[Sách Giải] Văn Mẫu: Cảnh Ngày Hè

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây

Xem thêm các sách tham khảo liên quan:

  • Sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1
  • Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10
  • Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Ngắn Gọn)
  • Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Cực Ngắn)
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 1
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 2
  • Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
  • Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
  • Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Nâng Cao
  • Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Nâng Cao

Đề bài: Dàn ý Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi: Là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới với sự nghiệp văn học đồ sộ.

– Giới thiệu về tập thơ Quốc âm thi tập và bài thơ cảnh ngày hè: Quốc âm thi tập là tập thơ đặt nền móng cho sự mở đường của thơ chữ Nôm, cảnh ngày hè là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ.

I.. Thân bài

1. Sáu câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ngày hè

– Hoàn cảnh sống của Nguyễn Trãi trong những ngày về ở ẩn:

     + “Rồi”: Là một từ cổ có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ

     + “Ngày trường”: Ngày dài, chỉ khoảnh thời gian rảnh rỗi.

     + Hóng mát: Hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái

→ Tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, đây là những giây phút hiếm hoi của cuộc đời.

– Bức tranh thiên nhiên rực rỡ, sống động.

     + Xuất hiện trong ba câu thơ là những sự vật quen thuộc của của mùa hè: lá hòe , thạch lựu, hoa sen.

→ Sự vật gần gũi, giản dị

     + Cách miêu tả sự vật của tác giả: Màu sắc – màu xanh của hoa hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, trạng thái – đùn đùn, rợp, phun, tiễn, mùi hương: mùi sen cuối hạ.

→ Cách miêu tả tinh tế, sinh động khiến các sự vật hiện lên vừa có màu sắc vừa có trạng thái, vừa có mùi hương

⇒ Các sự vật vốn gần gũi, giản dị nhưng qua cách phối hợp đường nét, màu sắc cùng các động từ mạnh đã vẽ lên một bức tranh căng tràn sự sống

⇒ Thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi.

– Vẻ đẹp bức tranh cuộc sống con người

     + Nguyễn Trãi dùng nhiều từ Hán Việt như ngư phủ, cầm ve, tịch dương kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã.

     + Cuộc sống được cảm nhận bằng âm thanh: Âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về

     + Nhà thơ sử dụng hai từ láy tượng thanh “lao xao” – âm thanh của những phiên chợ cá, “dắng dỏi” – diễn tả âm thanh của tiếng ve, kết hợp với nghệ thuật đảo cấu trúc câu nhằm nhấn mạnh những âm thanh bao trùm làng quê.

→ Cuộc sống sôi động, ồn ão, tràn đầy sức sống và âm thanh.

⇒ Cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn đầy sức sống

⇒ Tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống quê nhà của nhà thơ Nguyễn Trãi.

2. Hai câu cuối: Tâm sự và ước nguyện của nhà thơ

– “Dẽ” là từ cổ nghĩa là lẽ, lẽ ra

– “Ngu cầm” là cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đây là điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn – những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này

→ Thể hiện ước muốn có được cây đàn để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương ông.

→ Câu thơ thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê.

– Câu thơ cuối cùng thể hiện rõ ràng, cụ thể ước mơ được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước.

→ Nguyễn Trãi dù sống trong cảnh thanh nhàn nhưng vẫn nặng lòng với dân với nước. Ông ước mơ về cuộc sống no đủ, ấm áp sung túc không chỉ trên quê hương ông mà còn trải khắp đất nước.

3. Nghệ thuật

– Giọng điệu trữ tình, sâu lắng, bút pháp tả sinh động

– Thể thơ sáng tạo thất ngôn xen lục ngôn

– Ngôn ngữ thơ phong phú, đa dạng vừa có lớp từ Hán Việt vừa có lớp từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa trang trọng vừa bình dị

– Sử dụng các điển tích, điển cố

I.I. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

– Mở rộng: Liên hệ với những bài thơ cùng chủ đề như “Quy hứng” của Nguyễn Trung Ngạn, “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đề bài: Lập Dàn ý Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

Dàn ý mẫu

1. Về tác giả và xuất xứ:

   a. Nguyễn Trãi (1380-1442), đỗ Thái học sinh thời cuối Trần, ông ngoại là Trần Nguyên Đán, tể tướng nhà Trần. Con nhà văn hiến, tuổi trẻ, tài cao giữa lúc vận nước gian nguy (giặc Minh xâm lược năm 1407), Nguyễn Trãi đã theo Lê Lợi làm nên thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc (1418-1428) mở ra một vương triều mới. Là tác giả của Quân trung từ mệnh, Đại cáo bình Ngô những văn kiện chính trị, quân sự, ngoại giao nổi tiêng thời phong kiến. Lại là tác giả Dư địa chí (một trong những cuôn sách địa lí đầu tiên về nưởc ta) và hàng trăm bài thơ chữ Hán, chữ Nôm sau tập hợp thành ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Một lòng thờ vua, giúp nước, thương dân nhưng cuối đời gặp họa chu di tam tộc (giết ba họ). Ông là một thiên tài nhân nghĩa – thanh cao – chịu oan nghiệt. Năm 1980, Tổ chức Giáo dục, khoa học và Vãn hóa thế giới (UNESCO) đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân Văn hóa thế giới.

   b. Quốc âm thi tập gồm 254 bài, tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn, cho nên có thể nói Nguyễn Trãi là người đặt nền móng và một trong những đỉnh cao cùa Thơ Việt. Tập thơ được chia làm 4 phần, theo thể thất ngôn Đường luật chen lục ngôn (có một câu sáu tiếng xen vào), một sự thay đổi chỉ thấy ở thơ Việt thế kỉ XV, XVI. Bốn phần này được chia ra thơ về thời tiết, cây cỏ, thú vật và không có tựa đề (vô đề). Tất cả đều là tâm sự, tâm trạng, tâm tình, tâm tính. Những cảm xúc, nghĩ suy trước sự vật, nhân tình, thế sự, thế thái của một trong những con người Việt Nam đẹp nhất cách đây khoảng 600 năm. Xã hội thế nào? Con người ra sao? Chí hướng thế nào? Nỗi mình ra sao? Tự răn điều gì giữa thời buổi tranh quyền đoạt lợi trong một vương triều mới thành, đang lên đều có thể tìm thấy trong tập thơ.

   Trên cái nền ấy là lung linh vẻ đẹp ức Trai “lòng sáng như sao Khuê” (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo) như nhận xét của Lê Thánh Tông (1460- 1497), vị vua anh minh nhất trong 1000 năm quốc gia Đại Việt.

