm, bình an trong tai nạn này, nhưng khi nhìn tình trạng mê man và thân thể bất động của con, đạo hữu Quảng Lạc lại hết sức lo lắng và rối loạn tinh thần nên réo gọi, kêu cầu Ðức Quan Thế Âm không ngớt.

Vì tiệm ăn quá đông khách, Ðạo hữu Quảng Lạc ở lại nhà thương với con ba hôm rồi lại phải về San Francisco xếp đặt công việc để yên tâm săn sóc con trai. Kỳ lạ thay, đạo hữu Quảng Lạc về nhà chưa đầy ba hôm, thì liền sau đó, Thành, con trai của bà cũng về nhà. Lúc về nhà, Thành tìm không thấy mẹ, cậu ta liền chạy đến chùa Từ Quang lễ tạ Ðức Quán Thế Âm và tìm mẹ.

Hôm ấy, đạo hữu Quảng Lạc mua lễ vật đến chùa nhờ tôi cầu an cho Thành. Không ngờ, vừa tụng kinh Phổ Môn xong, thì Thành lù lù mở cửa đi ngay vào chùa, mỉm cười và giòn dã chào hỏi mọi người một cách tự nhiên như không có tai nạn gì xảy ra cho Thành cả. Mẹ của Thành cứ trân tráo nhìn con trai như vừa sung sướng, vừa tưởng Thành như một bóng ma hiện hình ban ngày.

*

Thành kể lại là trong khi chán nản, uống rượu say lúy túy. Anh lái xe chạy quá tốc độ nên xe đâm vào núi và bị ép nhẹp như một đống sắt vụn. Trong lúc đó, Thành cảm thấy như một bàn tay vô hình nào ôm Thành ra khỏi xe, đặt nằm bên lề đường. Nhờ vậy mà cảnh sát phát giác và đưa Thành đến nhà thương cấp cứu. Các nhân viên cảnh sát địa phương cũng vô cùng thắc mắc đìều này. Họ không tìm ra câu trả lời nên lúc Thành bình phục bị hỏi cung khá rắc rối. Cuối cùng, Thành bị cảnh sát phạt 80 dollars về tội lái xe quá tốc độ. Ông Brian, nhân viên cảnh sát nói: “Mừng cho bạn thoát nạn dị thường”.

Ba mẹ con đạo hữu Quảng Lạc hiện vẫn ở tại vùng Bay Area bắc Califonia. Cả nhà vẫn phát tâm tu học tinh tấn và rất ưa làm phước bố thí. Hàng năm các ngày lễ vía Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, gia đình đạo hữu Quảng Lạc đều lo hoa trái cúng Phật, thiết lễ trai tăng cúng dường rất chu đáo làm cơm khoản đãi cả chùa.

Tôi xin nhất tâm tùy hỷ ghi lại câu chuyện nầy ra đây để ấn chứng công đức gia đình đạo hữu Quảng Lạc; và gây thêm đức tin lành cho mọi người Phật tử xa gần về sự linh cảm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Giải trừ Vong nhập

Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý.

Bà Hạnh đau rất kỳ cục. Bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng mà sức vóc không hề hấn gì. Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều thì mí mắt sụp xuống; buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể lể những chuyện đau buồn. Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng cơ quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đình bà Hạnh. Mong họ nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh tình cho bà.

Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu; song các bác sĩ giỏi đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh tình không thuyên giảm. Người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sỉ cho có lệ và để ai nấy yên lòng.

Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nhìn qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong linh đang nhập trong người bà.

*

Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức.

Tôi gạn hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì. Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Ðại Bi. Bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh; hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ mười chín, hai mươi.

Cô gái này nói mình đã chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu chìm. Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm không rõ; chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai kinh Phổ Môn; tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm, tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm, Tâm Kinh Bát Nhã rồi đem cho bà Hạnh uống.

*

Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước thì liền tỉnh dậy. Bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày. Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo. Sau đó bà chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo bà.

Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu. Tôi bình tĩnh niệm chú Chuẩn Ðề và khuyên nhủ bà Hạnh ra quỳ giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa. Lúc này, vong linh mới nói rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ. Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu cơm chay cúng vong. Tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó. Có gần một trăm Tăng Ni và Phật tử tham dự – Vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố tát và gần đến mùa Vu Lan Rằm tháng bảy.

Sau khi tụng kinh Di Ðà, niệm danh hiệu Phật, đến chỗ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất bất tỉnh. Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài.

*

Gia đình bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh bình phục. Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.

Hôm chứng kiến lễ đưa vong linh cô gái Việt Nam chết trên biển ra khỏi người bà Hạnh và ký tự vong linh bất hạnh ấy tại chùa Từ Quang, cụ Tâm Huy chép miệng thành thơ rằng:

Pháp Phật nhiệm mầu

Cứu người khổ đau

Quan Âm linh hiển

Hạnh nguyện thâm sâu.

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Cầu nguyện như ý

Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh Thanh Nhẫn hiện ở tại San Jose. Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường đi chùa lễ Phật, nghe quý thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ thuở còn bé. Mẹ tôi cũng bày cho tôi cách ngồi thiền, tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. 

Tụng kinh và niệm Phật thì tôi thích hơn. Mẹ tôi biết ý nên khuyên tôi tụng kinh Phổ Môn để làm yếu chỉ tu học. Sau một thời gian tụng kinh, tôi có đọc 108 danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Hồi còn trẻ, tôi tụng kinh niệm Phật không đều, bữa siêng, bữa nhác; nhưng bây giờ thì đã thuần thục rồi. Tôi thường tụng kinh, niệm Phật hang ngày không hề bỏ sót.

Ngược dòng thời gian, năm tôi hai mươi tuổi bị bệnh nặng. Người nhà đưa tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thường hàn nhập lý và lên cơn sốt dữ dội. Tôi bị mê man suốt hai ngày đêm. Các bác sĩ cho người nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đã nhiễm vào tim. Cả nhà tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất bình tĩnh và khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tiếp niệm danh hiệu Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng  Quán Thế Âm Bồ Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả một góc nhà thương.

*

Ngay đêm đó, khoảng hai giờ sáng, tôi đang trong cơn mê mà cảm nghe như có dòng suối nước chảy; có tiếng chim hót và tiếng chuông chùa. Tôi thấy mình bước chân lên từng cấp của một cảnh nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi cao. Trước cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Ðà Sơn; bên bờ biển Nam Hải, nơi mà Ðức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong chùa có khoảng vài trăm người đang ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Ðông. Người nào cũng có tóc và mặc áo nhiều mà rất đẹp nên tôi không nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà.

Riêng tôi thì được một người đàn bà mặc áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà tranh nhỏ, nằm giữa khóm trúc nên thơ. Trong cái thất ấy có đến hai co thanh nữ mặc áo xanh; nét mặt cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. hai vị này cho tôi biết người mặc áo trắng là thầy của họ mà người xưng là Bạch Y Quán Thế Âm.

Tôi mừng quá liền cúi xụp lạy, nhưng Ðức Bạch Y đưa tay cản lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh y rót nước trong bình tịnh thủy cho tôi uống. Uống xong, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ nhàng và đầy sung sướng. Tôi bèn ngỏ lời Bạch Y Quán Âm đại sĩ và hai tiểu đồng rối rít. Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng chung quanh giường và niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm.

*

Hai hôm sau thì tôi xuất viện, vì bệnh tình của tôi khỏi hẳn. Ðiều này khiến cho các bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về bệnh trạng của tôi. Mẹ tôi bảo cho họ hay rằng, tôi được cứu thoát căn bệnh ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi cũng tin như vậy, và câu chuyện này đã gây tín tâm rất nhiều cho tôi và mọi người trong gia đình thân nhân của tôi

Tôi là con dâu trưởng sinh sống với chồng tôi nhiều năm mà không có con. Chồng tôi thì thương tôi hết mực, song những người thân phía chồng tôi nói vào nói ra làm cho tôi rất buồn tủi. Họ bảo tôi rằng: “Ðàn bà chi mà không biết sanh đẻ”.

