Quang Ngai Provincial General Hospital - Print Page

CỨU SỐNG BỆNH NHÂN NHỜ PHƯƠNG PHÁP THEO DÕI HUYẾT ĐỘNG HIỆN ĐẠI “PICCO”
Date: 09/07/2020 03:11:30 PM Print
Phòng Hồi sức ngoại của khoa Gây mê hồi sức áp dụng kỹ thuật theo dõi huyết động hiện đại PICCO (Pulse Contour Cardiac Output) trong chăm sóc và điều trị bệnh nhân nặng sau phẫu thuật.

Bệnh nhân Đinh Thị V. 86 tuổi, bị hoại tử toàn bộ ruột non do tắc mạch mạc treo, bệnh kèm rung nhĩ, suy tim, suy thận được đưa vào viện điều trị phẫu thuật cấp cứu cắt toàn bộ ruột non vào ngày 03/7/2020. Tình trạng bệnh nhân sau mổ rất nặng được chăm sóc và điều trị tích cực tại Phòng Hồi sức ngoại thuộc Khoa Gây mê hồi sức. Bệnh nhân phải hỗ trợ hô hấp bằng thở máy có theo dõi và điều chỉnh CO­2 trong máu cho thích hợp; dùng hai loại vận mạch Noradrenalin và Dobutamin để nâng huyết áp; nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch; điều chỉnh điện giải; kháng sinh chống bội nhiễm; chăm sóc cấp 1 có monitoring theo dõi liên tục: mạch, huyết áp, điện tim, SpO2 trên màn hình.

Máy PiCCO

Đặc biệt trên bệnh nhân này có sử dụng kỹ thuật theo dõi huyết động hiện đại PiCCO thông qua một catheter tĩnh mạch trung tâm có gắn bộ phận cảm ứng nhiệt và catheter động mạch đùi, để theo dõi tất cả các chỉ số như: Huyết áp động mạch liên tục; Cung lượng tim; Thể tích dịch trong lòng mạch; Sức cản mạch máu hệ thống; Sức co bóp cơ tim; Lượng nước trong phổi mà không cần thiết phải đặt catheter vào tim phải v.v.

Hiện tại bệnh nhân đã điều trị được 6 ngày, đã tự thở được, tỉnh, tiếp xúc được, cắt được vận mạch Noradrenalin, chỉ còn sử dụng Dobutamin liều trợ tim. Các chỉ số sinh tồn tạm ổn, các chỉ số xét nghiệm về mức cho phép. Khoa tiếp tục theo dõi và điều trị tiếp cho bệnh nhân này.

Bệnh nhân Đinh Thị V.

PiCCO là một hệ thống theo dõi huyết động cấp cao. Nguyên lý hoạt động dựa trên sự kết hợp của phương pháp hòa loãng nhiệt qua phổi (Transpulmonary thermodilution) và phương pháp phân tích sóng mạch (continuous pulse contour analysis) đo liên tục và đồng thời nhiều thông số huyết động. Nước lạnh bơm vào catheter tĩnh mạch cảnh trong sẽ đi theo tuần hoàn từ tĩnh mạch trung tâm vào nhĩ phải, xuống thất phải. Sau đó nước lạnh sẽ lên phổi qua động mạch phổi vào vòng tiểu tuần hoàn, từ đó nước lạnh sẽ quay trở về nhĩ trái và thất trái, nước lạnh sẽ theo động mạch chủ ngực và xuống động mạch chủ bụng. Tại đây có một đầu cảm ứng nhiệt tại catheter động mạch chủ bụng thu nhận và báo về bộ vi xử trí trên máy PiCCO. Do nhiệt độ máu bao giờ cũng cao hơn nên xảy ra hiện tượng hoà loãng nhiệt cho tới khi nhiệt độ trở về trạng thái cân bằng.

Chỉ định sử dụng PiCCO trong hồi sức cho bệnh nhân có tình trạng huyết không ổn định: sốc, suy tim cấp; Tổn thương phổi cấp (ALI), suy hô hấp tiến triển ở người lớn (ARDS); Đa chấn thương, bỏng nặng, suy đa tạng; Trong các can thiệp lớn như: ghép tạng, phẫu thuật tim mạch, phẫu thuật lớn vùng ổ bụng...