2. Về bài thơ.

   Cảnh ngày hè, xếp trong mục Bảo kính cảnh giới bài 43 (Gương báu răn mình) của phần Vô đề

   Mùa hè, ngày dài, rỗi rãi, ngồi hóng mát, nhưng không phải thư nhàn, thanh thản mà với một bầu tâm sự, xúc cảm mà ghi lại. Từ cảnh nghĩ đến thế cuộc rối lòng khiến tình ý miên man. Chúng ta sẽ đi vào bài thơ để thấy vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.

a. Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên – cảnh ngày hè

   Nhà thơ từ trong sự tĩnh lặng, có gì đó vắng vẻ của đời sống thường nhật bản thân nơi ở ẩn để vẽ nên bức tranh phong cảnh. Lầu cao, lúc mặt trời sắp lặn, những tiếng ve inh ỏi cuối cùng để rồi sẽ chìm vào im ắng, con người này chỉ còn mỗi việc hóng mát một mình suốt ngày. Ông sẽ thấv gì ở cuộc sống ngày hè? Cây và hoa, người và vật đều bộc lộ hết nhiệt độ sống tối đa của nó. Cây hòe, tán giương che rợp, màu xanh dày dặn, đầy đặn, cố mà xanh hết sức xanh. Cây thạch lựu cũng cố phun sắc đỏ. Hoa sen hồng thì cố tỏa hương ngát hơn. Chợ cá phải náo nhiệt lắm thì từ nơi xa mới vẳng lai được tiếng lao xao. Những tiếng ve cuối cùng của cuối ngày như muốn đứt giọng mà kêu. Các động từ đùn đùn, phun, tiễn, lao xao, dắng dỏi đều diễn tả trạng thái đang vận động mạnh mẽ, ứa căng, tràn đầy của vạn vật. Cách ngắt nhịp cũng có sự biến đổi đặc biệt. Không đều đều, cân đối, nhịp nhàng 3/4 quen thuộc của thể thơ đường luật. Giữa “Hòe lục đùn đùn / tán rợp gương”, và “lao xao chợ cá / làng ngư phủ; Dắng dỏi cầm ve / lầu tịch dương” là Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ; Hồng liên trì / đã tiễn mùi hương (nhịp 3/4). Người ta sẽ cảm nhận được muôn vật, muôn vẻ khác nhau qua trạng thái và nhịp sống của nó bằng các động từ miêu tả và sự thay đổi tiết tấu ở các cáu thơ. Sức sống này đầy đặn, lớp lớp sinh sôi, sức sống kia mạnh mẽ, cái này là bề rộng, cái kia là chiều cao. Tất cả đều sống động, đang khát sống. Cái thể trạng hừng hực là thể trạng riêng, là vẻ đẹp của cảnh vật ngày hè dưới con mắt nhìn Nguyễn Trãi.

b. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

   Thiên nhiên quanh mình, cuộc sống xã hội nơi xa tất cả đều vang động trong cõi lòng, trong tâm hồn ông. Nhà thơ quan sát, tận hường hương vị, lắng nghe cái rướn mình sinh sôi, nảy nở, thôi thúc tự bên trong, đang ứa căng, tràn đầy, xôn xao của vạn vật và đời sống. Phải có lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống sâu sắc, thắm thiết, thấm thía con người này mới có thể thụ hưởng được như thế trong một buổi đơn, cô độc như vậy. Nguyễn Trãi sẽ vui cái vui sinh sôi, nảy nở đang diễn ra quanh mình để quên đi cái tâm không nhàu. Và cái tâm không nhàn của ông, chính là nỗi niềm, khát vọng về một đời sống thái bình, hạnh phúc cho dân cho nước. Nhất là khi chứng kiến đời sống thực, tự nhiên, yên lành, khát sống, không đua chen, bụi bặm của con người, tạo vật buổi cuối chiều ngày hè này.

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

   Lẽ ra nên có, làm sao có một triều đại, một xã hội cho muôn dân, muôn vật đang tràn đầy sức sống kia được sống thanh bình, an hưởng hạnh phúc. Chiến tranh chấm dứt: thế sự tưởng yên ổn, không ngờ lại đang chứa chất những rối ren. Bao giờ mới đến thời thái bình thịnh trị đây? Nguyễn Trãi, trong cảnh mà ta gặp, bài thơ mà ta đọc hôm nay, đang đặt ra câu hỏi ấy. Câu hỏi quên thân mình, phận mình để day dứt cho dân, cho nước. Nỗi đau, niềm lo, nỗi khát khao và tâm trạng ngậm ngùi cùng đồng thời hiện diện ở con người trưởc sau chỉ giữ vững một quan niệm, một tình cảm “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.

   Hai câu kết, thì câu cuối cùng 6 chữ. Là tiêu chí rõ ràng, ngắn gọn của thời đại thái bình. Thái bình, thịnh trị là “Dân giàu đủ, khắp đòi (muôn) phương”. Giữa nước (triều đại) và dân. Nguyễn Trãi luôn lấy dân làm trọng, lấy sự giàu có, no đủ, hạnh phúc của dân làm gốc. Đây cũng là nỗi niềm chung của những con người “đã rằng vì nước, vì dân”. Trước Nguyễn Trãi khoảng 500 năm, Thiền sư Pháp Thuận (915-990) thời Tiền Lê từng khẳng định: “Vận nước có nhiều nỗi, nhưng mở ra cõi thái bình là trên hết, nhà vua ở trên cao, nên lấy đức mà cảm hóa, khắp mọi nơi sẽ đều hết cảnh đao binh”. Sau Nguyễn Trãi cũng khoảng 500 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) cũng chỉ có một mong muốn tột cùng như thế.

Đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

Bài văn mẫu

     Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bao gồm cả sáng tác chữ Hán và chữ Nôm. Ở phần nào ông cũng có những tác phẩm xuất sắc. Và Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ nổi bật nhất của ông trong tập Quốc âm thi tập. Tác phẩm thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng yêu dân, yêu nước sâu nặng của Nguyễn Trãi.

     Bài thơ mở đâu bằng câu thơ mang tính chất thông báo :

    Rồi hóng mát thuở ngày trường

     Rồi có nghĩa là nhàn rỗi, thảnh thơi, từ rồi được đảo lên đầu câu, cách ngắt nhịp lạ, độc đáo 1/2/3 đã giúp nhấn mạnh hoàn cảnh, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đối với Nguyễn Trãi suốt một đời bận bịu, lo cho dân cho nước thì đây là khoảng thời gian hiếm hoi trong cuộc đời ông được thảnh thơi, ung dung. Từ rồi kết hợp với ngày trường (ngày dài) gợi nhắc về khoảng thời gian ông lui về ở ẩn, sống cuộc đời nhàn tản, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Câu thơ mở đầu đã hé lộ cho người đọc thấy tâm thế mở lòng để đón nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống.

     Sau câu thơ mở đầu, năm câu thơ tiếp theo khung cảnh mùa hè mở ra vô cùng sinh động, đẹp đẽ, ngập tràn sức sống :

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

     Mùa hè được tác giả khắc họa qua hàng loạt các sự vật: hòe, thạch lựu, sen, đây đều là những loài cây đặc trưng của mùa hè. Nhưng ấn tượng hơn chính là cách Nguyễn Trãi kết hợp các sự vật tự nhiên với các động từ: hòe đùn đùn, thạch lựu phun, sen tiễn, cho thấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, sự trỗi dậy của cảnh vật, tất cả đều vận động theo chiều hướng đi lên, ngày một căng tràn nhựa sống hơn. Bức tranh mùa hè còn trở nên sinh động hơn với sự kết hợp của các màu sắc: xanh, đỏ, hồng những gam màu nóng, khiến cho bức tranh thêm phần sinh động, ngập đầy sức sống. Hòa trong không gian là hương thơm đặc trưng của mùa hè, đó là hương hoa sen, hương hoa lựu, hương của vạn vật cỏ cây, cái dịu nhẹ, thanh mát của chúng hòa tan trong không khí lan tỏa vào cả lòng thi nhân.

     Trong bức tranh ấy còn có âm thanh của cuộc sống con người. Tiếng lao xao chợ cá gợi lên cuộc sống đông vui, tấp nập của làng chài, đây cũng là bức tranh thu nhỏ của cuộc sống con người. Đồng thời âm thanh tiếng lao xao cũng gợi cho ta liên tưởng về thứ âm thanh từ xa vọng lại, cho thấy sự tĩnh lặng của không gian và sự mở rộng tâm hồn của lòng người để cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống xung quanh.

     Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, bức tranh mùa hè hiện lên với những nét đặc trưng của làng cảnh Việt Nam, ở đó mọi sự vật đều căng tràn sức sống, rộn rã âm thanh, cuộc sống con người tươi vui ấm no. Đồng thời qua những câu thơ cũng cho thấy một con người có tâm hồn thư thái, thảnh thơi, tâm hồn rộng mở để lắng nghe, quan sát và cảm nhận những vẻ đẹp tinh tế nhất của cuộc sống.

     Trong những giây phút đắm say, hòa mình cùng nhịp sống thiên nhiên nhưng Nguyễn Trãi vẫn mang trong mình một mơ ước, một mong mỏi lớn :

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương

     Ước mơ của ông thật đẹp đẽ, cao cả, ông ước có cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn, đàn lên khúc ca Nam Phong để dân chúng được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc đủ đầy hơn. Mơ ước đã thể hiện tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của Nguyễn Trãi. Suốt cuộc đời ông luôn lo cho dân, cho nước, đây là tâm sự đã được ông thể hiện trong nhiều bài thơ :

    Bui một tấm lòng ưu ái cũ

    Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng

     Tác phẩm là một sự sáng tạo trong thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn. Ngôn ngữ tài hoa, phong phú, sử dụng những động từ mạnh, các từ láy, tượng thanh thành công để miêu tả thiên nhiên và cuộc sống con người. Tiết tấu bài thơ đa dạng, ngắt nhịp độc đáo, khiến bài thơ trở nên hấp dẫn, thú vị hơn.

     Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè phong phú, đa dạng, sinh động tràn đầy sức sống. Qua bài thơ ta còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi: yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, có một tâm hồn thi sĩ và đặc biệt có một tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.

Đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

Bài văn mẫu

   Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.

   Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

   Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

   Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”.

   Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòa lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

   Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

   “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

   “Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.

   Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

   Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

Bài văn mẫu

   Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, cái tựa Cảnh ngày hè kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó, bài 43 này, dù không phải không có cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều về tức cảnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của ngày hè. Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đến gần 20 mục, nhưng Cảnh ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều gì đã khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh tế của tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tâm lòng chàng? Có lẽ không riêng một yếu tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang.

   Cảnh ngày hè trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí “thi trung hữu họa”, người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh. Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.

   Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

   Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau. Ba chữ Rồi hóng mát đã gợi ra hình ảnh một ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi nào đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn. Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cai chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng của mùa hè. Nhưng có phải chỉ là chuyện thời lượng đơn thuần không? Hình như còn là chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có thể khiến một con người vốn ham gánh vác việc xã tắc giang sơn này cảm nhận là “thuở ngày trường?” Thời ông đang làm rường cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư? Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế, chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thanh nhàn bên ngoài chính cuộc của ức Trai chăng? Mà đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như còn ẩn trong âm vang của lời. Chẳng phải thế sao? Câu khai mở đã gây một cảm giác lạ đối với người quen đọc thơ thất ngôn bát cú. Có một cái gì đó như là giao thoa của những cảm giác trái chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Sao thế nhỉ? Có phải vì đó là một câu phá cách: lời chỉ có sáu tiếng (lục ngôn), tiết tấu chỉ có hai (3/3). Cả chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Sự co giãn này có hiệu quả gì đây? Hãy lắng nghe âm vang của nó:

    “Rồi hóng mát/ thuở ngày trường”

   Chẳng phải nó tao ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường như cũng trái chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong? Thong dong mà hối thúc, nhàn cư mà bận tâm, chẳng phải là cái tâm thế thường trực ỏ ức Trai hay sao? Có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho nó kiểu câu trúc ngôn từ như thế trong câu khai mở! Người nghiên cứu hiện đại có thể gọi đó là sự tham gia sáng tạo của vô thức chăng?

   Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức sống được hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên tri đã tiễn mùi hương”

   Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu xanh lục lá hòe thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì “rợp giương” như cử lọng giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son điểm sắc, cũng không lập lòe dậy lên vài đốm lửa, mà nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả hiên nhà. Từ dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi hương dậy lên bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “tiễn”… đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh lại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của gam màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh.

   Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi sĩ đã bắt được một nhịp vận hành vô hình hối thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý một chút thôi sẽ thấy điều này: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp từ trong ra ngoài, lá – hoa – hương thì tiếp ứng nhau, nhất là cái nhịp độ khẩn trương: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Loài này đang thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không khí các tạo vật đang đua tranh phô sắc, khoe hương.