Thay vì giận, đau buồn, khóc lóc, tủi hổ thân phận thì tôi lại vui và âm thầm trì tụng kinh Pháp Hoa. Tôi niệm thêm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và mong có được một đứa con gái ra đời cho vui nhà.

Ðiều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều năm tu tập và cầu nguyện. Một đêm tôi thấy mình trở lại núi Phổ Ðà vào viếng thăm Ðại Sĩ Bạch Y Quán Thế Âm. Tôi mới bước chân nửa thềm đá cao, thì thấy hai thanh nữ hầu Ðức Quán Thế Âm bước lại gần. Họ trao cho tôi một bé gái nhỏ xinh xinh. Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.

*** Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ***

Con tôi ra đời đã đem lại cho tôi và chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé Hiền năm nay đã tám tuổi. Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu thảo. Cả nhà, các bác, các chú, bà ngoại, bà nội hai bên ai cũng thương cháu.

Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi:

Người vô tự quạnh hiu sau trước

Sửa tất lòng tác phước khẩn cầu

Từ bi linh hiển pháp mầu

Cho trai hiển đạt gái cầu hiền lương.

Cuối năm 1979, gia đình tôi rời khỏi Việt Nam vượt biên ra nước ngoài. Khi tàu rời bến được độ hai ngày đêm thì máy bị chết. Mọi người trên tàu đều bối rối, lo âu. Nước biển, sóng gợn ì ầm át cả tiếng khóc của trẻ con; tiếng cãi vã của nhiều người với chủ tàu là “ lấy tiền người ta mà làm ăn bê bối”. Riêng tôi ngồi nhìn đứa con đang ngủ trên tay và định tâm niệm Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.

Kỳ lạ thay, vài tiếng đồng hồ sau thì con tàu chúng tôi nổ máy. Chạy khoảng bốn tiếng đồng hồ thì gặp tàu tuần tiễu của hải quân Trung Hoa Quốc Gia. Họ giúp đưa chúng tôi vào địa phận Hồng Kông. Nếu không có chiếc tàu cứu khổ này thì chúng tôi đã đắm xuống biển. 150 mạng vì con tàu bị chết máy, vừa bị sóng đánh mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra kịp.

*

Khi được đến Mỹ, gia đình tôi ở một ngôi nhà không đủ phòng rộng rãi; nhưng tôi quyết sắp xếp để nguyên một căn phòng có nhiều ánh sáng làm nơi tĩnh tâm và thờ phượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi có làm bài thơ tám câu để tạ thâm ân cứu khổ của mẹ hiền Ðức Quán Thế Âm như sau:

Quán Âm Bồ Tát Ðấng Mẹ Hiền

Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên

Ứng thân diệu dụng vô cùng tận

Ðại nguyện từ bi rải mọi miền.

Con xin sám hối những sai lầm

Tinh tấn tu học để thanh tâm

Ngày đêm thiền tịnh không lơ đễnh

Giác ngộ chân tâm đẹp sáng ngời.

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Hầu Bồ Tát

Sống một đời lương thiện

Thác theo hầu Quán Âm

Mẹ hiền thương con trẻ

Thường đêm ngày chở che.

Mẹ tôi đã qua đời cách đây gần năm mươi năm về trước, vì một cơn bệnh ngặt nghèo. Năm qua đời, mẹ tôi mới ba mươi hai tuổi, tôi mới lên sáu bảy tuổi đầu. Chúng tôi có bốn anh em. Anh cả và hai em gái. Sau khi mẹ qua đời, chúng tôi được Dì Út săn sóc. Dì Út bây giờ còn sống và rất khoẻ, dù tuổi Dì đã hơn tám mươi. Chúng tôi xem Dì Út như mẹ yêu, nên mỗi mùa Vu Lan đến, tôi và mấy anh em tôi đều cài bông hồng màu đỏ lên áo.

