Rashomon- Bộ Phim Của Những Cách Tân độc đáo
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ
- Cảm nhận phim
- Ngôn ngữ biểu tượng trong phim của Trương Nghệ Mưu (phần 2)
- Ngôn ngữ biểu tượng trong phim Trương Nghệ Mưu (P1)
- Ngôn ngữ biểu tượng trong phim Trương Nghệ Mưu (phần 3)
- Âm thanh trong phim “Đèn lồng đỏ treo cao”
- Rashomon- bộ phim của những cách tân độc đáo
- Cảm nhận truyện
- Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
- Vì sao tôi yêu Vân trung ca ?
- Mỗi ngày một ý nghĩ
- Luận về tình cảm của Mạnh Giác và Hoắc Thành Quân
- Mạnh Giác và quyền lực
- Nghĩ về Mạnh Giác và Lưu Tuân
- Nghĩ về Thượng Quan Tiểu Muội
- Nghĩ về Tứ gia và Mạnh Giác
- Tản mạn về Mạnh Giác (1)
- Tản mạn về Mạnh Giác (2)
- Tản mạn về Mạnh Giác (3)
- Tản mạn về Vân Ca (1)
- Tôi đọc “Thất dạ tuyết”
- Vài dòng về Lang nha bảng
- Vole
- “Vì yêu mà cố níu kéo, hay bởi yêu nên học buông tay”
- Sémiotique- Ecole de Paris
- Une analyse sémiotique de la nouvelle « Dans le fourré » de Akutagawa (part 1)
Rashomon được coi là bộ phim đầu tiên giới thiệu Kurosawa và nền điện ảnh Nhật Bản đến với các khán giả phương Tây và là một kiệt tác của Kurosawa. Cái tạo nên sức hấp dẫn ở bộ phim này chính là cách kể chuyện hết sức hiện đại của nó, cộng với các cách tân về kĩ thuật mà Kurosawa tạo nên trên cơ sở kết hợp nghệ thuật hiện đại phương Tây với cội nguồn văn hóa Nhật Bản trong diễn xuất và dàn dựng.
Bộ phim được làm năm 1950, dựa trên hai truyện ngắn của nhà văn tài hoa Akugatawa: “Rashomon” và “In a Grove” (truyện “Rashomon”: Lã Sinh Môn cung cấp bối cảnh nền, truyện “In a Grove”- “Trong bụi cây” cung cấp cốt truyện và nhân vật). Cấu trúc tự sự độc đáo của bộ phim cùng với tính không thể khám phá của sự thực mà bộ phim đề cập khiến cho trong văn hóa phương Tây, Rashomon gần như đã trở thành một điển tích (trong tiếng Anh cũng như một số ngôn ngữ khác, Rashomon đã trở thành từ chỉ tình trạng sự thật không thể được tìm ra vì các nhân chứng khác nhau cung cấp những bằng chứng trái ngược nhau. Thuật ngữ hiệu ứng Rashomon trong tâm lí học cũng bắt nguồn từ chính bộ phim này.) Không phải ngay từ khi ra đời, Rashomon đã gây đựợc tiếng vang như vậy. Sự thực là khi phát hành ở Nhật, bộ phim đã bị thất bại nặng nề về mặt doanh thu, nó thậm chí còn bị tống vào kho, liệt vào danh sách những bộ phim dở nhất trong năm, vì cách kể chuyện có phần khó hiểu và kì lạ, khiến cho uy tín nghề nghiệp của đạo diễn Kurusawa bị suy giảm đáng kể. Số phận của bộ phim chỉ thực sự thay đổi nhờ vào một phái đoàn nghệ thuật đến từ nước Ý. Phái đoàn này đã đề nghị các nhà làm phim Nhật Bản cho xem những bộ phim hay nhất và dở nhất trong năm, Rashomon đã được chiếu trong danh mục những phim dở nhất. Con mắt xanh của các nhà làm phim Ý đã khiến họ thấy ở đây những cách tân độc đáo của một thiên tài. Bộ phim đựợc đưa về tham dự Liên hoan phim Venice và sau đó liên tiếp giành đựợc các giải thưởng cao của các hội đồng nghệ thuật và được các khán giả châu Âu nồng nhiệt đón nhận. Lí do giải thích cho số phận thăng trầm của bộ phim chính là những cách tân táo bạo của Kurosawa. Cấu trúc tự sự độc đáo mới mẻ chính là điểm gây shock nhất trong bộ phim này. Ngày nay, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn, tính đa thanh- đối thoại trong tự sự không còn là một điều quá mới mẻ nhưng với văn học và điện ảnh lúc bấy giờ, cách kể chuyện của Akugatawa và Kurosawa thực sự là kì lạ. Bộ phim xoay quanh một sự kiện trung tâm: vợ của một samurai bị tên cướp Tajomaru hãm hiếp và samurai bị chết bởi một thanh gươm đâm vào ngực. Sự kiện này được kể lại qua 4 lời khai khác nhau của 4 nhân chứng: Tajomaru-tên cướp, Masago-người thiếu phụ- vợ nạn nhân, Kanazawa-no-Takehiro-nạn nhân (qua lời người ngồi đồng) và tiều phu-vô danh. Tên cướp kể rằng hắn bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của người vợ nên lập mưu dụ hai vợ chồng vào rừng, trói người chồng rồi cưỡng đoạt người vợ. Người vợ, sau những biến chuyển tâm lý phức tạp, đòi hắn giết người chồng vì với nàng: “Bị nhục trước mặt hai người đàn ông thì còn tồi tệ hơn cả cái chết… Một trong hai người phải chết… Và tôi sẽ đi theo người nào sống…”. Kết quả là tên cướp đã cởi trói cho người chồng để cùng so gươm một cách quang minh chính đại. Gã thắng và giết anh chồng trong cuộc đấu. Lợị dụng lúc hai người so gươm, người vợ đã trốn mất.Người vợ, khi đến cầu nguyện tại một ngôi chùa lại kể rằng sau khi bị làm nhục, nàng nhìn thấy vẻ khinh bỉ trong con mắt người chồng khi anh nhìn nàng. Không thể chịu nổi sự khinh rẻ đó, nàng quyết định sẽ đâm chết chồng rồi tự tử. Nhưng sau khi hạ sát chồng, nàng lại không còn đủ can đảm để tự sát nữa.
Nạn nhân- người chồng, khi được chiêu hồn về để kể lại câu chuyện, lại kể rằng tên cướp sau khi cưỡng đoạt người vợ thì dụ dỗ nàng theo hắn bằng cách dèm pha rằng vì nàng đã thất tiết nên nếu có trở lại với chồng cũng sẽ chỉ nhận được sự coi thường. Người vợ sau một hồi đấu tranh tâm lí đã thuận tình theo hắn. Nhưng truớc khi đi, nàng bỗng nổi điên lên và yêu cầu tên cướp kết liễu tính mạng chồng mình. Điều đó làm cả hai người đàn ông khiếp sợ. Tên cướp khinh bỉ từ chối, thậm chí còn muốn giết người vợ. Người vợ bỏ chạy vào rừng. Tên cướp, sau khi cởi trói cho người chồng, cũng bỏ đi . Kiếm sĩ cay đắng về tình người bạc bẽo, nhặt con dao và tự đâm vào ngực!!!
Như vậy, mỗi lời khai cung cấp cho chúng ta một hồ sơ khác nhau về sự thực, chúng lần lượt phủ nhận lẫn nhau, khiến cho khán giả như rơi vào mê cung, không thể biết lời khai nào là sự thật.
Điều này cho thấy tính không đáng tin cậy của lời người kể chuyện trong quan niệm của tự sự hiện đại. Nó hoàn toàn khác với tự sự truyền thống. Tự sự truyền thống đi tìm cách kể bằng hình ảnh cho hay nhất một câu chuyện nào đó, người kể phải là người ban phát chân lí cuối cùng. Nếu theo cách dựng của tự sự truyền thống, đây sẽ là một bộ phim trinh thám. Nó sẽ chỉ dừng lại khi tìm ra sự thực về thủ phạm giết người. Chính vì các khán giả Nhật Bản lúc đầu đã xem Rashomon theo cách như vậy nên họ thấy đây là một thất bại của Kurosawa. “Bộ phim quá khó hiểu.”
Trên thực tế, Akugatawa và Kurosawa đã đưa ra một quan niệm mới về người kể chuyện: người kể chuyện không phải là người biết hết tất cả, anh ta chỉ biết một mảnh vỡ của sự thực. Đứng trước cùng một sự kiện, mỗi người có một câu chuyện khác nhau, bởi cái nhìn và cách lí giải sự kiện của họ là khác nhau. Và họ có thể cố tình kể sự thực theo cách có lợi nhất cho mình. Như lời nhà sư nói trong ngôi đền đổ nát, con người sẽ mãi mãi không thể có được sự thực vì sự yếu đuối và ích kỉ của chính mình. Một nét mới trong nghệ thuật tự sự cuả bộ phim này là cách kể chuyện bằng phục hiện. Nó kể lại vụ án mạng qua hồi tưởng của 4 nhân vật. Đây là điểm Kurosawa kế thừa từ tác giả truyện ngắn Akutagawa. Nhưng bộ phim còn đẩy xa hơn kĩ thuật kể chuyện bằng hồi tưởng vì câu chuyện vụ án của ông thực chất là hồi tưởng của hồi tưởng, phục hiện nằm trong phục hiện. Thật vậy, lời khai cuả các nạn nhân ở đây không phải được ghi lại một cách trực tiếp như trong truyện ngắn của Akugatawa mà được kể lại trong lời của tiều phu và nhà sư nói với một kẻ tiện dân khi họ cùng trú mưa trong một cổng thành hoang phế. Tính hồi tưởng lồng trong hồi tưởng này chi phối sự xuất hiện 3 mảng không gian khác nhau trong câu chuyện. Không phải là hai mảng không gian: công đường và khu rừng- hiện trường vụ án mà là cổng thành Rashomon- công đường- khu rừng. Mở đầu phim là 3 nhân vật tiều phu, nhà sư và kẻ tiện dân đứng trú mưa. Tiều phu không ngừng than thở “Không thể hiểu được, không thể hiểu được chuyện gì cả”, trong khi nhà sư ôm đầu bất lực. Đáp lại câu hỏi của kẻ tiện dân, tiều phu kể lại câu chuyện trên công đường với lời khai của các nhân chứng. Các nhân chứng lại hồi tưởng lại sự thực và hiện trường vụ án theo quan điểm của mình. Nạn nhân, tên cướp, người thiếu phụ không xuất hiện trực tiếp như trong truyện ngắn của Akugatawa mà xuất hiện trong hồi tưởng của tiều phu và nhà sư. Các nhân vật này lại lần lượt tái hiện nội tình của vụ án trước quan tòa. Nếu gọi không gian cổng đền Rashomon là không gian hiện tại, không gian công đường là quá khứ 1, không gian khu rừng là quá khứ 2 thì bộ phim chính là sự đan xen các mảng không gian này, hiện tại và quá khứ đan xen, quá khứ 1 và quá khứ 2 luân phiên. Các nhân vật chính của vụ án không xuất hiện trong một không gian và thời gian duy nhất của vụ án mà luôn đứng ở bản lề của không gian công đường và không gian hiện trường vụ án, do đó,người xem không chỉ chứng kiến bản thân vụ án mà còn được chứng kiến diễn biến tâm trạng của họ trước từng sự kiện của vụ án, cũng như sự đối chứng giữa các lời khai của 3 nhân vật này với hai nhân chứng: nhà sư và tiều phu. Thiếu phụ, tên cướp, nạn nhân cung khai trước sự chứng kiến của hai nhân chứng (trong khuôn hình, 3 nhân vật lần lượt cung khai luôn ở vị trí tiền cảnh, cận cảnh, còn hậu cảnh luôn là nhà sư và tiều phu). Sự đan xen các hình ảnh ở công đường và hình ảnh ở ngôi đền cũng cho thấy những phản ứng của tiều phu, người bình dân và thày tu trước các lời khai. Nghệ thuật xử lí máy quay của phim rất hiệu quả. Khi miêu tả cảnh người tiều phu vào rừng, để báo hiệu một sự kiện giật gân sắp đến, máy quay di chuyển theo bước chân của nhân vật, quay từ nhiều góc độ: từ trên cao xuống, từ dưới hất lên, khiến ta có cảm giác như người tiều phu đang bị theo dõi bởi một con mắt vô hình nào đó. Cảnh tên cướp và võ sĩ chạy vào rừng sâu cũng được miêu tả với máy quay di chuyển tốc độ cao, rung, quay từ phía trước, phía sau, trên đầu, gợi tả trạng thái phấn khích của hai nhân vật: samurai phấn khích vì tò mò trước món đồ cổ mà tên cướp hứa hẹn, tên cướp phấn khích vì đã dụ được kiếm sĩ vào bẫy. Đặc biệt ấn tượng trong phim này là các cảnh người thiếu phụ cung khai, tên cướp và nạn nhân cung khai đều được quay bằng cách chĩa thẳng ống kính vào nhân vật, cho họ xuất hiện ở cận cảnh, trực diện. Cách quay này tạo cảm giác như khán giả chính là vị quan tòa đang nghe đang các nhân chứng cung khai. Nghệ thuật xử lí ánh sáng của Kurosawa rất ấn tượng. Kurosawa đã triệt để quay bằng ánh sáng tự nhiên. Khi các cảnh quay ở trong rừng gặp khó khăn vì cây cối rậm rạp, ánh sáng mặt trời khó lọt qua, nhà quay phim đã khắc phục bằng cách dùng gương phản chiếu ánh mặt trời. Ánh sáng phản chiếu của gương tạo nên những mảng sáng tập trung trên gương mặt nhân vật và trong màu trắng của trang phục của người thiếu phụ. Hiệu quả ánh sáng thể hiện rõ trong đoạn phục hiện của tên cướp, kể lại cảnh hắn chạy về báo với thiếu phụ là chồng cô bị rắn cắn. “Tajomaru cười lớn rồi chạy. Ánh sáng chiếu thẳng vào mặt y và chiếu vào hình ảnh người thiếu phụ trùm mũ trắng…Đạo diễn thực sự rất lưu tâm đến hiệu quả màu sắc của phim khi cho dùng mực tàu để nhuộm nước mưa, tạo ra hiệu quả về cảm giác mưa nặng hạt. Partager :
- X
Bình luận về bài viết này Hủy trả lời
- Tìm kiếm cho:
-
Thư viện
- Tháng Mười 2014
-
Meta
- Tạo tài khoản
- Đăng nhập
- Theo dõi Đã theo dõi
-
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi Theo dõi ngay - Đã có tài khoản WordPress.com? Đăng nhập.
-
-
-
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi - Theo dõi Đã theo dõi
- Đăng ký
- Đăng nhập
- URL rút gọn
- Báo cáo nội dung
- Xem toàn bộ bài viết
- Quản lý theo dõi
- Ẩn menu
-
Từ khóa » Hiệu ứng Rashomon
-
Hiệu ứng Rashomon - Có Bao Nhiêu “sự Thật” Trong Một Sự Việc?
-
Nghiên Cứu Về Xung đột Xã Hội, Hiệu ứng Rashomon Và Những Gì Ta ...
-
Hiệu ứng Rashomon - Wikimedia Tiếng Việt
-
Bản Năng Của Con Người Là Dối Trá- Tìm Hiểu "hiệu ứng Rashomon ...
-
Hiệu ứng Rashomon - Spiderum
-
HIỆU ỨNG RASHOMON VÀ BẢN... - JAPO - Cổng Thông Tin Nhật Bản
-
Bản Năng Dối Trá - Midori Sora
-
Khi Bản Năng Con Người Là NÓI DỐI | Hiệu ứng RASHOMON
-
"Same Same But Different" - Bí ẩn Của Những Kí ức Mâu Thuẫn
-
[Phần 1] Các Hiệu ứng Tâm Lý Thú Vị Trong Cuộc Sống
-
Rashōmon (phim) – Wikipedia Tiếng Việt
-
Sheila Marie Orfano: Liệu Bạn Có Thể Tin Tưởng Trí Nhớ Của Mình? - TED
-
Rashomon: Đỉnh Cao Chiêm Nghiệm Của điện ảnh Nhật - Báo Phụ Nữ