   Có lẽ cần dừng đôi chút về câu chữ ở đây. Trước hết, là chữ. Hiện có hai bản ghi khác nhau về câu thơ Hồng liên trì đã … mùi hươmg và do đó có hai cách hiểu khác. Một bản ghép là “tin”, nghĩa là hết mùi hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là “tiễn”, nghĩa là đưa tỏa mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Đi liền với chữ, là cú pháp. Cặp quan hệ từ “còn”… “đã” trong cặp câu thực biểu hiện quan hệ cú pháp nào? Không ít người chỉ thây chúng biểu đạt quan hệ suy giảm: “đang còn”… “dã hét”. Từ đó đã dẫn tới việc hiểu nghĩa của chúng là Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng tiên tri đã tin (hết) mùi hương. Hiểu thế có phù hợp không?. Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn tự Nôm, có lẽ cần phải có thêm căn cứ về văn bản thơ và các quy luật nghệ thuật nữa. Trong nghệ thuật, có quy luật: tiểu tiết phục tùng tổng thể chi phối tiểu tiết. Cảm hứng chung của thi phẩm là về sự sung mãn toàn thịnh của ngày hè. Cho nên các hình ảnh (cả thiên nhiên lẫn đời sông) tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán, mỗi chi tiết đều phải góp mình làm nổi bật cái thịnh. Xem thế, chữ “tin” ít có lí. Nó nói cái suy. Tổng thể nói thịnh, tiểu tiết sao lại nói suy? Rõ ràng, “tin” sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ thống. Trái lại, chữ “tiễn” nói cái thịnh, mới cộng hưởng được với vẻ toàn thịnh ấy. về quan hệ cú pháp cũng thế. Cặp phó từ “còn”… “đã”… đâu chỉ nói về loại quan hệ suy giảm: “đang còn”… “đã hết”, mà nó còn dùng để chỉ loại quan hệ tăng tiến: “đang còn”… “đã thêm”. Trong tổng thể này, quan hệ phải là tăng tiến thì mới àn nhập. Bởi vậy, nghĩa của hai câu thơ chỉ có thể là: Thạch lựu hiện còn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn (đưa/tỏa) mùi hương. Hương sen, sắc lựu tiếp ứng nhau, chen đua nhau cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè.

   Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày hè toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

   Nghĩ cũng thú vị, chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống này. Lúc đương đông buổi chợ là hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là hình ảnh rã đám của một cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng có thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch.

   Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mở, một điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế. Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên, chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời sống lại trải từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta ngỡ như người viết đang muốn phổ vào không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.

   Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cảnh. Phải, cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế cùa một tâm hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

   Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Người dám mang trong mình ước nguyện kia phải là ai vậy? Một thi sĩ đơn thuần thôi sao? Một công thần khanh tướng thôi sao? Những kẻ ấy dám mơ đến việc cầm trong tay cây đàn của một quân vương sao? Không. Trong đời, về phận vị, Nguyễn Trãi là một công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng tư nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là thần tượng của lịch sử. Điều này có gì là không chính đáng đâu. Và, đó là khát khao tầm cỡ Nghiêu Thuấn.

   Thêm nữa, Nguyễn Trãi muôn gảy đàn chỉ để ca ngợi cuộc sống phong túc hiện thời thôi sao? Không. Dù cảnh tượng bày ra nhỡn tiền kìa quả là hưng thịnh. Nhưng nó vẫn chưa khiến ông thỏa nguyện. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn có một cuộc sống thực sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông cần phải đúc nó vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngấn lại, như để ghim sâu điều đau đáu của cõi lòng. Thì đó là khát khao Nghiêu Thuấn của một con người suốt đời “âu việc nước” chứ sao!

   Và, cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn và nét bút của một đấng tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?

Đề bài: Dàn ý Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Cảnh ngày hè

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè: Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc cũng là tác giả xuất sắc của nhiều loại hình văn học cả chữ Hán và chữ Nôm. Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của mảng thơ viết về thiên nhiên của ông.

– Giới thiệu khái quát về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ: Là hình tượng trung tâm của bài, đó là một bức tranh sinh động, tràn trề sức sống.

I.. Thân bài

1. Tâm thế ngắm cảnh của thi nhân

– Nhịp thơ 1-2-3, ngắt nhịp tự do, cách kể tự nhiên, thoải mái như lời nói hằng ngày.

– “Rồi”: rảnh rỗi, nhàn nhã

– “Hóng mát thuở ngày trường”: Hoạt động thư thái, nhàn tản, tao nhã trong ngày dài

→ Tâm thế an nhàn, thảnh thơi, thư thái. Với tâm thế ấy, bức tranh thiên nhiên hiện lên hòa hợp với tâm hồn của con người

2. Bức tranh cảnh vật.

– Những sự vật quen thuộc của mùa hè: hòe, thạch lựu, hoa sen

→ Cảnh vật gần gũi, bình dị, thân thuộc của mùa hè làng quê

– Cách miêu tả cảnh vật:

     + Màu sắc: lục, đỏ, hồng – Gam màu nóng, nổi bật, rực rỡ

     + Hình khối:

Phun – Sự sinh sôi đẩy mạnh ra bên ngoài

Đùn đùn – Sức sống cuộn trào, ngồn ngộn

Tiễn – sự lưu luyến trước sự đổi thay của cảnh vật

     + Mùi hương: Hương thơm của hoa sen cuối mùa hạ, mùi hương đậm đà.

→ Bức tranh mùa hè cuối hạ nhưng không gợi cảm giác héo úa, tàn tạ.

→ Đó là bức tranh cảnh vật mùa hè rực rỡ, căng tràn nhựa sống, thấy được sự cựa quậy sinh sôi trong lòng cảnh vật, sức sống căng tràn cuộn trào từ bên trong.

– So sánh với bức tranh mùa hè quen thuộc của đại thi hào Nguyễn Du:

“Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập lòe đương bông”

→ Cùng miêu tả vẻ đẹp mùa hè rực rỡ với nhưng Nguyễn Trãi phát hiện ra vẻ đẹp sức sống bên trong cảnh vật.

→ Phải là người yêu thiên nhiên, Nguyễn Trãi mới có được những phát hiện tinh tế như thế

3. Bức tranh cuộc sống

– Các hình ảnh: ngư phủ, cầm ve, lầu tịch dương

→ Là hình ảnh quen thuộc, mộc mạc bình dị của làng quê.

– Âm thanh cuộc sống:

     + Lao xao chợ cá: Âm thanh của phiên chợ cá náo nhiệt, sôi động, không khí náo nức, vui tươi của cuộc sống người dân làng chài

     + Dắng dỏi cầm ve: Âm thanh quen thuộc của mùa hè, âm thanh náo nhiệt, sôi động, rạo rực.

– Cách sử dụng từ ngữ, cú pháp

     + Các từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi”: Mô tả chính xác, độc đáo âm thanh

     + Phép đảo cấu trúc câu: Đặt vị ngữ lên trước, để những từ ngữ tượng thanh lên đầu câu nhằm nhấn mạnh âm thanh.

→ Bức tranh cuộc sống làng quê tấp nập, sôi động, giàu sức sống.

→ Nguyễn Trãi yêu cuộc sống và quan tâm tới nhưng người dân quê nên mới có thể phát hiện được những âm thanh, hình ảnh ấy

♦ Tổng kết:

– Nội dung:

     + Bức tranh thiên nhiên mùa hè với cảnh vật phong phú, đa dạng, màu sắc, rộn rã âm thanh, căng tràn sức sống, bức tranh cuộc sống sung túc, nhộn nhịp

     + Tâm hồn yêu thiên nhiên, tinh tế, nhạy cảm, tha thiết với cuộc sống của tác giả

– Nghệ thuật:

     + Kết hợp giữa từ Hán Việt và thuần Việt là cho bức tranh thiên nhiên vừa giản dị, gần gũi, vừa trang trọng, cổ kính.

     + Sử dụng các từ láy, từ tượng thanh, phép đảo cấu trúc câu

     + Giọng điệu trữ tình sâu lắng, bút pháp tả sinh động.

I.I. Kết bài

– Khái quát lại vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè

– Thể hiện suy nghĩ của bản thân: Đây là một bức tranh đẹp, tinh tế, qua bức tranh đã thể hiện tâm hồn tác giả. Xuân Diệu từng phát biểu “Lòng yêu thiên nhiên tạo vật là một kích thước để đo một tâm hồn.

Đề bài: Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

Bài văn mẫu

     Quốc âm thi tập tập thơ chữ Nôm sớm nhất của văn học trung đại, bao gồm 254 bài thơ. Đây là tập thơ đặt nền móng cho sự phát triển của thơ tiếng Việt. Nội dung tập thơ không chỉ cho thấy vẻ đẹp người anh hùng Nguyễn Trãi với tấm lòng yêu nước thương dân, mà còn cho thấy một tâm hồn thi sĩ rất đỗi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Vẻ đẹp nhân cách thi sĩ ấy được thể hiện một cách rõ nét qua bài thơ số 43 (được biên soạn đặt tên là Cảnh ngày hè), nằm trong mục Bảo kính cảnh giới, phần Vô đề của tập “Quốc âm thi tập”.

     Bức tranh thiên nhiên ngày hè hiện lên vô cùng sống động, đẹp đẽ. Thời gian Nguyễn Trãi lựa chọn miêu tả là vào cuối ngày lầu tịch dương. Đây là khoảng thời gian được nhiều nhà thơ lựa chọn miêu tả để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình như Bà Huyện Thanh Quan:

    “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

    Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

     Hay câu thơ của Nguyễn Du:

    “Chim hôm thoi thót về rừng

    Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành”

     Nếu câu thơ trên phảng phất nỗi buồn trong khoảnh khắc ngày tàn, thì trong câu thơ của Nguyễn Trãi, tuy thời gian đã về chiều nhưng vạn vật vẫn căng tràn sức sống. Bức tranh thiên nhiên rộn rã, tươi tắn, dạt dào sức sống. Trong khoảnh khắc nhàn tản, suốt một đời bận rộn lo toan cho dân, cho nước, Nguyễn Trãi lắng lòng mình, đem tất cả sự tinh tế, nhạy cảm để nắm bắt vẻ đẹp tràn đầy sức sống của thiên nhiên:

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

     Nguyễn Trãi đã vận dụng tất cả các giác quan, để cảm nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Trước hết là cảm nhận về thị giác, Nguyễn Trãi nhận thấy sự căng đầy sức sống của vạn vật. Hệ thống động từ đã được vận dụng hết sức linh hoạt: đùn đùn: có dòng nhựa sống đang ứ căng trong thớ vỏ của hoa hòe, phun trào ra hết lớp này đến lớp khác; giương: tán lá xòe rộng ra để che rợp cả khoảng không rộng lớn; phun: dòng nhựa đang tràn trề và phun trào lên, tạo thành màu đỏ rực rỡ của hoa lựu; tiễn có nghĩa là dư ra. Sự cảm nhận bằng thị giác còn thể hiện qua sự tinh tế khi ông phát hiện ra các màu sắc khác nhau của tạo vật: Sắc xanh (xanh thẫm) của cây hòe đang tỏa tán khắp nơi; màu đỏ rực rỡ của hoa lựa. Màu đỏ này ta đã từng bắt gặp trong câu thơ của Nguyễn Du:

    Dưới tăng quyên đã gọi hè,

    Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông

     Câu thơ của Nguyễn Du thiên về tạo hình, câu thơ của Nguyễn Trãi nói được sức sống của hoa lựu: Cả dòng nhựa tràn trề, ứ căng phun trào hết lớp này đến lớp khác trên những bông hoa lựu. Xen vào đó là sắc hồng dịu dàng của những cánh sen thanh cao, tao nhã. Tất cả các màu sắc ấy đang được tắm mình trong màu vàng nhạt của ánh trời chiều sắp tắt. Sự hòa phối tinh tế của màu sắc khiến bức tranh tươi sáng, tràn đầy nhựa sống hơn.

     Không chỉ dừng lại ở cảm nhận thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận thiên nhiên bằng thính giác, với các từ láy giàu giá trị biểu cảm: âm thanh lao xao của người mua kẻ bán tấp nập, rộn ràng, náo nhiệt. Cho thấy cuộc sống phồn vinh, no đủ của người dân; âm thanh dắng dỏi chính là do tiếng ve tạo nên bản đàn rộn ràng. Biện pháp đảo cấu trúc, từ láy tượng thanh được đảo lên vị trí đầu câu “lao xao”, “dắng dỏi” để nhấn mạnh vào sự náo nhiệt ấy. Thiên nhiên tràn trề sức sống vào thời điểm cuối ngày. Ngoài ra ông còn cảm nhận thiên nhiên bằng khứu giác và thính giác. Đó là hương thơm nồng nàn, ngát hương mà dịu dàng lan tỏa trong khắp không gian của hoa sen.

     Để làm nổi bật vẻ đẹp của bức tranh ngày hè, Nguyễn Trãi đã vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật. Nghệ thuật đảo ngữ: lao xao, dắng dỏi nhấn mạnh làm bật lên không khí đông vui của cuộc sống. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình, sử dụng thành công từ tượng hình, động từ. Kết cấu bài thơ có sự biến đổi khiến cho bài thơ luôn có sự mới mẻ về tiết tấu, nhịp điệu.

     Với tình yêu thiên nhiên nồng nàn mà tinh tế, tác giả đã cảm nhận đầy đủ nhất những vẻ đẹp thiên nhiên nơi làng quê thanh bình. Thiên nhiên qua cảm nhận của Nguyễn Trãi trở nên vô cùng sống động, tất cả mọi sự vật hiện tượng có sự hài hòa tuyệt đối giữa màu sắc, đường nét, âm thanh và ánh sáng. Qua những cảm nhận tinh tế, nhạy cảm ấy ta thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết, sâu nặng của ông.

Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về bức tranh thiên nhiên mùa hè trong bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

Bài văn mẫu

   Nguyễn Trãi (1380 – 1442), vị anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê” (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

   Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

   Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

   Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thở như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

   Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hòe buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ đùn đùn, vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ rợp. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

   Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

   Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi dã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn, cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mĩ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã chung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi trong bài thơ Cảnh ngày hè

Bài văn mẫu

   Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

   Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hè” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

    Lao xao chợ cá làng Ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

   Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

   Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

   Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

   Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề – Thực – Luận – Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:

    “Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”

   Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.

   Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

Đề bài: Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè: Nguyễn Trãi là người văn võ toàn tài, có tâm trong sáng. Cảnh ngày hè là bài thơ số 43 trong chùm “bảo kính cảnh giới” của Quốc âm thi tập.

– Khát quát vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ: Yêu thiên nhiên tha thiết, gắn bó với cuộc sống của người dân quê, yêu nước thương dân luôn suy tư về hạnh phúc của nhân dân.

I.. Thân bài

1. Nguyễn Trãi – một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết.

– Bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè được Nguyễn Trãi vẽ lên rất sinh động

     + Cảnh vật gần gũi, quen thuộc của mùa hè: Lá hòe, hoa thạch lựu, hoa sen.

     + Cảnh vật rực rỡ, nổi bật, sinh động: Thông qua việc dùng những gam màu nóng để miêu tả cảnh vật lục, đỏ, hồng.

     + Cảnh vật căng tràn sức sống, sự sinh sôi cuộn trào toát ra từ trong lòng cảnh vật: Sử dụng các động từ mạnh “phun”, đùn đùn” để diễn tả những trạng thái, sức sống tràn trề của cảnh vật.

     + Cảnh vật tinh tế, tao nhã với hương thơm: Mùi hương nồng nàn của hoa sen cuối mùa.

→ Bứa tranh thiên nhiên cuối mùa hạ nhưng không tàn úa, héo nát mà ngược lại vô cùng rực rỡ, sinh động, giàu sức sống.

– Tâm hồn Nguyễn Trãi:

     + Phải vô cùng yêu và say mê cảnh sắc thiên nhiên nên Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến thế.

     + Nguyễn Trãi có tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm

2. Nguyễn Trãi – một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê.

– Bức tranh cuộc sống sôi động, phong phú

     + Hình ảnh cuộc sống quen thuộc: chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương

     + Âm thanh cuộc sống: Tiếng lao xao của chợ cá, tiếng ve kêu dắng dỏi. Đó là những âm thanh của một cuộc sống nhộn nhịp, vui tươi, sôi nổi, tấp nập

     + Cách sử dụng từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống.

– Tâm hồn Nguyễn Trãi:

     + Nguyễn Trãi yêu cảnh sắc của làng quê, yêu cuộc sống nơi thôn quê

     + Ông quan tâm đến cuộc sống của người dân quê lam lũ thì mới có thể để tâm, lắng nghe được những âm thanh đó.

3. Nguyễn Trãi – một tâm hồn nặng lòng với dân với nước

– Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện triết lí sống “nhàn”:

     + Rồi: rỗi rãi, thảnh thơi

     + “Hóng mát thuở ngày trường”: Hoạt động thư thái, tự do tự tại

→ Tâm hồn thảnh thơ, nhàn tản, vô lo vô nghĩ

– Kết thúc bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện tâm sự của mình:

     + Điển tích điển cố “Ngu cầm”: Gợi về triều đại vua Nghiêu, Thuấn – thời kì nhân dân được hưởng ấm no, thái bình.

→ Niềm vui sướng, hạnh phúc của Nguyễn Trãi khi được sống ở quê hương với những người dân thôn dã.

→ Thể hiện ước muốn có được cuộc sống no đủ, hạnh phúc trên quê hương ông. Đó là khát khao của một người con luôn suy tư, trăn trở, một lòng hướng về quê hương

     + Ước mơ của Nguyễn Trãi: “Dân giàu đủ khắp đòi phương”

→ Không chỉ khát khao về cuộc sống hạnh phúc, no đủ trên quê hương ông, Nguyễn Trãi còn mong muốn cuộc sống ấy có ở khắp nơi trên cả nước.

→ Tấm lòng vì nước thương dân, lo nghĩ cho vận mệnh dân tộc

⇒ Dù ở những phút thanh nhàn hiếm có của cuộc đời nhưng Nguyễn Trãi vẫn nặng lòng với dân với nước, nhàn thân chứ không nhàn tâm.

4. Nghệ thuật

– Sử dụng lớp từ Hán Việt kết hợp với thuần Việt

– Các biện pháp nghệ thuật: sử dụng từ láy, liệt kê, phép đảo trật tự cú pháp

– Sử dụng điển tích điển cố

– Cách tả tự nhiên, kết hợp giữa gợi và chi tiết.

I.I. Kết bài

– Khái quát những vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ

– Liên hệ: So sánh với những thi nhân cùng đồng điệu tâm hồn với nguyễn Trãi tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”.

Đề bài: Phân tích Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ Cảnh ngày hè.

Bài văn mẫu

     Nguyễn Trãi nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, phong phú. Qua hệ thống tác phẩm phong phú người đọc đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn nhân cách của Nguyễn Trãi. Vẻ đẹp tâm hồn đó được thể hiện trong nhiều bài thơ, và ta không thể không nhắc đến bài Cảnh ngày hè. Tác phẩm đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc và hơn hết là tấm lòng lo cho dân, cho nước ngay cả trong lúc rảnh rỗi cũng không thôi cháy bỏng.

     Trước hết, Nguyễn Trãi là người có lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, vẻ đẹp tâm hồn đó ẩn sau bức tranh thiên nhiên mùa hè rực rỡ màu sắc và ngập tràn sức sống. Tình yêu được thể hiện ngay trong câu thơ mở đầu :

    Rồi hóng mát thuở ngày trường.

     Nguyễn Trãi hiện lên trong tâm thế thảnh thơi, thư thái trước tiên nhiên. Đây là một trong những ngày nhàn rỗi hiếm hoi trong suốt cả cuộc đời bộn bề công việc của ông. Chính trong khoảnh khắc nhàn tản ấy ông dành cho thiên nhiên, hòa mình vào vạn vật. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc của ông.

     Không chỉ vậy, tình yêu thiên nhiên còn thể hiện ở cách cảm nhận thiên nhiên, cuộc sống hết sức tinh tế. Năm câu thơ tiếp, Nguyễn Trãi hiện lên là một người có tâm lòng tha thiết yêu thiên, cuộc sống :

    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

     Ông đã rộng mở tâm hồn mình, vận dụng tất cả các giác quan để cảm nhận những chuyển động tế vi nhất của vạn vật xung quanh. Bằng thị giác, nhà thơ ngắm nhìn màu sắc của thiên nhiên: xanh của hoa hòe, đỏ của hoa lựu và ánh nắng đã nhạt của trời chiều. Bằng thính giác, bằng tất cả sự tinh tế ông lắng nghe tiếng ve ngân – thứ âm thanh đặc trưng của mùa hè, từng đàn ve ngân vang khúc ca mùa hạ; không chỉ vậy còn là tiếng “lao xao” của cuộc sống, của những làng chài. Ngoài ra, ông cảm nhận bằng khứu giác, những đóa sen ngát hương, một thứ hương thơm thanh nhã, cao sang ngập đầy trong không gian.

     Bằng những cảm nhận hết sức tinh tế, tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt. Nếu không có tình yêu thiên nhiên, có lẽ ông đã không cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên sâu sắc đến vậy, không thể lắng nghe, đồng điệu với niềm vui cuộc sống ấm no, yên bình của những người dân quê.

     Trong giây phút đắm say trước vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống thanh bình, ấm no, nhân cách của một con người hết lòng vì nước lại được một lần nữa thể hiện qua hai câu thơ kết bài:

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương.

     Tình yêu thiên nhiên, yêu đời của ông luôn gắn bó mật thiết với lòng yêu nước, thiết tha với nhân dân. Đọc thơ Nguyễn Trãi, cũng như trong chính cuộc đời ông, ta hiếm khi thấy ông thực sự có được phút giây nhàn nhã, thanh thản. Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Ở đây, Ức trai tự dành cho mình quyền “rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, bởi mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc”.

     Câu lục ngôn kết lại bài thơ, ngắn gọn nhưng hàm súc, giàu ý nghĩa. Mong ước của Nguyễn Trãi thật giản dị mà vô cùng cao quý. Tác giả mong muốn có được cây đàn của vua Ngu Thuấn để gảy khúc Nam phong ca ngợi cuộc sống thái bình. Đồng thời ông cũng mong muốn triều đại của chúng ta cũng giống triều đại vua Ngu Thuấn thái bình, người dân của triều đại chúng ta cũng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đủ đầy. Suốt cuộc đời Nguyễn Trãi, ông luôn mong cho dân ấm no, hạnh phúc, khát vọng ấy cho thấy tấm lòng ưu ái với dân, với nước trong con người Ức trai. Điều này ông đã nhiều lần tâm sự trong các bài thơ:

    “Bui có một lòng âu việc nước

    Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ trung”.

    “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn

    Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”.

     Cảnh ngày hè đã việt hóa thơ Đường một cách sáng tạo và điêu luyện, kết tinh ở câu lục ngôn cuối bài, ngắn gọn, hàm súc mà giàu ý nghĩa. Ngôn ngữ giản dị, dùng nhiều từ Việt cổ, từ ngữ dân dã, dễ hiểu. Sử dụng linh hoạt các động từ, từ tượng thanh diễn tả thiên nhiên và cuộc sống con người. Hình ảnh thơ sống động, phong phú.

     Qua bài thơ ngắn gọn, hàm súc ta không chỉ thấy một Nguyễn Trãi có tình yêu thiên nhiên với những cảm nhận hết sức tinh tế về thế giới xung quanh. Mà nổi bật hơn, đẹp đẽ hơn tính là tâm lòng ưu ái, luôn ngày đêm lo cho dân cho nước. Điểm kết tụ trong thơ Nguyễn Trãi là vì dân, cho dân. Cả cuộc đời ông cống hiến cũng chỉ cho nhân dân.

Đề bài: Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Trãi đã hiện ra như thế nào trong hai câu kết của bài thơ Cảnh ngày hè?

Bài văn mẫu

   Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muôn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

   Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng minh theo triết lí nhà Nho “độc thiện kì thân”, ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu – xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

   Bảo kính cảnh giới – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ của ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

Bài văn mẫu

   “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một bầu không gian lưu trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo kính cảnh giới” chứa đựng những nét độc đáo, thấp thoáng niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là “Cảnh mùa hè”.

   Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

   Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

   Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

    “Hòe lục đùn đùn. tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

   Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời… .

   Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

   “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tinh cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

   “Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

   Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sông thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Đề bài: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.

Bài văn mẫu 1

   “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một bầu không gian lưu trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo kính cảnh giới” chứa đựng những nét độc đáo, thấp thoáng niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là “Cảnh mùa hè”.

   Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

   Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

   Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

    “Hòe lục đùn đùn. tán rợp giương

    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

   Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời… .

   Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

   “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tinh cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

    Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

   “Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

   Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sông thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Bài văn mẫu 2

   Thơ Quê Hương của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói nhiều đến sự an phận, trầm tĩnh của một con người hành ít tàng nhiều, cuộc đời hầu như gắn liền với thôn dã. Nguyễn Du hẳn trong tâm trí người đọc nỗi đau day dứt, của kẻ xa quê, lênh đênh góc bể chân trời. Thơ Nguyễn Trãi khác hẳn. Con người anh hùng đó, dù buồn phiền, chán nản cho sự nghiệp kinh bang tế thế không trọn vẹn vẫn không nhìn quê hương, nơi dừng chân cuối cùng của đời mình, như một lồng sắt giam lỏng cánh chim bằng. Tấm lòng ông đối với quê hương bao giờ cũng chân thành, hồn hậu, trầm lắng nhưng mãnh liệt. Nguyễn Trãi hội nhập rất nhanh vào đời sống thôn dã tĩnh lặng. Ông không bức bối, buồn phiền nhiều mà còn rất vui, rất tự hào khi thốt lên: Quê cũ nhà ta thiếu của nào (Mạn thuật 13), khi gọi mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông là bạn, khi cho rằng dòng suối ở Côn Sơn là nơi có thể giúp mình gột rửa hết mọi vẩn đục của cuộc đời quan trường. Cái “tâm” của nhà thơ bao giờ cũng trong sáng, vững chãi trước đổi thay dâu bể. Bài Bảo kính cảnh giới 43 là một ví dụ tiêu biểu cho cái “tâm” đó.

   Những năm tháng cuối đời là chặng đường đầy gian khổ, thử thách đổi với Nguyễn Trãi. Sự nghiệp củng cố, xây dựng triều đình nhà Lê của ông chưa được thực hiện trọn vẹn. Chốn triều đình đầy hiềm thù, nghi kị. Nơi thôn dã Côn Sơn chỉ là chỗ dừng chân bắt buộc đối với một con người khát khao cống hiến đời mình cho đất nước, dân tộc như Nguyễn Trãi. Thế nhưng, trong thơ ông, bao giờ ta cũng bắt gặp một phong thái ung dung, tự tại, một trái tim yêu đời, yêu người luôn rộng mở, nhạy cảm. Chính nhịp điệu của câu thơ đầu tiên trong Bảo kính cảnh giới 43 giúp ta nhận ra phong thái rất riêng đó: Rỗi hóng mát thuở ngày trường.

   Nhịp cắt của câu thơ gợi từng bước đi khoan thai, đĩnh đạc, đầy tự tin và tâm thế nhẹ nhõm, thoải mái của Nguyễn Trãi. Con người đó, tuổi đã cao, thảnh thơi, tự hào, thỏa mãn về sự nghiệp mà mình thực hiện được thời trai trẻ, giờ thì tạm rỗi rảnh, thong dong hóng mát, hòa mình vào cảnh đẹp, vào cuộc đời để thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Phong thái ung dung này hiện diện trong rất nhiều câu thơ khác của Nguyễn Trãi. Nhà thơ Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay (Mạn thuật), Thưởng mai về đạp bóng trăng (Ngôn chí 15), ngồi trên thuyền dạo chơi trong cái thế hứng khởi của gió, của trăng:

    “Mái thác trăng dường thế hứng

    Buồn nhân gió mặc khi phiêu”

(Tự thuật 31)

   Đó là tính cách riêng của Nguyễn Trãi, một người luôn chủ động, tự tin trước mọi hoàn cảnh dù khó khăn buồn phiền nhất mà quả thật là ông đang buồn phiền! Cái thuở ngày trường được nhấn mạnh ở đây không hẳn chỉ là để xác định khoảng thời gian mùa hè như một hiện tượng địa lí. Nó là khoảng thời gian tâm tưởng. Nó bị chi phối bởi cảm giác, bởi nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ trong hoàn cảnh bị bắt buộc ở ẩn. Vì là những ngày tháng vô vị, chờ đợi nên nó thăm thẳm, dằng dặc, nó dài một cách khác thường! Dù vậy, với bản lĩnh, nghị lực mạnh mẽ của mình nhà thơ vẫn có thể bình tĩnh, thoải mái trong cái tư thế của một người thưởng ngoạn. Phẩm chất đẹp đẽ đó chỉ có thể được hình thành trong quá trình vượt qua bao nỗi thăng trầm gian nan của một người anh hùng.

   Màu xanh lục của cây hòe xum xuê cành lá được nhấn mạnh ngay ở câu thứ 2 và đó là cái nền màu chủ yếu trong bức tranh hè của Nguyễn Trãi. Nó đập vào mắt người đọc đầu tiên bằng ấn tượng mãnh liệt của một màu xanh đậm đặc, của một sức sống đang đùn lên, che mát của một khoảng sân. Có thể cảm nhận được sức sống đó bằng hai từ có mối liên hệ tăng tiến được dồn vào một câu thơ: đùn đùn, rợp. Cảm giác về cái gay gắt của nắng hè không còn nữa, cái rực rỡ của nắng chỉ làm cho màu xanh lục thêm tươi tắn, lóng lánh. Dùng gam màu lạnh mà vẫn tạo cảm giác ấm cúng, sảng khoái bởi lẽ Nguyễn Trãi đă chấm phá trên liền màu ấy những bông hoa lựu đỏ thẫm chợt bật lên bằng một từ phun giàu sức gợi tả và cũng nằm trong mối quan hệ với hai từ độc đáo ở câu trên. Sự tương phản giữa màu đỏ của lựu và màu xanh của hòe tạo tiếp một ấn tượng mới mẻ về sự vận động của màu sắc, sự sống mãnh liệt của hoa lá. Chúng tranh nhaụ đùn ra, phùn ra tạo một cảm giác choáng ngợp! Hồ Xuân Hương cũng là một nhà thơ nổi tiếng với tài sử dụng màu sắc tương phản gay gắt mà sống động lạ thường: Cửa son đỏ loét bùm bum nóc – Bật đá xanh rì lún phún rêu (Đèo Ba Dội), hay Một trái trăng thu chín mõm mòm – Nảy vừng quê đỏ, đỏ lòm lom (Hỏi trăng 1). Đó là thứ màu không nhàn nhạt như thuốc nước mà đậm đặc, thô ráp ấn tượng chân thật và có sức tác động mạnh mẽ.

   Từ mơ ước đó, ta thấy được cái tâm trong sáng, chân thành luôn chan hòa trong những bài thơ viết về quê hương của Ưc Trai.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Action: Post ID: Post Nonce: ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Processing your rating... Đánh giá trung bình {{avgRating}} / 5. Số lượt đánh giá: {{voteCount}} {{successMsg}} {{#errorMsg}} {{.}} {{/errorMsg}} There was an error rating this post!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1164

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

Từ khóa » Câu Thơ Rồi Hóng Mát Thuở Ngày Trường Thể Hiện Tâm Trạng Của Nhà Thơ