Ðêm qua, chủ nhật ngày 27 tháng 7 năm 1997 tôi mơ thấy mẹ đến thăm tôi. Gặp lại mẹ, tôi mừng lắm. Mẹ tôi cũng mừng và cả hai đều xúc động đến chảy cả nước mắt. Mẹ tôi còn trẻ và đẹp lắm. Vóc dáng trông rất mảnh mai, dung nghi đỉnh đạc. Mẹ tôi khoẻ, nhan sắc hồng hào, tướng mạo đoan trang, thanh nhã như một bà tiên.

Ðêm qua nằm mơ thấy mẹ về

Mẹ về như cánh hạc sơn khê

Thiên y lộng ngọc bay trong gió

Mỉm cười nụ hoa tiên mẹ vỗ về.

Tôi hỏi lâu nay mẹ ở đâu?

Quán Âm Bồ Tát mẹ theo hầu

Cõi phàm qua lại quê Cực Lạc

Ði đứng tùy duyên với phép mầu.

*

Từ ngày mẹ tôi qua đời cho đến nay, lần đầu tiên tôi nằm mơ thấy người. Ðúng là giấc mơ, nhưng giấc mơ thật kỳ lạ. Ðêm ấy ba lần thức giấc, ba lần tôi thấy mẹ tôi khi vừa nhắm mắt trở lại. Hình ảnh mẹ tôi hiện ra như ban ngày và vẫn tiếp dẫn cùng câu chuyện. Tôi nhớ rất rõ từng lời nói, từng cử chỉ, từng câu nhắc nhở, khuyến khích, hỏi han của mẹ.

– Mẹ từ đâu tới?

– Ðủ duyên thì tới, chẳng chỗ tới, chỗ về.

– Mẹ lâu nay làm gì?

– Mẹ theo hầu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Thấy tôi phân vân, và có vẻ nghi ngờ, mẹ tôi nhìn tôi mỉm cười chậm Rãi nói:

– Thật ra các cõi giới khác nhau đều do tâm sở duyên và sở hiện, chứ chẳng phải đâu xa. Tâm vui thì cảnh giới vui, tâm buồn thì cảnh giới buồn. Tâm tương hợp và tạo nên mọi cảnh giới, mọi hiện tượng trong trời đất. Từ khi mẹ tắt hơi thở, ai cũng nghĩ là mẹ đã mất. Kỳ thực, mẹ vẫn sống và còn có duyên lành theo hầu Ðức Quán Thế Âm; đi lại khắp nơi để độ người, giúp kẻ lầm than, lâm hoạn nạn. Con là người có nhiều tai kiếp, nhưng lúc nào Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và mẹ cũng luôn luôn có mặt bên cạnh con để hộ trì cho con; giúp sức cho con lập nên chí nguyện lớn, làm lợi ích cho nhiều người.

*** Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ***

“Thưa mẹ, mẹ nói là Bồ Tát Quán Thế Âm và mẹ luôn luôn có mặt bên cạnh để hộ trì cho con lập nên chí nguyện.”

“Quả như vậy, vì con là hài nhi của Ðức Quán Thế Âm gởi cho mẹ săn sóc; do đó, Ðức Quán Thế Âm và mẹ vẫn có liên hệ với con trên suốt hành trình tu tập, phụng sự của con.”

“Thưa mẹ, mẹ có thể chứng minh và nói rõ hơn điều này cho con nghe được không? Con xin thất lễ với mẹ là nếu con có Ðức Quán Âm, có mẹ nâng đỡ, thì con không bao giờ gặp đủ mọi gian nguy, bệnh tật, tai ách, chướng nạn trong cuộc đời đi tu, hành đạo của con?