Ứng dụng lâm sàng của kỹ thuật PiCCO có những chỉ số chính sau:

+ Cung lượng tim: Cung lượng tim là thông số quan trọng để đánh giá rối loạn huyết động và hướng dẫn điều trị, đo CO liên tục theo phương pháp xung mạch của PiCCO là tin cậy và chính xác cả trong điều kiện huyết động không ổn định và không bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng các thuốc làm thay đổi huyết áp và sức cản mạch hệ thống.

+ Tiền gánh: Các chỉ số GEDV (Global End diastolic Volume: thể tích máu trong 4 buồng tim) và ITBV (Intrathoracic Blood Volume: thể tích máu trong 4 buồng tim + trong hệ mạch máu phổi) có độ chính xác cao hơn áp lực đổ đầy buồng tim trong đánh giá tiền gánh. Áp lực đổ đầy buồng tim (Áp lực TM trung tâm: CVP và Áp lực ĐM phổi bít - PAOP) thường sử dụng để đánh giá tiền gánh, nhưng những thông số đó không chính xác. Mặt khác CVP và PAOP bị ảnh hưởng khi BN đang thở máy, còn ITBV và GEDV không bị ảnh hưởng nhiều bởi thông khí nhân tạo.

+ Đánh giá sự đáp ứng đối với truyền dịch: Sự bổ sung khối lượng tuần hoàn tốt trong trường hợp bệnh nhân càng đáp ứng truyền dịch nhưng một số trường hợp truyền dịch lại có hại cho phổi và các cơ quan khác. Bởi vì sự tương quan giữa tiền gánh và thể tích nhát bóp phụ thuộc vào sự co bóp của tâm thất. Hệ thống PiCCO tự động tính toán được PPV (Pulse Pressure Variation: Biến thiên áp lực mạch) và SVV (Stroke Volume Variation: Biến thiên thể tích nhát bóp) trong từng nhát bóp bằng phương pháp phân tích các sóng mạch có thể đoán được sự đáp ứng của cung lượng tim khi truyền dịch, điều chỉnh dịch theo SVV và PPV là một phương pháp tốt đánh giá đáp ứng dịch ở các bệnh nhân sử dụng an thần và thở máy, phù hợp cho các bệnh nhân gây mê trong phẫu thuật.

+ Đánh giá sức co bóp của cơ tim: Phương pháp hoà loãng nhiệt qua phổi đo được GEDV, do đó thương số giữa thể tích nhát bóp và một phần tư của GEDV có thể ước lượng phân số tống máu toàn bộ của tim để đánh giá bệnh nhân có suy giảm chức năng tâm thất hay không. Thêm vào đó PiCCO có thể đánh giá sức co bóp của thất trái liên tục bằng cách đo dP/dtmax trong pha bơm chất chỉ thị.

+ Xác định phù phổi và tính thấm thành mạch phổi: Mặc dù chụp X-quang ngực và xét nghiệm khí máu đóng vai trò chính trong việc chẩn đoán ALI và ARDS, nhưng những thông số này được chứng minh là ít có giá trị trong việc chuẩn đoán phù phổi. Do đó nhiều phương pháp được áp dụng để đánh giá phù phổi như chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, đo kháng trở thành ngực, phương pháp hoà loãng nhiệt. Thông số EVLW (Extravascular Lung Water: thể tích nước ngoài mạch máu phổi) có giá trị lớn trong việc hướng dẫn truyền dịch đặc biệt ở bệnh nhân có tăng tính thấm các mạch máu nhỏ ở phổi (ví dụ: nhiễm khuẩn). Bằng hệ thống PiCCO đo EVLW cùng với các thông số CO, tiền gánh (GEDV) và thông số đánh giá đáp ứng truyền dịch (PPV và SVV) có thể hướng dẫn cho liệu pháp truyền dịch và đặc biệt trong các tình huống khó đánh giá, giúp làm giảm tỉ lệ tử vong.

Màn hình hiển thị các chỉ số

Màn hình chính máy PiCCO

Khoa Gây mê hồi sức
Copyright ©2016 Quang Ngai Provincial General Hospital

Từ khóa » đo áp Lực Tm Trung Tâm