Quy Định Về Đăng Ký Giấy Phép FMC Cho Doanh Nghiệp Logistics ...

Trong toàn bộ dây chuyền dịch vụ Logistics cho các lô hàng xuất nhập khẩu với thị trường Mỹ, nếu không có giấy phép của FMC (Cục Hàng Hải Mỹ), các doanh nghiệp (DN) giao nhận vận tải Việt Nam (Freight Forwarders/ Logistics Providers) dù là hội viên VLA hay không chỉ có thể tham gia với tư cách là đại lý, phục vụ một số công đoạn phụ, như lập chứng từ, thông quan, thu cước, nộp thuế, thu xếp vận tải nội địa… do ủy thác của các hãng tàu chuyên chở nước ngoài. Khi làm đại lý thực hiện những khâu cụ thể trong các chuỗi dịch vụ đó, các Forwarders/ Logistics Providers, với tư cách đại lý, chỉ được hưởng hoa hồng hoặc phí dịch vụ nhất định.

Về phía các chủ hàng, không ít trường hợp do không biết nên phải thông qua một loạt môi giới mới tìm được đích danh công ty dịch vụ Freight Forwarders/Logistics Providers ở Việt Nam đã có giấy phép của FMC để trực tiếp nhận lưu cước các lô hàng xuất nhập khẩu với thị trường Mỹ. Trong một chừng mực nào đó, điều này làm cho chi phí giao dịch tăng lên.

Hiện nay khá nhiều hội viên VLA đã là hội viên liên kết (Individual Member) của FIATA, khi tự mình tìm được những lô hàng xuất khẩu (XK) đi các thị trường EU, Nhật, Australia… theo điều kiện CIF và những lô hàng nhập khẩu từ những thị trường này về VN theo điều kiện FOB, họ hoàn toàn có khả năng trở thành người vận chuyển theo hợp đồng (Contracting Carrier) dưới dạng NVOCC (Non-Vessel Operating Common Carrier) bằng cách mua chỗ (Slot Charter) trên các tàu nước ngoài có lịch trình đi từ hoặc đến cảng VN và phát hành vận đơn thứ cấp HBL (House Bill of Lading) theo mẫu của FBL (FIATA Negotiable Multimodal Transport Bill of Lading). Trong trường hợp đó, với tư cách là người vận chuyển thứ cấp kinh doanh dưới dạng NVOCC, chứ không phải là đại lý của hãng tàu, rõ ràng thu nhập về giá cước mà các DN Freight Forwders/Logistics Providers VN thu được trực tiếp từ chủ hàng sẽ cao hơn đáng kể so với các khoản hoa hồng hay phí dịch vụ cũng chính từ những lô hàng đó nếu họ chỉ làm đại lý thông thường.

Đối với thị trường Mỹ, cho đến nay chỉ có một số Freight Forwarders/ Logistics Providers ở Việt Nam có thể phát hành vận đơn FBL cho những lô hàng đi Mỹ hay từ Mỹ về VN. Lý do đơn giản vì.theo quy định của Luật pháp thương mại Hoa Kỳ, hàng hóa xuất, nhập khẩu vào Mỹ phải được DN vận chuyển (gồm các DN giao nhận vận tải đường biển (OTI và NVOCC) thực hiện. Theo luật pháp Mỹ (CFR, Phần 515), những DN kinh doanh vận chuyển hàng hóa và phát hành vận đơn theo phương thức trên cho những lô hàng đi từ hoặc đến Mỹ đều gọi là NVOCC và cần phải có giấy phép khai thác do FMC cấp. Để được FMC cấp giấy phép, các NVOCC phải tuân thủ theo 3 bước: Bước một ký quỹ bảo lãnh (FMC Surety Bond Requirements) để chứng minh khả năng tài chính của mình. Có thể bảo lãnh riêng từng DN hoặc bảo lãnh tập thể theo nhóm. FMC khuyến khích hình thức bảo lãnh theo nhóm của FIATA (FIATA Group Bond) vì tính ưu việt của nó. Nếu bảo lãnh riêng từng DN thì số tiền bảo lãnh là 150.000 USD/năm, ngược lại nếu bảo lãnh theo nhóm dưới hình thức FIATA Group Bond thì sẽ ít hơn. Dù là bảo lãnh riêng hay bảo lãnh theo nhóm thì luật pháp Mỹ yêu cầu phải mua bảo hiểm cho các bảo lãnh đó với các công ty bảo hiểm có uy tín. Bước tiếp theo là phải đăng ký hành nghề kinh doanh NVOCC và đăng ký vận đơn với FMC và Bước sau cùng là phải công bố công khai trên mạng internet bảng giá cước và giá dịch vụ liên quan kể cả các loại phụ phí. Trong 3 bước nói trên có lẽ bước đầu tiên và bước sau cùng là phức tạp và khó khăn nhất, cần sự tưu vấn.

Sở dĩ FMC quy định các DN kinh doanh với tư cách NVOCC phải ký quỹ bảo lãnh như trên là để bảo đảm khả năng tài chính trang trải các khoản phạt, nếu có, liên quan tới trách nhiệm của những DN này trong các lĩnh vực sau đây:

1. Mua bán dịch vụ vận tải. 2. Thanh toán tiền cước cho các lô hàng vận chuyển theo hình thức vận tải đơn phương thức hay đa phương thức. 3. Chi phí về việc vận chuyển hàng phát sinh từ vận đơn hoặc chứng từ tương tự với chủ hàng. 4. Chi phí về việc cấp vận đơn và các chứng từ tương tự. 5. Chi phí vận tải nội địa hoặc vận tải suốt. 6. Chi phí bồi thường cho đại lý giao nhận theo quy định. 7. Chi phí thuê container. 8. Chi phí thuê đại lý ở địa điểm tiếp nhận hàng đi hoặc địa điểm giao trả hàng ở cảng đích.

Để được hưởng các quyền lợi khi áp dụng hình thức ký quỹ tập thể FIATA Group Bond với FMC, FIATA quy định các DN kinh doanh theo hình thức NVOCC phát hành FBL cho thị trường Mỹ phải đáp ứng các điều kiện sau:

1. Phải là hội viên của Hiệp hội giao nhận vận tải quốc gia nơi mình có trụ sở chính (ví dụ như VLA của Việt Nam). 2. Phải mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự với công ty bảo hiểm được FIATA chấp nhận để bồi thường cho khách hàng khi phát hành FBL theo phương thức trên. 3. Đơn xin tham gia ký quỹ theo FIATA Group Bond phải gửi cho cả FIATA và công ty bảo hiểm mà FIATA chấp nhận. 4. Phải công bố giá cước và giá dịch vụ trên internet. 5. Phải nộp phí hàng năm cho FIATA về việc áp dụng FIATA Group Bond (phí này bằng 0,9% của số tiền Surety Bond do FMC quy định, tức là 1.350 USD/năm cộng thêm USD25 cho mỗi hóa đơn thu cứơc hoặc dịch vụ.

Các Hội viên của VLA muốn tham gia, khi làm việc với FMC nên nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ tục, quy định cụ thể của luật pháp Mỹ và các quy định liên quan của FIATA vì chi phí phải bỏ ra để được cấp giấy phép ban đầu và trong quá trinh kinh doanh là không phải nhỏ, khá tốn kém.

Theo thông kê của FMC, tính đến ngày 16/9/2021, số lượng NVOCC của ASEAN đã đăng ký với FMC là: Việt Nam: 63, Singapore: 53, Malaysia: 15, Philippine: 13 và Indonesia là 12. Việt Nam hiện đang đứng đầu trong ASEAN. Số lượng của Việt Nam tăng so với cách đây 2 năm chỉ là 25-30 nhằm đáp ứng yêu cầu thương mại Việt Nam-Hoa kỳ đang gia tăng nhanh và Mỹ là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.

Đa số các DN Freight Forwarders/Logistics Providers Việt Nam sử dụng Bond của Công ty Mẹ hoặc Văn phòng ở Mỹ để ký hợp đồng với hãng tàu vận chuyển đi Mỹ. Trong số 63 DN của Việt Nam thì hội viên của Hiệp hội VLA là 46, chiếm 73%. Các DN còn lại là các DN nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay, Hiệp hội VLA có 515 hội viên trong đó có 58 hội viên là các DN FDI. Trên trang thông tin của FMC có tên chi tiết các DN Freight Forwaders/Logistics Providers Việt Nam đã được cấp Giấy phép.

Chính vì các quy định chặt chẽ như trên của luật pháp Hoa Kỳ, các DN XNK Việt Nam, nếu muốn hạ thấp chi phí dịch vụ liên quan cho hàng xuất khẩu đi Mỹ và ngươc lại, cần chủ động lưu ý lựa chọn các DN cung cấp dịch vụ logistics phù hợp, hội tụ các điều kiện chính sau: có Hợp đồng booking trực tiếp với hãng tàu (đại lý cấp 1); phát hành được vận đơn (HBL) và có Bond, được chấp nhận vào Mỹ trực tiếp; Có thể kê khai AMS (Automatic Manifest System) trực tiếp.

Hiệp hội VLA đã nêu rất đầy đủ về yêu cầu Bond và xin giấy phép của FMC cho vận chuyển hàng hóa xuất nhập với thị trường Mỹ trong Sổ tay Nghiệp vụ Kinh doanh dịch vụ Logistics của VLA, phát hành tháng 5/2017, trang 100-104.

Ngày 18/11/2021, Hiệp hội VLA đã tổ chức Hội thảo online về Phát hành H/BL và Bond cho hàng hóa xuất nhập đi Mỹ cho Hội viên và mời các chủ hàng XNK cùng tham gia. (Xem clip Hội thảo trực tuyến: Các quy định chung về đăng ký Giấy phép FMC cho Doanh nghiệp Logistics Việt Nam)

Tài liệu tham khảo: https://www2.fmc.gov/oti/ LS Võ Nhật Thăng / Nguyễn Tương / Ngô Khắc Lễ

Từ khóa » Khai Fmc Hàng đi Mỹ