“Con nên trầm tư, hồi tưởng lại vài sự việc nguy biến xẩy ra trong đời con, mà con vẫn được bình yên vô sự. Hơn nữa, tu tập mà không gặp khó khăn, chướng nạn thì do đâu mà lập chí? Mẹ muốn thuật lại một vài việc cho con nhớ:

1- Năm con trốn nhà đi tu, nửa đêm hôm ấy trời mưa to và bão lụt, nước ngập lối đi. Khi con vừa leo lên chiếc cầu nhỏ để qua sông thì chiếc cầu tre ấy bị nước cuốn trôi, con chìm trong biển nước mênh mông với thân hình chú bé mười bốn tuổi. Ai đã đưa con lên cồn cát, dẫn tới đường cái quan và cho xe đón vào chùa Báo Quốc?

*

2- Con vừa đến chùa Báo Quốc là có sư tổ khai sơn chùa Giác Hải –  tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên đứng đợi con tại cửa Tam Quan chùa. Tối đó, người làm lễ xuống tóc cho con và khuya hôm ấy, hai thầy trò đón tàu lửa về Nha Trang. Ai đã xếp đặt việc ấy cho con?

3- Chiều ngày 18 tháng 8 năm 1959, con bị té từ trên cây dừa lửa cao vút phía bên trái cổng chùa Giác Hải –  thôn Xuân Tự, Nha Trang, Khánh Hòa. Dưới gốc dừa chất từng đống đá tổ ong để xây trường học. Thế mà khi con té xuống đầu, mình và toàn thân của con không bị một chút thương tích nào. Con tưởng con là hình đồng da sắt hay sao?

4- Thời gian con học nội trú bốn năm tại chùa Linh Quang, Huế. Ðó là ngày 20 tháng 05 năm 1968, con bị đau thương hàn nhập lý đưa vào bệnh viện. Khi ấy các bác sĩ đều bó tay và đã đưa con qua nhà xác. Sau đó vài phút, hóa thân thứ bốn mươi sáu của Ðức Quán Thế Âm và mẹ đến. Chúng ta mang con trở lại phòng điều dưỡng, khiến cho quý thầy và các bác sĩ tại bệnh viện kinh ngạc. Con còn nhớ chuyện ấy không?”

*

Nghe đến đây, tôi không còn ngạc nhiên và nghi ngờ gì về lời nói và việc làm của mẹ tôi nữa. Vì những điều mẹ tôi nhắc lại cho tôi nghe, đều hoàn toàn đúng như sự thật. Không phải khi đang đối diện với mẹ tôi trong mộng, mà ngay trong khi thức giấc, tôi kiểm chứng lại những lời mẹ tôi kể không sai điểm nào; dù các việc xảy ra trong quá khứ tôi hầu như quên hết từ lâu.

Nằm mơ thấy mẹ về thăm

Tỉnh rồi như huyễn tháng năm miệt mài

Ngủ thức quả giấc mộng dài

Ðâu là chân cảnh là đài gương trong?

Bâng khuâng ấp ủ trong lòng

Trình ra thay giọt lệ lòng trầm tư

Nhân duyên có tự bao chừ.

Chân thân như thể thái hư sạch làu

Bây giờ cho đến ngàn sau

Tình thương của mẹ nhiệm mầu vô song

Năm mươi cách bóng mẹ hiền

Ðược duyên gặp mẹ thỏa lòng con thơ.

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Cầu sinh con như ý

Quán Âm chuyên lễ niệm

Cầu con gái thỏa lòng

Ðược môn đăng rể quý

Cả nhà đều mừng vui.

Ông bà ngoại chúng tôi sinh liên tục ba người cậu, cả đại gia đình và dòng họ ai cũng đều lấy làm vui. Riêng ông ngoại có lúc ngồi một mình uống trà đăm chiêu, nghĩ ngợi và buồn rầu. Bà ngoại thấy vậy, gạn hỏi căn do nhiều lần. Ông ngoại không dấu diếm được liền nói với bà ngoại rằng:

– Tôi một mình tự ý hứa với Ngài chánh tổng trong làng là: Hễ trong nhà có sinh con gái thì sẽ kết nghĩa làm sui gia với bên họ Nguyễn. Thế nhưng đã hơn năm trôi qua mà lời hứa của tôi chưa thành sự thật. Bà đừng hiểu lầm là tôi trách bà nghe. Chỉ là nhà ta thiếu phước nên chưa đủ duyên cùng làm người nhà với Ngài chánh tổng đó thôi.

Nghe ông ngoại nói xong, bà ngoại thấy thương chồng, lại cũng đâm ra lo lắng. Về sau, ông bà ngoại tôi đều nghĩ tới việc lên chùa cầu tự, xin Phật phù hộ được sinh con gái.

*

Hôm ấy nhằm tiết trung thu rằm tháng bảy, ông bà ngoại tôi về thăm chùa Sắc Tứ, tổ đình Quảng Trị cúng Phật và bày tỏ ý nguyện. Trong dịp ấy ông bà ngoại tôi được duyên may gặp tổ Bích Phong từ Huế ra giảng pháp. Ngài dạy ông bà ngoại tôi phát tâm mua ngói lợp lại ngôi Phật điện bị hư dột vì chiến tranh. Ông bà ngoại tôi lại được quy y với tổ và biết lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát từ đó.

Tổ Bích Phong căn dặn ông bà ngoại tôi là nên phát nguyện ăn chay, giữ giới thanh tịnh; trong sạch thân tâm thì mọi ý mong cầu đều được toại nguyện. Nhân đó tổ ban cho ông bà ngoại tôi một bài kệ văn bằng chữ Nôm như sau:

Quán Âm Bồ Tát từ bi

Cứu người đau khổ lâm nguy ách nàn

Ăn chay giữ giới làm lành

Cầu chi được nấy toại nguyền hôm mai

Muốn cầu con gái con trai

Thành tâm lễ niệm gái trai phỉ nguyền.

Quán Âm niệm niệm tinh chuyên

Tham sân chừa bỏ lặng yên sóng cồn

Ngồi thiền đèn tuệ rạng chong

Sống vì tất cả mát dòng chân minh

Một đời chớ có sát sinh

Nguyện lòng chớ có trộm cắp dâm tà

Dối gian lường gạt tránh xa

Rượu say cờ bạc quyết từ bỏ đi.

Quán Âm cứu khổ từ bi

Thiết tha cầu khẩn thỏa lòng ước mơ.”

*

Bằng vào lời dạy của Tổ, ông bà ngoại tôi hết lòng phát nguyện tu tập, giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm; thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát để thờ phượng; lễ bái, xưng niệm, cầu nguyện rất chuyên cần và tha thiết.

Một năm sau điều nguyện ước mong của ông bà ngoại tôi được thỏa mãn. Bà ngoại thọ thai, mẹ tôi ra đời, rồi kế đến là Dì Út ra đời. Ông cố ngoại đặt tên cho mẹ tôi là Trần Thị Vui, đặt tên cho Dì Út là Trần Thị Mừng, là niềm vui lớn tràn ngập cả nhà. Chính nhờ sự linh ứng cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm có hiệu nghiệm này mà trong đại gia đình ông ngoại và trong đại gia đình ông nội tôi; cùng bà con dòng họ xa gần, dân chúng thôn trên xóm dưới; ai ai cũng một lòng tín cẩn, phụng thờ chăm lòng lễ niệm và sống theo hạnh lành của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Chuyện này được viết theo lời kể của ông Trần Hải và Trần Phước. Hai người con của ông bà ngoại, cậu ruột của tôi hiện còn sống tại Long Hưng, quận Hải Làng, tỉnh Quảng Trị.

( Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn: Hết Phần 1)

5/5 - (5 bình chọn)
  • Share on Facebook
  • Tweet on Twitter
  • Share on LinkedIn

Từ khóa » Hình ảnh Quan Thế âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn