[Sách Giải] Văn Mẫu: Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Xem thêm các sách tham khảo liên quan:

  • Sách giáo khoa ngữ văn lớp 11 tập 1
  • Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11
  • Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11 (Ngắn Gọn)
  • Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 11 (Cực Ngắn)
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Tập 1
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Tập 2
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Nâng Cao Tập 1
  • Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 11 Nâng Cao Tập 2
  • Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 11 Tập 2

Đề bài: Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

I. Mở bài

– Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu: một tác giả mù nhưng nhân cách vô cùng cao đẹp, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc và “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng)

– Đôi nét về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc

II. Thân bài

1. Phần lung khởi: khái quát bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ

    + “Hỡi ôi!”: Câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương tiếc

    + “ Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân

    + “ Lòng dân trời tỏ” : đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ⇒ Trời chứng giám

– NT đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao.

⇒ Lời khẳng định tuy thất bại những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi.

2. Phần thích thực: Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc

a. Nguồn gốc xuất thân

– Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống)

    + “ cui cút làm ăn ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa

– NT tương phản “ chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.

⇒ tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng

b. Lòng yêu nước nồng nàn

– Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.

⇒ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ

– Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ

– Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”

c. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân

– Tinh thần chiến đấu tuyệt với: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

– Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử.

– Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu quan hai nọ”

-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi

⇒ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

3. Phần Ai vãn: Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ

– Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành

– Hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, chia lìa, gợi không khí đau thương, buồn bã sau cuộc chiến.

– Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đau đớn cho tác giả, gia đình thân quyến, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả

⇒ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử

⇒ Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân.

4. Phần kết: ca ngợi linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ

– Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi

– Ông cũng nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân

– Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng thất thế.

⇒ khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.

III. Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm

– Trình bày suy nghĩ bản thân

Đề bài: Phân tích tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

    Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó ta không thể không nhắc đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giờ, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ đã không nề hà sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.

    Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm ăn” với biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết đến nơi làng quê nghèo, mà chưa từng biết đến thế giới ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân ấy bận rộn với công việc nhà nông: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng khi giặc xâm lược đến bờ cõi, đến sự bình yên vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác của kẻ thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Đến lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu ban đầu trong những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội “như trời hạn trông mưa” thì đến đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về kẻ thù – những kẻ đi xâm lăng thì không có lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật oai phong, lẫm liệt đầy dũng khí.

    Trong trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ: “đạn nhỏ đạn tỏ” “tàu đồng súng nổ”. Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước uy lực của kẻ thù. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất.

    Nhưng vũ khí hiện đại của kẻ thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh anh dũng của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận của người nhà, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của kẻ thù. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc đến những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương trước những người đã mất mà còn khẳng định những điều bất tử với thời gian và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng không phải là bi lụy, yếu đuối.

    Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa thể hiện được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong sự so sánh ngầm với triều đình.

    Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, chi tiết, sinh động, lần đầu tiên người nông dân được xuất hiện đầy đẹp đẽ, trang trọng đến vậy. Kết hợp hài hoà các chi tiết thể hiện tình cảm cảm xúc của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.

    Bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sinh bất khuất của họ.

Đề bài: Phân tích tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu

“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường…con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng” đó là lời nhận xét của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ mù lòa nhưng tâm ông vẫn luôn sáng. Nhắc đến ông người ta không quên nhắc đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự xót thương, cảm phục của tác giả dành cho những người nông dân_nghĩa sĩ Cần Giuộc anh dũng, quả cảm quên mình vì nước. Để phân tích bài văn một cách bao quát và độc đáo nhất ta chọn con mắt nhìn và điểm nhìn từ tinh thần yêu nước của người nông dân.

Những người nông dân họ vốn là những con người thuần phác của nhà nông nhưng nay vì lòng yêu nước thương nòi, lòng căm thù giặc sâu sắc mà họ trở thành những chiến binh anh dũng đã hy sinh trong trận chiến rằm tháng 11 năm 1861 _ thời điểm cam go của những ngày đầu chống Pháp.

Tại vì sao mà lại như vậy? Bởi “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng khái quát được hoàn cảnh, tình thế của đất nước lúc bấy giờ. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta chúng đánh chiếm, thi hành những chính sách áp bức bóc lột nặng nề đẩy nhân ta vào cảnh lầm than cùng cực. Câu văn trên đã cho ta thấy sự dã man của thực dân. Chúng có vũ khi tối tân, sức công phá dữ dội, súng nổ vang rền mặt đất. Điều đó khiến cho ta nhớ tới tội ác của giặc Pháp được nhà thơ tố cáo trong bài “Chạy giặc”:

    “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây

    Một bàn cờ thế phút sa tay

    Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

    Mất ổ bầy chim dáo dác bay

    Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước

    Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”

Tiếng súng vô tâm vô tình của quân giặc không bỏ sót một ai, không trừ một cảnh vật nào. Tất cả trở nên hoang tàn, xơ xác, lũng loạn sau “tiếng súng Tây”. Giặc thì như vậy chúng hiện đại hơn ta rất nhiều về trang thiết bị, về vật chất, số lượng binh lính còn ta chỉ có một tấm lòng, một truyền thống yêu nước mãnh liệt của người nông dân, của những con người Việt Nam. Nghệ thuật tiểu đối được sự dụng rất thành công đối rất chỉnh, rất chuẩn: Mười năm <> một trận, công (vật chất)<> nghĩa (tinh thần), chưa ắt còn danh nổi như phao<> tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định tinh thần quyết tâm đánh giặc, làm nền để người nông dân xuất hiện. Tiếng khóc “hỡi ôi” quen thuộc mở đầu cho bài tế. Tiếng khóc lớn bày tỏ nỗi niềm đau xót, khóc thương cho linh hồn của những nghĩa sĩ đã hy sinh oanh liệt.

Nhà thơ đã hồi tưởng và khắc họa lại hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc_những người nông dân thuần phác thôn quê có một tinh thần yêu nước quật khởi với cụm từ “Nhớ linh xưa”. Trước tiên họ là con người của ruộng đồng, của nông nghiệp, lam lũ mưu sinh “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” đúng như Hoài Thanh nhận xét “Biết bao yêu thương trong một chữ cui cút”. Nhà thơ bày tỏ lòng thương cảm đối với con người hiền lành, dáng dấp vất vả đến tội nghiệp. Họ là những con người chất phác, thuần nông ngoài việc đồng áng “chỉ biết ruộng trâu”, không gian giao tiếp bó hẹp “ở trong làng bộ” với công việc của nhà nông “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Nào họ có biết chi đến việc binh đao, giáo mác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung” rồi “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Biết bao cái chưa biết ấy thế mà khi giặc xâm lăng nhũng nhiễu, triều định chống cự yếu ớt họ can đảm bỗng chốc trở thành những người nghĩa sĩ anh hùng cứu nước.

Lúc đầu họ cũng trông cũng mong vào sự phản công của triều đình. Nhưng trước bối cảnh nguy kịch, triều đình bạc nhược để cho con dân của mình thốt lên “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Điển tích “tiếng phong hạc” lấy ở câu “Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh” để chỉ nỗi lo âu, hồi hộp, sợ hãi trước sự tấn công hung bạo của kẻ thù. Là con là dân họ chỉ biết mong chờ vào quan phụ mẫu của mình mong cho đất nước được bình yên để họ an tâm lập ngiệp nhưng chỉ là mòn mỏi trong chờ đợi mươi tháng vời vợi. Và tất nhiên họ không thể dương con mắt nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Trước đó họ chỉ ghét chúng bởi “mùi tinh chiên vấy vá” tức chỉ mùi hôi tanh của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất độc đáo “ghét thói mọn như nhà nông ghét cỏ”. Đó là một cái lẽ tự nhiên. Cách dùng từ thật sáng giá phù hợp tâm lí và suy nghĩ của người nông dân. Sự căm ghét được đẩy lên mức độ cao hơn khi “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói chạy đen sì” mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Sự nhức nhối đến tận cùng, sự căm thù đến tột độ phải đến câu sau mới lên đến đỉnh cao “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Điển tích, điển cố, từ ngữ Hán Việt đặc biệt thành ngữ “treo dê bán chó” được tập trung để thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc, con mắt tinh tường của nhân dân. Mặt nạ “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc Pháp bị bóc trần phơi bày dã tâm cướp nước ta của chúng.

Truyền thống và tinh thần của dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ đứng lên đấu tranh với tất cả tấm lòng của người con Việt. Nhà thơ cảm phục trước tinh thần và việc làm của họ điều đó đối lập hoàn toàn với thực lực của người nông dân. Họ không đợi ai đòi ai bắt mà tự nguyện chiến đấu “phen này ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ” hàng loạt các động từ vị ngữ chỉ hành động thể hiện quyết tâm hăm hở, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” chiến đấu khi trong tay là những vật dụng thô sơ, là những công cụ lao động thường ngày của nhà nông là manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay… Họ không phải dòng dõi nhà binh, không được tập luyện, không có tổ chức, không có hiệu lệnh, đội ngũ, kỷ luật, vũ khí lại thô sơ. Chính những “cái không” ấy làm nổi bật lên “cái có” vô giá tiềm ẩn trong con người Cần Giuộc. Bởi họ có ý thức quyết tâm đánh giặc, có một tinh thần yêu nước không đổi, có một lòng căm thù giặc đến vô cùng. Điều đó đã làm nên sức mạnh vô song để họ đạp rào lưới tới, coi giặc cũng như không, không sợ đạn to đạn nhỏ mà liều mình xông vào như chẳng có, rồi kẻ đâm gang, người chém ngược làm cho quân giặc khiếp sợ. Giọng điệu hào hùng, sục sôi qua cách ngắt nhịp, nhịp điệu gấp, dồn dập cùng với những động từ mạnh “đạp rào lưới tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược” và một giọng văn đanh thép, hùng tráng để thể hiện cái hiên ngang, quật cường với thái độ căm thù giặc như muốn ăn gan, uống máu quân thù.

Niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể hiện bằng cụm từ mở đầu “Khá thương thay” ở đoạn ba. Sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bày tỏ lòng xót thương và lời cầu nguyện của người đứng tế. Giọng điệu bi ai trùng xuống đến thống thiết đau buồn. Tác giả thương xót cho những người dân phải chịu khó, chịu khổ “ăn tuyết nằm xương” làm “xiêu mưa ngã gió”. Ông khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc thà “về theo tổ phụ cũng vinh” chứ chẳng chịu khom lưng uốn gối làm nô lệ. Đằng sau tiếng khóc lớn, tiếng khóc ròng xót thương là mong muốn, ước nguyện của tác giả. Ông mong cho đất nước được thái bình, dân đen thoát cảnh lầm than cơ cực, mong cho dân tộc sạch bóng quân thù. Dù bị mù không thể ra trận chinh chiến nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân họp bàn bày mưu đánh giặc. Đến khi giặc đánh chiếm Nam Kì ông ở lại Ba Tri chúng ra sức dụ dỗ, mua chuộc ông nhưng con người kiên trung ấy khảng khái chối từ, giữ trọn tấm lòng son với dân tộc.

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn thành công nhất cho thể loại văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn đã có những đóng góp mới mẻ nền văn học dân tộc cùng với nghệ thuật đắt giá được sử dụng tài tình. Thứ nhất những đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần đầu tiên đi vào trong văn học với những nét thuần phác nhất có điệu bộ, dáng dấp, tính cách, cảm xúc và tình cảm rõ ràng. Đề tài gắn liền với thực tế mang tính thời sự lúc bấy giờ của đất nước. Đáng chú ý là sự chuyển biến của tư tưởng trung quân theo hướng gia tăng chất hiện thực, giảm bớt “khẩu khí” lí tưởng. Tác phẩm đã đưa văn học giai đoạn này trở thành vũ khí đấu tranh chống quân thù, chống tư tưởng đầu hàng và bọn phản động tay sai bán nước. Thứ hai là những thủ pháp nghệ thuật đắt giá được sử dụng thàng công. Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. Từ ngữ biểu cảm trực tiếp, gọi tên các trạng thái đa dạng như buồn thương, sầu tủi khi thì tự hào. Hệ thống các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: Cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ,…Ngôn ngữ bình dị, đậm màu sắc thôn dã của vùng đất Nam Bộ: Cui cút, vấy vá, rơm con cúi, dao phay…. Kết hợp tài tình những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng như: Tiếng phong hạc, mùi tinh chiên, mối xa thư, chém rắn đuổi hươu… Nghệ thuật tiểu đối đặc trưng của thể loại văn tế được thể hiện rõ nét qua các câu văn cùng với kết cấu ngôn ngữ phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/ chẳng qua/chẳng đợi/không chờ…” nghệ thuật tương phản hai cấp độ được sử dụng thành công là “Hỏa mai…gươm đeo…/ Chi nhọc quan quản…chẳng sợ thằng Tây…/ Kẻ đâm ngang… bọn hè trước…súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sôi khi diễn tả cái hiên ngang, lúc thì bi ai, thống thiết khi nói về sự mất mát, đau buồn.

Chính những điều đó đã khắc họa được hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc_những con người anh dũng dám hy sinh vì nghĩa lớn với một lòng nồng nàn yêu nước “Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Tinh thần ấy, con người ấy trở thành hình tượng đẹp, đáng nể phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước khi thực dân Pháp xâm lược thơ văn của Đồ Chiểu chủ yếu là thể loại truyện thơ dài với nhân vật tiêu biểu là Lục Vân Tiên để truyền bá đạo lí và tư tưởng làm người thì ở giai đoạn sau năm 1858 thơ văn Đồ Chiểu là lá cờ đầu cho văn thơ chống Pháp đầu thế kỉ XIX, cổ vũ lòng yêu nước. Bài văn tế đã góp phần để Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng thực sự tỏa sáng theo cách của riêng mình trong bầu trời văn nghệ của dân tộc.

Đề bài: Cảm nhận tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.

DÀN Ý

Xuất xứ

   Cần Giuộc thuộc Long An. Trận Cần Giuộc là một trận đánh lớn của quân ta, diễn ra đêm 14 tháng 12 âm lịch (1861). Hơn 20 nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Đồ Chiểu viết bài văn tế này. Ngay sau đó, vua Tự Đức ra lệnh phổ biến bài văn tế trong các địa phương khác.

Chủ đề

   Bài văn tế ca ngợi những nghĩa sĩ – nông dân sống anh dũng, chết vẻ vang trong sự nghiệp đánh Pháp để cứu dân, cứu nước.

Hình ảnh người nghĩa sĩ

Nguồn gốc

   Nông dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Chất phác hiền lành:

    “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

    Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”.

Tâm hồn

   Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, “đâu dung lũ treo dê bán chó”. Căm thù quyết không đội trời chung với giặc Pháp:

    “Bữa thấy bòng bong che tráng lốp, muốn tới ăn gan;

    Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cẩn cổ”.

   Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm quân chiêu một”, “phen này xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hồ”.

Trang bị

   Không phải là lính chính quy của triều đình “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng có “bao tấu, bầu ngòi”. Họ chỉ là “dân ấp, dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc, Trang bị thô sơ, áo mặc chỉ là “một manh áo vải” vũ khí là một ngọn tầm vông, một lưỡi dao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”…

   Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu sắt, tàu đồng súng nổ”.

Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hi sinh

   Dũng cảm tiến công như vũ bão: “Đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước lù ó sau”.

   Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”.

   Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, “cũng chém rớt đầu quan hai nọ”, “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”.

   Hi sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”.

   Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lăng nước ta.

Tình cảm cao đẹp, tư tưởng tiến bộ

   “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.

    Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước của các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống xâm lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

   Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh (câu 18,25).

   Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chêt vinh còn hơn sông nhục. Không thể “theo quân tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.Trái lại, phải sống anh dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.

    Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc, tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử: “danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng một”, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm” …

   Tóm lại, lần dầu tiên trong nền văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu dã khắc họa và ngợi ca người nông dân Nam Bộ và những anh hùng thời đại đãi sống, chiến đấu và hi sinh vì đại nghĩa.

Nghệ thuật

   Ngôn ngữ bình dị như cách nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miều Nam. Các kiểu câu tứ tự, song quan, cách cú, gối hạc, câu nào cũng đặc sắc, hô ứng, đối chọi, cân xứng đẹp.

   Chất trữ tình kết hợp với chất anh hùng ca tạo nên màu sắc bi tráng.

   Hình tượng người chiến sĩ nghĩa quân dược khắc họa tuyệt đẹp trong tư thế lẫm liệt hiên ngang.

   Có thể nói “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng, la kiệt tác trong kho tàng căn tế cổ kim của dân tộc.

Đề bài: Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện thế nào khi xây dựng hình tượng người nông dân anh hùng trong bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”

   Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho bộ phận thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu. Lần đầu tiên người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm đã bước vào tác phẩm văn học Việt Nam với vẻ đẹp rực rỡ nhất.

   Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc của dân tộc khóc cho người nông dân anh hùng đã hi sinh trong chiến đấu đuổi giặc thù ra khỏi quê hương. Qua lếng khóc ấy, Nguyền Đình Chiểu đã xây dựng được tượng đài nghệ thuật mang tính bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Điều này tạo nên tinh thần nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu.

   Trước thất bại đau thương, người nông dân Cần Giuộc vẫn được tác giả tạo nên tầm vóc, tư thế hiên ngang, quả cảm.

   Người nông dân yêu nước được thể hiện trong vẻ đẹp rực rỡ của người nghĩa sĩ anh dũng cúu nước. Bỏi thế, dù họ lâm vào cảnh chết chóc bi thương nhưng vẫn ngời sáng vẻ đẹp hùng tráng, đậm chất sử thi.

   Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được tượng đài nghệ thuật bằng chính cuộc đời người nông dân yêu nước chống Pháp vốn chưa có trong văn học Việt Nam từ trước đến nay.

   Ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng.

    Đề cao phẩm chất của người nông dân: hiền lành, cần cù, giản dị, chất phác, gắn bó với mảnh ruộng làng quê, yêu cuộc sống hòa binh, không hề biết đến chuyện súng gươm.

   Ca ngợi nghĩa khí của người lao động trong thái độ căm thù quân giặc ngang ngược trắng trợn giày xéo quê cha đất tổ và thái độ thất vọng lo lắng của họ khi nhận thấy triều đình vô trách nhiệm bỏ rơi dân lành trước họa xâm lăng.

   Ca ngợi mục đích, động cơ chiến đấu của người nghĩa quân nông dân rất trong sáng và đúng dạo lí của người Việt Nam. Họ chiến đấu là để bảo vệ tấc đất, ngọn rau, vùa hương, bàn độc, của quê hương gia đình. Họ đi chiến đấu với ý thức rất cụ thể thiết thực của người nông dân Việt Nam.

   Ca ngợi tinh thần tự nguyện tham gia chiến đấu của người nông dân yêu nước. Vì nền độc lập của đất nước, vì nỗi tủi nhục mất nước nên họ đã từ những người nông dân hiền lành trở thành những con người đi chiến đấu vì đại nghĩa trở thành nghĩa binh, tự nguyện gánh vác việc đánh giặc cứu nước.

   Khẳng định vẻ đẹp của người nông dân: khi trở thànhi người nghĩa quân giữ nước thì tinh thần và lòng quyết tâm chiến đấu của họ cao cả vĩ đại. Lòng mến nghĩa cao độ đã giúp họ làm được những việc kinh thiên động địa, chiến đấu và hi sinh anh dũng.

   Yêu quý, trân trọng người lính nông dân ra trận nên tác giả đã miêu tả tinh thần chống Pháp của họ với khí thế mạnh mẽ, bất chấp hiểm nguy, họ đã hành động theo tiếng gọi của lòng yêu nước. Thể hiện điều này, Nguyễn Đình Chiểu dã dùng hàng loạt các động từ diễn tả dồn dập, liên tiếp, dứt khoát, cách ngắt nhịp ngắn gọn để miêu tả khí thế tiến công của người lính khi xung trận.

   Phát hiện ra vẻ đẹp của những người nông dân bình thường sống sau lũy tre xanh, vì nghĩa lớn đã trở thành người anh hùng, thành linh hồn của cuộc kháng chiến giữ nước. Họ trở thành nhân vật lí tưởng được mọi thời đại ca ngợi.

    Miêu tả nỗi đau thương, mất mát của những người đang sống trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

   Nỗi đau đớn, mất mát của những người ruột thịt, của quề hương, của thiên nhiên, đất nước trước sự hi sinh của nghĩa quân Cần Giuộc.

   Ca ngợi, tiếc thương bằng sự thương cảm xót xa. Nỗi tiếc thương thể hiện qua hình ảnh cỏ cây, đất trời đều nhuốm màu tang tóc, nghiêng đổ trước sự hi sinh vì đại nghĩa của những người nông dân.

   Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thực sự trở thành khúc ca bi tráng biểu hiệt tấm lòng ngưỡng mộ tiếc thương của cả dân tộc đối với người nông dân yêu nước. Tác giả đã viết về điều này bằng giọng văn xúc động, nghẹn ngào, đau đớn nhất.

    Ca ngợi, khẳng định quan điểm nhân sinh của người lính nông dân và khẳng định sự bất tử của nghĩa sĩ Cần Giuộc.

   Ca ngợi nghĩa quân có quan điểm sống chết đúng đắn, cao quý: Thà thác mà đặng câu địch khái…

   Vì đại nghĩa nên người nghĩa binh đã quên mình sẵn sàng hi sinh chiến đâu cho quê hương, đất nước trong mọi hoàn cảnh: Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc…

    Tiêc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng nhân dân.

   Lần đầu tiên người nông dân vì nghĩa được khắc sâu và phản ánh toàn diện trong văn học.

   Trước đây, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nói đến người nông dân trong sáng tác của mình nhưng còn chung chung, chưa cụ thể như những người dân ấp dân lân của Nguyễn Đình Chiểu.

   Trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái cũng có hình ảnh người lính “trung quân” dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Quang Trung chiến đấu cho sự độc lập tự do của đất nước nhưng vẫn mờ nhạt.

    Người lính nông dân của Nguyễn Đình Chiểu được phản ánh trong sự đơn phương đánh giặc, hi sinh vì nghĩa lớn nhưng bị triều đình bỏ rơỉ. Họ thất bại trong cuộc chiến đấu nhưng cái chết của họ lại là ngọn lửa yêu nước có tác dụng khơi nguồn cho các thế hệ sau nối tiếp đi lên.

   Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu dành cho người nông dân đã thể hiện lòng yêu nước, quan điểm chống Pháp đến cùng của tác giả.

   Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm bất hủ trường tồn với thời gian, với lịch sử dân tộc nhờ tấm lòng nhân đạo của nhà thơ với người nông dân yêu nước.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

I. Mở bài

– Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu: một tác giả mù nhưng nhân cách vô cùng cao đẹp, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc và “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng)

– Đôi nét về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc

II. Thân bài

1. Phần lung khởi: khái quát bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ

    + “Hỡi ôi!”: Câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương tiếc

    + “ Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân

    + “ Lòng dân trời tỏ” : đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ⇒ Trời chứng giám

– NT đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao.

⇒ Lời khẳng định tuy thất bại những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi.

2. Phần thích thực: Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc

   a. Nguồn gốc xuất thân

– Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống)

    + “ cui cút làm ăn ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa

– NT tương phản “ chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.

⇒ tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng

   b. Lòng yêu nước nồng nàn

– Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.

⇒ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ

– Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ

– Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”

   c. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân

– Tinh thần chiến đấu tuyệt với: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

– Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử.

– Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu quan hai nọ”

-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi

⇒ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

3. Phần Ai vãn: Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ

– Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành

– Hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, chia lìa, gợi không khí đau thương, buồn bã sau cuộc chiến.

– Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đau đớn cho tác giả, gia đình thân quyến, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả

⇒ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử

⇒ Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân.

4. Phần kết: ca ngợi linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ

– Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi

– Ông cũng nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân

– Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng thất thế.

⇒ khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.

III. Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm

– Trình bày suy nghĩ bản thân

    Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó ta không thể không nhắc đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giờ, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ đã không nề hà sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.

    Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm ăn” với biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết đến nơi làng quê nghèo, mà chưa từng biết đến thế giới ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân ấy bận rộn với công việc nhà nông: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng khi giặc xâm lược đến bờ cõi, đến sự bình yên vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác của kẻ thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Đến lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu ban đầu trong những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội “như trời hạn trông mưa” thì đến đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về kẻ thù – những kẻ đi xâm lăng thì không có lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật oai phong, lẫm liệt đầy dũng khí.

    Trong trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ: “đạn nhỏ đạn tỏ” “tàu đồng súng nổ”. Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước uy lực của kẻ thù. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất.

    Nhưng vũ khí hiện đại của kẻ thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh anh dũng của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận của người nhà, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của kẻ thù. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc đến những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương trước những người đã mất mà còn khẳng định những điều bất tử với thời gian và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng không phải là bi lụy, yếu đuối.

    Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa thể hiện được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong sự so sánh ngầm với triều đình.

    Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, chi tiết, sinh động, lần đầu tiên người nông dân được xuất hiện đầy đẹp đẽ, trang trọng đến vậy. Kết hợp hài hoà các chi tiết thể hiện tình cảm cảm xúc của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.

    Bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sinh bất khuất của họ.

   “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường…con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng” đó là lời nhận xét của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng dành cho cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ mù lòa nhưng tâm ông vẫn luôn sáng. Nhắc đến ông người ta không quên nhắc đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự xót thương, cảm phục của tác giả dành cho những người nông dân_nghĩa sĩ Cần Giuộc anh dũng, quả cảm quên mình vì nước. Để phân tích bài văn một cách bao quát và độc đáo nhất ta chọn con mắt nhìn và điểm nhìn từ tinh thần yêu nước của người nông dân.

   Những người nông dân họ vốn là những con người thuần phác của nhà nông nhưng nay vì lòng yêu nước thương nòi, lòng căm thù giặc sâu sắc mà họ trở thành những chiến binh anh dũng đã hy sinh trong trận chiến rằm tháng 11 năm 1861 _ thời điểm cam go của những ngày đầu chống Pháp.

   Tại vì sao mà lại như vậy? Bởi “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng khái quát được hoàn cảnh, tình thế của đất nước lúc bấy giờ. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta chúng đánh chiếm, thi hành những chính sách áp bức bóc lột nặng nề đẩy nhân ta vào cảnh lầm than cùng cực. Câu văn trên đã cho ta thấy sự dã man của thực dân. Chúng có vũ khi tối tân, sức công phá dữ dội, súng nổ vang rền mặt đất. Điều đó khiến cho ta nhớ tới tội ác của giặc Pháp được nhà thơ tố cáo trong bài “Chạy giặc”:

    “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây

    Một bàn cờ thế phút sa tay

    Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

    Mất ổ bầy chim dáo dác bay

    Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước

    Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”

   Tiếng súng vô tâm vô tình của quân giặc không bỏ sót một ai, không trừ một cảnh vật nào. Tất cả trở nên hoang tàn, xơ xác, lũng loạn sau “tiếng súng Tây”. Giặc thì như vậy chúng hiện đại hơn ta rất nhiều về trang thiết bị, về vật chất, số lượng binh lính còn ta chỉ có một tấm lòng, một truyền thống yêu nước mãnh liệt của người nông dân, của những con người Việt Nam. Nghệ thuật tiểu đối được sự dụng rất thành công đối rất chỉnh, rất chuẩn: Mười năm >< một trận, công (vật chất) >< nghĩa (tinh thần), chưa ắt còn danh nổi như phao >< tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định tinh thần quyết tâm đánh giặc, làm nền để người nông dân xuất hiện. Tiếng khóc “hỡi ôi” quen thuộc mở đầu cho bài tế. Tiếng khóc lớn bày tỏ nỗi niềm đau xót, khóc thương cho linh hồn của những nghĩa sĩ đã hy sinh oanh liệt.

   Nhà thơ đã hồi tưởng và khắc họa lại hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc_những người nông dân thuần phác thôn quê có một tinh thần yêu nước quật khởi với cụm từ “Nhớ linh xưa”. Trước tiên họ là con người của ruộng đồng, của nông nghiệp, lam lũ mưu sinh “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” đúng như Hoài Thanh nhận xét “Biết bao yêu thương trong một chữ cui cút”. Nhà thơ bày tỏ lòng thương cảm đối với con người hiền lành, dáng dấp vất vả đến tội nghiệp. Họ là những con người chất phác, thuần nông ngoài việc đồng áng “chỉ biết ruộng trâu”, không gian giao tiếp bó hẹp “ở trong làng bộ” với công việc của nhà nông “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Nào họ có biết chi đến việc binh đao, giáo mác “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung” rồi “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Biết bao cái chưa biết ấy thế mà khi giặc xâm lăng nhũng nhiễu, triều định chống cự yếu ớt họ can đảm bỗng chốc trở thành những người nghĩa sĩ anh hùng cứu nước.

   Lúc đầu họ cũng trông cũng mong vào sự phản công của triều đình. Nhưng trước bối cảnh nguy kịch, triều đình bạc nhược để cho con dân của mình thốt lên “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Điển tích “tiếng phong hạc” lấy ở câu “Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh” để chỉ nỗi lo âu, hồi hộp, sợ hãi trước sự tấn công hung bạo của kẻ thù. Là con là dân họ chỉ biết mong chờ vào quan phụ mẫu của mình mong cho đất nước được bình yên để họ an tâm lập ngiệp nhưng chỉ là mòn mỏi trong chờ đợi mươi tháng vời vợi. Và tất nhiên họ không thể dương con mắt nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Trước đó họ chỉ ghét chúng bởi “mùi tinh chiên vấy vá” tức chỉ mùi hôi tanh của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất độc đáo “ghét thói mọn như nhà nông ghét cỏ”. Đó là một cái lẽ tự nhiên. Cách dùng từ thật sáng giá phù hợp tâm lí và suy nghĩ của người nông dân. Sự căm ghét được đẩy lên mức độ cao hơn khi “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói chạy đen sì” mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Sự nhức nhối đến tận cùng, sự căm thù đến tột độ phải đến câu sau mới lên đến đỉnh cao “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Điển tích, điển cố, từ ngữ Hán Việt đặc biệt thành ngữ “treo dê bán chó” được tập trung để thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc, con mắt tinh tường của nhân dân. Mặt nạ “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc Pháp bị bóc trần phơi bày dã tâm cướp nước ta của chúng.

   Truyền thống và tinh thần của dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ đứng lên đấu tranh với tất cả tấm lòng của người con Việt. Nhà thơ cảm phục trước tinh thần và việc làm của họ điều đó đối lập hoàn toàn với thực lực của người nông dân. Họ không đợi ai đòi ai bắt mà tự nguyện chiến đấu “phen này ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ” hàng loạt các động từ vị ngữ chỉ hành động thể hiện quyết tâm hăm hở, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” chiến đấu khi trong tay là những vật dụng thô sơ, là những công cụ lao động thường ngày của nhà nông là manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay… Họ không phải dòng dõi nhà binh, không được tập luyện, không có tổ chức, không có hiệu lệnh, đội ngũ, kỷ luật, vũ khí lại thô sơ. Chính những “cái không” ấy làm nổi bật lên “cái có” vô giá tiềm ẩn trong con người Cần Giuộc. Bởi họ có ý thức quyết tâm đánh giặc, có một tinh thần yêu nước không đổi, có một lòng căm thù giặc đến vô cùng. Điều đó đã làm nên sức mạnh vô song để họ đạp rào lưới tới, coi giặc cũng như không, không sợ đạn to đạn nhỏ mà liều mình xông vào như chẳng có, rồi kẻ đâm gang, người chém ngược làm cho quân giặc khiếp sợ. Giọng điệu hào hùng, sục sôi qua cách ngắt nhịp, nhịp điệu gấp, dồn dập cùng với những động từ mạnh “đạp rào lưới tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược” và một giọng văn đanh thép, hùng tráng để thể hiện cái hiên ngang, quật cường với thái độ căm thù giặc như muốn ăn gan, uống máu quân thù.

   Niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể hiện bằng cụm từ mở đầu “Khá thương thay” ở đoạn ba. Sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bày tỏ lòng xót thương và lời cầu nguyện của người đứng tế. Giọng điệu bi ai trùng xuống đến thống thiết đau buồn. Tác giả thương xót cho những người dân phải chịu khó, chịu khổ “ăn tuyết nằm xương” làm “xiêu mưa ngã gió”. Ông khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc thà “về theo tổ phụ cũng vinh” chứ chẳng chịu khom lưng uốn gối làm nô lệ. Đằng sau tiếng khóc lớn, tiếng khóc ròng xót thương là mong muốn, ước nguyện của tác giả. Ông mong cho đất nước được thái bình, dân đen thoát cảnh lầm than cơ cực, mong cho dân tộc sạch bóng quân thù. Dù bị mù không thể ra trận chinh chiến nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân họp bàn bày mưu đánh giặc. Đến khi giặc đánh chiếm Nam Kì ông ở lại Ba Tri chúng ra sức dụ dỗ, mua chuộc ông nhưng con người kiên trung ấy khảng khái chối từ, giữ trọn tấm lòng son với dân tộc.

   “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn thành công nhất cho thể loại văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn đã có những đóng góp mới mẻ nền văn học dân tộc cùng với nghệ thuật đắt giá được sử dụng tài tình. Thứ nhất những đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần đầu tiên đi vào trong văn học với những nét thuần phác nhất có điệu bộ, dáng dấp, tính cách, cảm xúc và tình cảm rõ ràng. Đề tài gắn liền với thực tế mang tính thời sự lúc bấy giờ của đất nước. Đáng chú ý là sự chuyển biến của tư tưởng trung quân theo hướng gia tăng chất hiện thực, giảm bớt “khẩu khí” lí tưởng. Tác phẩm đã đưa văn học giai đoạn này trở thành vũ khí đấu tranh chống quân thù, chống tư tưởng đầu hàng và bọn phản động tay sai bán nước. Thứ hai là những thủ pháp nghệ thuật đắt giá được sử dụng thàng công. Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. Từ ngữ biểu cảm trực tiếp, gọi tên các trạng thái đa dạng như buồn thương, sầu tủi khi thì tự hào. Hệ thống các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: Cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ,…Ngôn ngữ bình dị, đậm màu sắc thôn dã của vùng đất Nam Bộ: Cui cút, vấy vá, rơm con cúi, dao phay…. Kết hợp tài tình những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng như: Tiếng phong hạc, mùi tinh chiên, mối xa thư, chém rắn đuổi hươu… Nghệ thuật tiểu đối đặc trưng của thể loại văn tế được thể hiện rõ nét qua các câu văn cùng với kết cấu ngôn ngữ phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/ chẳng qua/chẳng đợi/không chờ…” nghệ thuật tương phản hai cấp độ được sử dụng thành công là “Hỏa mai…gươm đeo…/ Chi nhọc quan quản…chẳng sợ thằng Tây…/ Kẻ đâm ngang… bọn hè trước…súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sôi khi diễn tả cái hiên ngang, lúc thì bi ai, thống thiết khi nói về sự mất mát, đau buồn.

   Chính những điều đó đã khắc họa được hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc_những con người anh dũng dám hy sinh vì nghĩa lớn với một lòng nồng nàn yêu nước “Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Tinh thần ấy, con người ấy trở thành hình tượng đẹp, đáng nể phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước khi thực dân Pháp xâm lược thơ văn của Đồ Chiểu chủ yếu là thể loại truyện thơ dài với nhân vật tiêu biểu là Lục Vân Tiên để truyền bá đạo lí và tư tưởng làm người thì ở giai đoạn sau năm 1858 thơ văn Đồ Chiểu là lá cờ đầu cho văn thơ chống Pháp đầu thế kỉ XIX, cổ vũ lòng yêu nước. Bài văn tế đã góp phần để Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng thực sự tỏa sáng theo cách của riêng mình trong bầu trời văn nghệ của dân tộc.

Đề bài: Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

I. Mở bài

– Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Một tác giả tiêu biểu của Nam Bộ. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại

– Khái quát chung về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm: Bài văn tế đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần giuộc, những người đã dũng cảm chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc

II. Thân bài

1. Nguồn gốc xuất thân của những người nông dân nghĩa sĩ

– Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống)

    + “ cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời

– NT tương phản: chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.

⇒ Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen (đồng ruộng) và chưa quen (chiến trận, quân sự) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh hùng trong đoạn sau.

⇒ Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương thiện, chính hoàn cảnh đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sĩ và cuối cùng là “nghĩa sĩ”

2. Người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với lòng yêu nước nồng nàn

– Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.

    + Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo sợ là chuyện bình thường

    + Sự chờ đợi “quan”: như “trời hạn trông mưa”

    +Thái độ đối với giặc: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ” ⇒ Thái độ căm ghét, căm thù đến tột độ được diễn tả bằng những hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực

– Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”

⇒ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ, chính lòng yêu nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm của “quan” đã khiến họ tự gisc,tự nguyện đứng lên chiến đấu

3. Người nông dân nghĩa sĩ cao đẹp bởi tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân

– Tinh thần chiến đấu tuyệt vời: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

– Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử ⇒ làm rõ nét hơn sự anh dũng của những người nông dân nghĩa sĩ

– Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu quan hai nọ”

-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi

– Sử dụng các động từ chéo “ đâm ngang, chém ngược” → làm tăng thêm sự quyết liệt của trận đánh.

⇒ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

4. Người nông dân nghĩa sĩ đáng kính trọng bởi sự hi sinh anh dũng

– Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành

    + “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”: cách nói tránh sự hi sinh của những ifn nghĩa sĩ

– Chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại

⇒ Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hi sinh sanh dũng xứng đáng đi vào sử sách

III. Kết bài

– Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công của hình tượng

– Lần đầu tiên trong lịch sử văn học tác giả đã dựng một tượng đài nghệ thuật về hình ảnh những người nông dân chống thực dân Pháp tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngoài đời

Đề bài: Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để làm nổi bật vẻ đẹp của hinh tượng những người nghĩa sĩ nồng dân yêu nước.

   Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.

    Hỡi ôi!

    Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..

   Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời đất.

   Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.

    Nhớ linh xưa:

    Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,

    Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;

    Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

    Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

    Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng

   Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan ” miếng cơm manh áo” giản dị dời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.

   Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trồng mưa”.

   Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:

    Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

    … Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.

   Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.

   Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.

    Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:

    Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

   Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với ” đạn nhỏ, đạn to”, “táu thiếc, tàu đồng” vứi đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có ” dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bàng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.

   Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đấu bằng chính tỉnh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.

   Chỉ với những vũ khí thô sơ như:

    Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,

    Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

    Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…

   Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.

   Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng nhữg người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc – họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

Đề bài: Cảm nhận hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù yêu nước có tấm lòng thương dân thương đời sâu sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị bên cạnh truyện thơ “Lục Vân Tiên” nổi tiếng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao trong sáng tác biểu hiện cao độ nhất tư tưởng yêu nước thương dân của tác giả. Với lòng khâm phục và cảm thương chân thành, nhà văn đã xây dựng tượng đài bất hủ về người nông dân_những con người chân chất mộc mạc lại mang trong mình nét đẹp của người hùng dân tộc tự nguyện đánh giặc và xả thân vì sự sống còn của đất nước.

Trước tiên họ là những người nông dân thuần phác nhà quê nông thôn. Những con người ấy chỉ “Cui cút làm ăn toan lo nghèo khó”, cuộc sống của họ chỉ bó hẹp ở trong làng bộ với công việc của người nhà nông với ruộng trâu, với “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Họ đầu tắt mặt tối lo làm lụng mưu sinh. Họ chỉ là những người dân ấp dân lân “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, họ cũng chẳng hay việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, không hề biết gì về việc quân, việc lính, việc binh đao chinh chiến. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc thật thuần phác với chất thôn quê, mộc mạc sống trong cái nghèo cái đói của người nhà nông.

Tuy nhiên họ lại mang trong mình vẻ đẹp của con người có tinh thần tự nguyện đánh giặc. Bởi khi giặc loạn nhũng nhiễu, triều đình chống cự yếu ớt, “tấc đất ngọn rau, miếng cơm manh áo” của họ bị cướp, lãnh thổ đất nước bị giặc xâm lăng. Vốn là con người của dân tộc có truyền thống yêu quê hương đất nước, đánh giặc ngoại xâm bao đời nay họ tự nguyện đánh giặc mà không cần đợi “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Tinh thần hăng hái, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ xung phong đánh giặc dù cho có khó khăn, gian lao và nguy hiểm là đoạn kình, bộ hổ tức chém cá kình, bắt hổ lớn. Giặc lúc này vô cùng hung hãn, số lượng lớn, vũ khí hiện đại hơn ta gấp trăm lần nhưng những người nông dân áo vải ấy không hề run sợ.

Người nông dân nghĩa sĩ anh dũng chiến đấu, quyết tâm xả thân vì nước. Dù cho giặc mạnh và hiện đại, dù cho biết trước sẽ hi sinh, dù cho ra trận chỉ với tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc nhưng họ không hề nao núng. Tinh thần ấy đẹp biết bao, đáng phục, đáng nể biết bao khi chỉ là những người dân nghèo khó lam lũ lại dám xông pha trận mạc như những người lính thực thụ nhưng ra trận chỉ với “manh áo vải” chẳng có bao tấu, bầu ngòi, dao tu hay nón gõ họ chiến đấu với vũ khí thô sơ, là công cụ lao động của nhà nông “trong tay cầm một ngọn tầm vông” rồi rơm con cúi và lưỡi dao phay…đem đối chọi với vũ khí hiện đại của quân thù.

Họ chiến đấu bằng trái tim đến hơi thở cuối cùng, họ trở thành bức tượng đài lí tưởng sừng sững trong lòng người dân Việt Nam với một khí thế đánh giặc mãnh liệt làm chủ trận chiến cam go. Bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh anh dũng của người nông dân trong phút công đồn được Đồ Chiểu khắc họa qua đoạn văn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đam ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trươc lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”. Hàng loạt các động từ mạnh, giới từ, nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, câu văn như bị ngắt ra thành vụn nhỏ khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ anh dũng liều mình xông vào xả thân vì nền độc lập dân tộc, tinh thần ấy làm cho lũ giặc phải kinh hồn bạt vía hoảng sợ. Có thể nói hình tượng người nông dân nghĩa sừng sững nổi bật trên nền trời đầy khói lửa làm nên bức tượng đài kì vĩ để lại dấu ấn khó quên trong lòng người dân Việt.

Hình tượng người nông dân bấy lâu đã xuất hiện trong văn chương như: “Dụ chư tì tướng hịch văn”, “Bình Ngô đại cáo”…nhưng phải đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” lần đầu tiên người nông dân Việt Nam đi vào trong tác phẩm văn học với đầy đủ từ dáng vóc, tính cách, suy nghĩ, cảm xúc và hành động chân thực đến thế. Bài tế ra đời trong hoàn cảnh cam go trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Một mặt vừa để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người nghĩa sĩ đã nằm xuống với đất mẹ và ca ngợi lòng dũng cảm, bất khuất của họ, một mặt tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phê phán thái độ chiến đấu của vua quan nhà Nguyễn, một mặt để khích lệ, động viên tinh thần tinh thần đánh giặc của nhân dân.

Như vậy, bằng lối dùng các từ ngữ sinh động, giọng điệu linh hoạt, gần gũi với đời sống nông dân, đậm chất Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên hình tượng người nông dân nghĩa chân chất, mộc mạc, lam lũ nghèo khó mà cao đẹp vĩ đại với tấm lòng yêu nước sâu sắc. Đây là hình tượng đẹp nhất về người nông dân trong lịch sử văn học dân tộc.

Đề bài: Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là bức tượng đài bi tráng về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, hình tượng người nông dân mới được dựng lên hoàn chỉnh và đẹp đẽ đến vậy. Với tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn chỉnh bức tranh về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm của người nông dân.

    Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đến tháng 2/1859 thực dân Pháp chiếm được Gia Định và tấn công các vùng phụ cận (Gò Công, Cần Giuộc). Ngày 14/12/1861, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc giành được thắng lợi ban đầu: chém đầu được 1 tên quan hai của Pháp và khá nhiều lính thuộc địa, chiếm đóng được đồn giặc. Ngày 16/12/1862, giặc phản công, 20 nghĩa quân bị giết chết. Bởi vậy, tuần phủ Gia Định lúc bấy giờ là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Hình ảnh người nông dân, không phải là chưa bao giờ xuất hiện trong văn học Trung đại, tác phẩm Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã từng nhắc đến họ: “Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập” (Dựng gậy làm cờ, manh lệ bốn phương tụ hội). Đây là lần đầu người nông dân được nhắc đến trong văn chương, song vì tính chất của một bản tuyên ngôn nên Nguyễn Trãi không có điều kiện để khắc họa rõ nét chân dung người nông dân mà mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định vị trí, vai trò của họ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

    Còn đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, bức tranh chân dung và tinh thần người nông dân được dựng lên hoàn chỉnh đến vậy. Họ được khắc họa từ cuộc sống sinh hoạt đời thường cho đến đời sống tinh thần, từ vẻ ngoài chất phác, hồn hậu cho đến lòng dũng, cảm kiên cường sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước. Đây chính là phát hiện mới mẻ của Nguyễn Đình Chiểu đối với người nông dân – lực lượng nòng cốt trong mọi cuộc kháng chiến, song lại ít khi được nhận thức đúng đắn về vai trò lịch sử.

    Mở đầu, phần Lung khởi tác giả đã khái quát được bối cảnh thời đại và khẳng định vị trí , ý nghĩa của người nghĩa sĩ nông dân: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Đây là một thời đại bi tráng, khổ nhục như vĩ đại, thời đại đó đã sản sinh ra những người nông dân nghĩa sĩ với lòng yêu nước nồng nàn. Câu văn ngắn, chỉ có tám chữ: súng giặc/ lòng dân, đất rền/ trời tỏ gợi lên không khí thời đại sục sôi, căng thẳng, quyết liệt của nhân dân ta trong quá trình chiến đấu với kẻ thù. Hai câu văn tuy ngắn những lại có ý nghĩa quan trọng, tạo thành bệ đỡ để thấy được vẻ đẹp của tượng đài nghĩa sĩ nông dân phía sau.

    Những người nghĩa sĩ nông dân khi chưa có quân giặc xâm lược họ sống và làm việc với cuộc đời đầy lam lũ, cực nhọc: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo đói”. Cuộc đời họ quanh quẩn sau lũy tre làng, cùng với công việc đồng áng vất vả: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” , “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” họ hoàn toàn xa lạ với việc đao binh: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Cuộc đời họ gắn bó với làng ruộng, gắn bó với quê hương, bởi vậy, khi nghe tin giặc tới xâm lược, họ đặt trọn niềm tin vào triều đình: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa” và họ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Không chỉ vậy, họ còn là người có ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước khi tổ quốc lâm nguy, dù không được học binh pháp nhưng họ sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự bình yên của quê hương, đất nước.

    Người nông dân vốn chỉ tay cuốc, tay cày “trong trận nghĩa đánh Tây vụt đứng lên thành những anh hùng hiên ngang, lẫm liệt”. Đâu còn hình bóng của những con người chỉ biết trong làng bộ, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ trong phút chốc họ đã lớn dậy trưởng thành với tinh thần chiến đấu sục sôi. Vũ khi được trang bị thô sơ, hầu hết là những vật dụng sinh hoạt hàng ngày: ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Nhưng tinh thần của họ lại bừng bừng khí thế và sự nhiệt huyết xông tới chiến đấu với kẻ thù: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”,… Hành động hết sức mạnh mẽ, quyết liệt: “kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kính; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Đoạn thơ đã miêu tả được không khí hào hùng của trận đấu, tác giả sử dụng liên tiếp các động từ: đạp, lướt, xô, xông, đâm,… giúp cực tả không khí hào hùng, hành động dứt khoát, dũng mãnh của những con người vì nghĩa lớn mà quên thân mình.

    Khi khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, người viết hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực, chân dung của họ được tái hiện chân thực nhất từ dáng vẻ về ngoài, cho đến cuộc sống lao động vất vả hàng ngày,… Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh (ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ,…) Đặc biệt là thủ pháp đối lập được sử dụng nhiều: lướt tới/xông vào, đâm ngang/ chém ngược, manh áo vải, ngọn tầm vông/ đạn to, đạn nhỏ,… Các thủ pháp nghệ thuật trên đã góp phần khắc họa vẻ đẹp anh dũng, bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản anh hùng ca ngợi ca những người nông dân nghĩa sĩ anh dũng, bất khuất, kiên cường. Hình ảnh, sự hi sinh của họ là minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn, cho triết lí sống ngàn đời của ông cha ta: “Chết vinh còn hơn sống nhục”.

Đề bài: Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chỉểu có một “tượng đài nghệ thuật” mang tính bi tráng về người nông dân yêu nước chông ngoại xâm. Anh (chị) hãy phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tưọng nghệ thuật đó.

   “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là biểu tượng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương, khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

   Có thể nói bài văn tế là khúc bi tráng về người nghĩa sĩ nồng dân xả thân vì sự sống còn của đất nước. Người nồng dân nghèo khổ chân chất “côi cút làm ăn toan lo nghèo khổ đã tự nguyện đứng lên gánh vác việc nước lớn lao và cực kì gian khổ: đánh giặc. Trước tội ác tày trời của giục Pháp, trước thái độ nhu nhược đến hèn nhát của trỉều đình, họ không thổ bưng tai bịt mắt làm ngơ. Trách nhiệm công dân thúc đẩy họ cầm vũ khí chiến đấu:

    “Nào đợi ai đồi, ai hắt, phe tì này xin ra sức đoạn kình;

    Chẳng thêm trôn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

   Họ không phải là lính chính quy của triều đình mà chỉ là “dân ấp dân lân, mến nghĩa tàm quản chiêu mộ”. Đó là cái nghĩa vì nước quên mình, dám đánh giặc, dám hi sinh. Điều này hoàn toàn đối lập với lũ quan quân triéu đình tham sống sợ chết. Vì lẽ đó mà hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân càng thêm thương, thêm quý.

   Không cần lệnh quan trên, không cần chờ trang bị, cũng chảng đợi tập rèn, họ lao vào cuộc chiến đấu sống chốt với kẻ thù bằng một tinh thần dũng cảm hiếm có: “Kẻ dám ngang, người chém ngược, làm cho mũ tà, ma nỉ hồn kinh. Bọn hè trước, lù ó sau, trôi kệ tàu thiếc, tâu dồng súng nổ”. Tinh thần ấy khiến cho các vũ khí thô sơ trong tay họ trở lên hữu hiệu:”Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia – Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ”.

   Cái dũng cảm trong chiến đấu đã khắc phục cái yếu kém trong trang bị. Giữa bức tranh hoành tráng của cuộc chiến đấu, nổi bật hình bóng lồng lộng, hiên ngang của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.

   Trong văn thơ ngày xưa của ta có không nhiều những trang miêu tả một trận chiến đấu mà thường là lược tả một vài nét. ở bài văn tế này, nhà thơ đã tả bằng những chi tiết rất chân thực, sống động cho nên không khí hào hùng gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh tầm thường thành những hình ảnh tượng trưng cho người nghĩa quân nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, vậy mà khi lòng nghĩa cháy lên, họ đã biến thành người chiến sĩ cứu nước anh hùng. Hình bóng họ làm chủ chiến trường, nổi lên trên nến trời, che lấp cả khồng gian, lồng lộng như một tượng đài kì vĩ.

   Cảm xúc chủ đạo của vài văn là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, mãnh liệt, toàn là những hành động được thể hiện bằng những động từ mạnh mẽ, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy được hiệu quả cao nhất của nó… Tất cả hợp thành một âm điệu chiến trận hào hùng, phấn khích. Thật là một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân; với tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động giết giặc cứu nước của họ.

   Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cải chết bi tráng của nọ Knien con người, cây cỏ trên một miền quê Dao la tnay đều thương tiếc: “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng – Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hơi hàng luỵ nhỏ”. Người chết vì nước non, vì đồng bào, làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước ? “Tượng đài nghệ thuật” vé người nghĩa sĩ nồng dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong khói lửa chiến trận, trong tiếng thét xung phong, và cả trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết cùa nhà thơ và của nhân dân. Đây là thành công nghê thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyền Đình Chiểu. Bài văn tế như một cái bia, cái mốc, một lâu đài vinh dự cho người nông dân, cho nhân dân lao động Nam Bộ muôn thuở sáng ngời.

Đề bài: Phân tích “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu để thấy đây là bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp từ những ngày đầu chúng xâm lược nước ta.

   Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông đầy những bất hạnh. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông trở thành tám gương sáng về nhiều mặt…”Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc Pháp cuối thế kỉ XIX”. Lời đánh giá trên rất xứng đáng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ qua, đọc lại bản văn tế ấy, ai không dạ dào xúc động, bởi”nước mắt anh hùng” có bao giờ ráo khô?

   Mở đầu tác phẩm, tác giải đã cất lên tiếng than:

    Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ!

   Đây chính là hoàn cảnh, là cái nền mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Kẻ thù hung hãn đã tới. Xã tắc chao đảo trước”tàu sắt, tàu đồng, súng nổ”, phải chăng, đây là lúc:

    Bến Nghé của tiền tan bọt nước

    Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây

   Cũng chính là lúc:

    Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

    Mất ổ bầy chim dáo dát bay

           (Chạy Tây – Nguyễn Đình Chiểu)

   Từ hoàn cảnh khốc liệt, tan tác, đau thương này, tấm lòng của người dân đã rực sáng giữa trời xanh!

   Họ là ai?

   Họ không phải là những sĩ phu, những chí sĩ, cũng không phải những đại gia từng được ơn vua lộc nước hậu hĩnh. Họ chỉ là những người:

    Côi cút làm ăn, lo toan nghèo

    … Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ

    Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

    Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó

   Họ hoàn toàn là nông dân, nông dân 100% những con người quanh năm chưa từng bước ra khỏi lũy tre làng! Hơn thế, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo lắm. Hai chữ”côi cút” của cụ Đồ mới xót xa làm sao! Có nghĩa là ngày thường, nhưng tháng năm dài dặc kia, họ chẳng được”chăn dắt” như mạo nhận của bọn vua quan. Một đời, nhiều đời thui thủi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Thế nhưng, chính những con người bị bỏ rơi ấy lại là những người đầu tiên đứng lên, cho dù chẳng phải quân cơ, quân vệ. Họ chỉ vì nghĩa lớn mà tập hợp dưới cờ.

    Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu

    Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

   Với hai câu văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu dã cho ta thấy họ quả là những nghĩa sĩ, những con người có trách nhiệm lớn với non sông, những con người mang trong mình dòng máu bất khuất. Cho nên, chính họ đã quyết”Phen này xin ra sức đoạn kình… Chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

   Đó chính là tư tưởng của những Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng từng chém cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rùng sâu trong lịch sử dân tộc.

   Nhưng Cụ Đồ Bến Tre vẫn không quên chính họ là những người chân đất có tấm lòng căm thù giặc tới tận xương tủy:

    Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan

    Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!

   Chính sự căm thù này khiến họ vượt qua khó khăn thiếu thốn, không đợi trang bị vũ khí, ăn mặc, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch mạnh, có vũ khí tối tân, có linh đánh thuê hung hãn, có bọn Việt gian thâm hiểm…nhất quyết ngay một lúc vào trận với những vũ khí tự tạo thô sơ:” Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay”, nghĩa là có gì đánh nấy, miễn là giết được giặc! Nếu không có tấm lòng vì nghĩa lớn, làm sao có được cái gan ấy?

   Và, khi vào trận, họ quả là phi thường:

    Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.

    Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

   Quả là một trận chiến dũng mãnh, quyết liệt đến liều mạng của lòng căm thù! Các động từ mạnh như”đạp – lướt — xô — xông — đâm ngang – chém ngược…” khiến cho người đọc hàng trăm năm sau còn như thấy trước mắt khí thế vũ bão ào ào của nghĩa quân. Trong ánh lửa bập bùng, loang loáng những bắp tay trần, loang loáng ánh thép dao phay, rầm rập những bước chân, ầm ầm tiếng thét giết tươi kẻ thù…

   Trong văn học Việt Nam đến thời điểm ấy, hiếm có một bức tranh công đồn nào hiện thực sinh động như thế! Không một chút ước lệ, ngòi bút kí sự, dặc tả của nhà Nho mới quý giá biết bao! Vì sao một người”quanh mình chỉ có bóng đêm” mà lại nhìn sáng tỏ đến như thế? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ là tất cả!

   Chính tinh thần quyết chiến ấy của người nghĩa sĩ đã làm nên những chiến công rất đáng ca ngợi. Họ đã tiêu diệt dược tên chỉ huy ác ôn, đã đốt cháy ổ gián điệp, tức là kẻ thù nổi, kẻ thù chìm, kẻ thù bằng xương bằng thịt, kẻ thù tư tưởng (nhà dạy đạo)… Càng có ý nghĩa lớn khi những chiến công ấy được lập lên từ những vũ khí rất thô sơ! Bức tượng đài hoành tráng ấy càng lẫm liệt.

   Xót xa thay! Họ đã ngã xuống! Sự hi sinh anh dũng của họ đã làm đau xót cả đất trời Nam Bộ:

    Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;

    Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

   Đất trời mờ mịt! Người người khóc thương! Nỗi sầu thảm này biết mấy xót xa! Đằng sau cái chết của người anh hùng sẽ là:

    Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

   Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hòa máu và nước mắt để viết nên những câu văn não lòng như thế!

   Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã gạt lệ để ngợi ca tấm gương hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ với tấm lòng son vằng vặc ánh trăng rằm,”sống đánh thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả kia”, nghĩa là những con người ấy chết mà vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không sao ngăn được ngậm ngùi xót thương đau đớn!

   Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bằng ngòi của mình sẽ mãi mãi tồn tại cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dán đánh giặc! Chúng ta đều biết, người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lổ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, chuốt nhọn mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật trung tâm! Nay, Nguyễn Đình Chiểu đă trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thê kỉ XIX có phần đóng góp xứng đáng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ! “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về những người anh hùng thất thế” (Phạm Văn Đồng).

    Xỉn được thắp một nén tâm hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ người anh hùng liệt sĩ, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.

   Sống trong cuộc đời tránh sao được cái quy luật sống và chết. Người ta vẫn thường nói chết là hết. Nhưng có những cái chết không một tiếng vang, lại có những cái chết để tiếng thơm muôn thuở. Những người nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống Pháp đã lựa chọn cái chết thật: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đến sáu tỉnh chúng đều khen. Thác mà ưng đình miếu để mà thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang (Phạm Văn Đồng).

   Đó là vào năm 1859, sau khi đánh chiếm Gia Định, thưc dân Pháp mở rộng xâm lược ra ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Đến tháng 12/1861, Pháp đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Hai ngày sau, nghĩa quân ba xứ nhất tề nổi dậy, tập kích dồn quân Pháp, đốt nhà Dòng, nơi chúng đóng quân, giết chết một tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa. Nghĩa quân hi sinh khoảng 15 người. Trận thắng không lớn nhưng nó làm nức lòng những người dân yêu nước Việt Nam đang sôi sục ý chí bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế để khóc thương và biểu dương tinh thần hi sinh vì nước của nghĩa quân Cần Giuộc. Áng văn làm rung động sâu sác tâm hồn những người dân yêu nước Việt Nam. Nhà thơ Mai Am từng có thơ đề cảm:

    Điếu văn tam phục trụng đê hồi

    Nghị phách từ phong tận khả ai.

   Nghĩa là, đọc bài văn điếu ba lần trong dạ bồi hồi khôn xiết, nghĩa khí mạnh lời văn hùng thật đáng xót thương.

   Có thể thấy hình ảnh người nông dân Cần Giuộc là hình ảnh nổi cộm lên giữa những suy tư, suy ngẫm về cuộc chiến đấu của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây cũng là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó đánh dấu vào lịch sử văn học dân tộc về một tượng đài bất hủ về hình ảnh người anh hùng áo vải giết giặc cứu nước.

   Theo bố cục bài văn tế, chúng ta đi vào tìm hiểu và làm sáng tỏ những nét đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong cuộc chiến đấu chống Pháp.

   Ở những câu đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại lịch sử khốc liệt, hào phùng: một bên là cuộc xâm lược của thực dân Pháp với tất cả sức mạnh áp đảo về vũ khí (súng giặc đất rền), một bên là cuộc chiến đấu chống quân xâm lược của nhân dân ta với khí thế ngút trời (lòng dân trời tỏ). Người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm: Côi cút làm ăn toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung. Ây vậy mà khi giặc đến, họ liền trở thành những dũng sĩ, Nguvễn Đình Chiểu dã khéo léo nhấn mạnh đến tinh thần tự giác:

    Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

   Ở đây bút pháp hiện thực kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp trữ tình. Vừa tái hiện chân thực cuộc sống con người trong một thời điểm quan trọng nhất, lại vừa bộc lộ sâu sắc niềm trân trọng tự hào lẫn sự cảm phục của tác giả đối với người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

   Hành động tự giác xung vào đội quân chiến đấu chống Pháp cho thấy thái độ vô tư trong suy nghĩ, trách nhiệm lớn lao đôi với vận mệnh đất nước của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhớ lại những câu ca dao Lính thú đời xưa. Họ cũng là những nông dân nhưng bị bắt buộc phải phục vụ cho những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa, nên thái độ của họ thật khác xa:

    Thùng thùng trống đánh ngũ liên

    Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

   Còn ở đây, mặc dù đội nghĩa binh Cần Giuộc mới đươc tập hợp trong vòng hai ngày trước trận tập kích đồn quan Pháp. Chỉ có hai ngày, trong hoàn cảnh phải hoàn toàn tự lực, không có sự giúp đỡ của quan quân triều đình nên họ thiếu thốn đủ thứ, vậy mà họ hăm hở biết bao:

    Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

    Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

   Sức mạnh của những người nghĩa quân không gì khác ngoài sức mạnh tinh tthần. Họ đã lấy gan vàng đọ với đạn sắt, lấy lòng căm hờn chống lại tàu sắt, tàu đồng. Chính lòng căm hờn đã đem đến cho họ sự dũng mãnh và sức mạnh phi thường kẻ đâm ngang người chém ngược họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như chỗ không người. Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Hai từ cũng được lặp lại ở câu mười ba (cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, cũng chém rớt đầu quan hai nọ) vừa làm nổi bật thế tương phản của trận đánh, vừa vang lên như một tiếng reo vui đầy tự hào của những con người đầy lòng tự tin vào sức mạnh chính nghĩa của mình.

   Nguyền Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn thật trang trọng đẹp đẽ, nhưng ông không che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất thế và cái chết của người nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho đất trời, cỏ cây, con người đều động lòng.

    Ôi thôi thôi!

    Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

    Đau đớn bấy Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngỏ.

   Cái bi tráng bao trùm lên cả đoạn thơ, nhưng cái bi ở đây không phải là cái thảm mà là bi tráng. Đây là nổi đau đớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không khiến người ta nản lòng, thối chí, khi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên ngang. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống, nhưng chết vinh còn hơn sống nhục: Thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Chết như thế là để lại tấm gương chói lọi, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục.

   Có thể nói, dù đã ngà xuống, nhưng hình ảnh người nông dân giết giặc vẫn mãi ngời sáng. Đó chính là những trái tim ngời sáng trong cát, để lại tiếng thơm muôn đời.

   Cất lên những tiếng khóc này, Nguyền Đình Chiểu muốn khẳng định đây là cái tang chung của mọi người, của dân tộc. Vì vậy có bi mà không có lụy. Cái bi thì thăm thẳm, nổi đau đầy cảm hứng trữ tình lên đến tột đỉnh, tạo nên những câu văn vật vã: mẹ già ngồi khóc trẻ, vợ yếu chạy tìm chồng. Đây không còn là văn mà là lệ. Phải có tài, có tình và một tinh thần dân tộc, một nhận thức đúng đắn xem mũi tên lịch sử đang đi về đâu. Điều này Nguyễn Đinh Chiểu hiểu rõ và rất tâm huyết.

   Như vậy, viết về hình ảnh người nông dân đánh giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa họ ở ba nét chủ yếu. Thứ nhất, hình ảnh người nông dân chân chất, hiền lành quanh năm chỉ biết sống và làm việc với cày cuôc, ruộng đồng. Thứ hai, đó là tinh thần yêu nước căm giặc sâu sắc đã thôi thúc họ trở thành những chiến binh dũng cảm, vô tận sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Thứ ba, mặc dù đã ngã xuống nhưng họ vẫn là những biểu tượng đẹp về hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc…

   Bài Văn tể nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc không phải chỉ của riêng Nguyễn Đình Chiểu mà còn là của văn học Việt Nam thời Trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngừ bình dị mà gợi cảm, bài văn đã tái hiện chân thực sâu sắc và đầy xúc động cả một thời đau thương nhưng anh dũng của dân tộc, đồng thời xây dựng nên một tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học thời trung đại về người nông dân nghĩa quân chống giặc ngoại xâm.

Đề bài: Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để làm nổi bật vẻ đẹp của hinh tượng những người nghĩa sĩ nồng dân yêu nước.

I. Mở bài

– Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Một tác giả tiêu biểu của Nam Bộ. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại

– Khái quát chung về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm: Bài văn tế đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần giuộc, những người đã dũng cảm chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc

II. Thân bài

1. Nguồn gốc xuất thân của những người nông dân nghĩa sĩ

– Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống)

    + “ cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời

– NT tương phản: chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.

⇒ Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen (đồng ruộng) và chưa quen (chiến trận, quân sự) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh hùng trong đoạn sau.

⇒ Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương thiện, chính hoàn cảnh đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sĩ và cuối cùng là “nghĩa sĩ”

2. Người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với lòng yêu nước nồng nàn

– Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.

    + Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo sợ là chuyện bình thường

    + Sự chờ đợi “quan”: như “trời hạn trông mưa”

    +Thái độ đối với giặc: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ” ⇒ Thái độ căm ghét, căm thù đến tột độ được diễn tả bằng những hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực

– Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”

⇒ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ, chính lòng yêu nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm của “quan” đã khiến họ tự gisc,tự nguyện đứng lên chiến đấu

3. Người nông dân nghĩa sĩ cao đẹp bởi tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân

– Tinh thần chiến đấu tuyệt vời: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

– Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử ⇒ làm rõ nét hơn sự anh dũng của những người nông dân nghĩa sĩ

– Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu quan hai nọ”

-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi

– Sử dụng các động từ chéo “ đâm ngang, chém ngược” → làm tăng thêm sự quyết liệt của trận đánh.

⇒ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

4. Người nông dân nghĩa sĩ đáng kính trọng bởi sự hi sinh anh dũng

– Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành

    + “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”: cách nói tránh sự hi sinh của những ifn nghĩa sĩ

– Chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại

⇒ Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hi sinh sanh dũng xứng đáng đi vào sử sách

III. Kết bài

– Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công của hình tượng

– Lần đầu tiên trong lịch sử văn học tác giả đã dựng một tượng đài nghệ thuật về hình ảnh những người nông dân chống thực dân Pháp tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngoài đời

   Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.

    Hỡi ôi!

    Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..

    Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời đất.

    Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.

    Nhớ linh xưa:

    Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,

    Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;

    Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

    Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

    Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng

    Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan ” miếng cơm manh áo” giản dị dời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.

    Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trồng mưa”.

    Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:

    Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

    … Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.

    Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.

    Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.

    Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:

    Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

    Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với ” đạn nhỏ, đạn to”, “táu thiếc, tàu đồng” vứi đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có ” dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bàng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.

    Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đấu bằng chính tỉnh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.

    Chỉ với những vũ khí thô sơ như:

    Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,

    Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

    Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…

    Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.

    Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng nhữg người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc – họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

   Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù yêu nước có tấm lòng thương dân thương đời sâu sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị bên cạnh truyện thơ “Lục Vân Tiên” nổi tiếng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao trong sáng tác biểu hiện cao độ nhất tư tưởng yêu nước thương dân của tác giả. Với lòng khâm phục và cảm thương chân thành, nhà văn đã xây dựng tượng đài bất hủ về người nông dân_những con người chân chất mộc mạc lại mang trong mình nét đẹp của người hùng dân tộc tự nguyện đánh giặc và xả thân vì sự sống còn của đất nước.

   Trước tiên họ là những người nông dân thuần phác nhà quê nông thôn. Những con người ấy chỉ “Cui cút làm ăn toan lo nghèo khó”, cuộc sống của họ chỉ bó hẹp ở trong làng bộ với công việc của người nhà nông với ruộng trâu, với “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Họ đầu tắt mặt tối lo làm lụng mưu sinh. Họ chỉ là những người dân ấp dân lân “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, họ cũng chẳng hay việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, không hề biết gì về việc quân, việc lính, việc binh đao chinh chiến. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc thật thuần phác với chất thôn quê, mộc mạc sống trong cái nghèo cái đói của người nhà nông.

   Tuy nhiên họ lại mang trong mình vẻ đẹp của con người có tinh thần tự nguyện đánh giặc. Bởi khi giặc loạn nhũng nhiễu, triều đình chống cự yếu ớt, “tấc đất ngọn rau, miếng cơm manh áo” của họ bị cướp, lãnh thổ đất nước bị giặc xâm lăng. Vốn là con người của dân tộc có truyền thống yêu quê hương đất nước, đánh giặc ngoại xâm bao đời nay họ tự nguyện đánh giặc mà không cần đợi “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Tinh thần hăng hái, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông A của thời đại nhà Trần. Họ xung phong đánh giặc dù cho có khó khăn, gian lao và nguy hiểm là đoạn kình, bộ hổ tức chém cá kình, bắt hổ lớn. Giặc lúc này vô cùng hung hãn, số lượng lớn, vũ khí hiện đại hơn ta gấp trăm lần nhưng những người nông dân áo vải ấy không hề run sợ.

   Người nông dân nghĩa sĩ anh dũng chiến đấu, quyết tâm xả thân vì nước. Dù cho giặc mạnh và hiện đại, dù cho biết trước sẽ hi sinh, dù cho ra trận chỉ với tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc nhưng họ không hề nao núng. Tinh thần ấy đẹp biết bao, đáng phục, đáng nể biết bao khi chỉ là những người dân nghèo khó lam lũ lại dám xông pha trận mạc như những người lính thực thụ nhưng ra trận chỉ với “manh áo vải” chẳng có bao tấu, bầu ngòi, dao tu hay nón gõ họ chiến đấu với vũ khí thô sơ, là công cụ lao động của nhà nông “trong tay cầm một ngọn tầm vông” rồi rơm con cúi và lưỡi dao phay…đem đối chọi với vũ khí hiện đại của quân thù.

   Họ chiến đấu bằng trái tim đến hơi thở cuối cùng, họ trở thành bức tượng đài lí tưởng sừng sững trong lòng người dân Việt Nam với một khí thế đánh giặc mãnh liệt làm chủ trận chiến cam go. Bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh anh dũng của người nông dân trong phút công đồn được Đồ Chiểu khắc họa qua đoạn văn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đam ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trươc lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”. Hàng loạt các động từ mạnh, giới từ, nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, câu văn như bị ngắt ra thành vụn nhỏ khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ anh dũng liều mình xông vào xả thân vì nền độc lập dân tộc, tinh thần ấy làm cho lũ giặc phải kinh hồn bạt vía hoảng sợ. Có thể nói hình tượng người nông dân nghĩa sừng sững nổi bật trên nền trời đầy khói lửa làm nên bức tượng đài kì vĩ để lại dấu ấn khó quên trong lòng người dân Việt.

   Hình tượng người nông dân bấy lâu đã xuất hiện trong văn chương như: “Dụ chư tì tướng hịch văn”, “Bình Ngô đại cáo”…nhưng phải đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” lần đầu tiên người nông dân Việt Nam đi vào trong tác phẩm văn học với đầy đủ từ dáng vóc, tính cách, suy nghĩ, cảm xúc và hành động chân thực đến thế. Bài tế ra đời trong hoàn cảnh cam go trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Một mặt vừa để tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người nghĩa sĩ đã nằm xuống với đất mẹ và ca ngợi lòng dũng cảm, bất khuất của họ, một mặt tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phê phán thái độ chiến đấu của vua quan nhà Nguyễn, một mặt để khích lệ, động viên tinh thần tinh thần đánh giặc của nhân dân.

   Như vậy, bằng lối dùng các từ ngữ sinh động, giọng điệu linh hoạt, gần gũi với đời sống nông dân, đậm chất Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên hình tượng người nông dân nghĩa chân chất, mộc mạc, lam lũ nghèo khó mà cao đẹp vĩ đại với tấm lòng yêu nước sâu sắc. Đây là hình tượng đẹp nhất về người nông dân trong lịch sử văn học dân tộc.

   Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là bức tượng đài bi tráng về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, hình tượng người nông dân mới được dựng lên hoàn chỉnh và đẹp đẽ đến vậy. Với tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn chỉnh bức tranh về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm của người nông dân.

    Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đến tháng 2/1859 thực dân Pháp chiếm được Gia Định và tấn công các vùng phụ cận (Gò Công, Cần Giuộc). Ngày 14/12/1861, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc giành được thắng lợi ban đầu: chém đầu được 1 tên quan hai của Pháp và khá nhiều lính thuộc địa, chiếm đóng được đồn giặc. Ngày 16/12/1862, giặc phản công, 20 nghĩa quân bị giết chết. Bởi vậy, tuần phủ Gia Định lúc bấy giờ là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Hình ảnh người nông dân, không phải là chưa bao giờ xuất hiện trong văn học Trung đại, tác phẩm Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã từng nhắc đến họ: “Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập” (Dựng gậy làm cờ, manh lệ bốn phương tụ hội). Đây là lần đầu người nông dân được nhắc đến trong văn chương, song vì tính chất của một bản tuyên ngôn nên Nguyễn Trãi không có điều kiện để khắc họa rõ nét chân dung người nông dân mà mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định vị trí, vai trò của họ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

    Còn đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, bức tranh chân dung và tinh thần người nông dân được dựng lên hoàn chỉnh đến vậy. Họ được khắc họa từ cuộc sống sinh hoạt đời thường cho đến đời sống tinh thần, từ vẻ ngoài chất phác, hồn hậu cho đến lòng dũng, cảm kiên cường sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước. Đây chính là phát hiện mới mẻ của Nguyễn Đình Chiểu đối với người nông dân – lực lượng nòng cốt trong mọi cuộc kháng chiến, song lại ít khi được nhận thức đúng đắn về vai trò lịch sử.

    Mở đầu, phần Lung khởi tác giả đã khái quát được bối cảnh thời đại và khẳng định vị trí , ý nghĩa của người nghĩa sĩ nông dân: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Đây là một thời đại bi tráng, khổ nhục như vĩ đại, thời đại đó đã sản sinh ra những người nông dân nghĩa sĩ với lòng yêu nước nồng nàn. Câu văn ngắn, chỉ có tám chữ: súng giặc/ lòng dân, đất rền/ trời tỏ gợi lên không khí thời đại sục sôi, căng thẳng, quyết liệt của nhân dân ta trong quá trình chiến đấu với kẻ thù. Hai câu văn tuy ngắn những lại có ý nghĩa quan trọng, tạo thành bệ đỡ để thấy được vẻ đẹp của tượng đài nghĩa sĩ nông dân phía sau.

    Những người nghĩa sĩ nông dân khi chưa có quân giặc xâm lược họ sống và làm việc với cuộc đời đầy lam lũ, cực nhọc: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo đói”. Cuộc đời họ quanh quẩn sau lũy tre làng, cùng với công việc đồng áng vất vả: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” , “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” họ hoàn toàn xa lạ với việc đao binh: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Cuộc đời họ gắn bó với làng ruộng, gắn bó với quê hương, bởi vậy, khi nghe tin giặc tới xâm lược, họ đặt trọn niềm tin vào triều đình: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa” và họ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Không chỉ vậy, họ còn là người có ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước khi tổ quốc lâm nguy, dù không được học binh pháp nhưng họ sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự bình yên của quê hương, đất nước.

    Người nông dân vốn chỉ tay cuốc, tay cày “trong trận nghĩa đánh Tây vụt đứng lên thành những anh hùng hiên ngang, lẫm liệt”. Đâu còn hình bóng của những con người chỉ biết trong làng bộ, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ trong phút chốc họ đã lớn dậy trưởng thành với tinh thần chiến đấu sục sôi. Vũ khi được trang bị thô sơ, hầu hết là những vật dụng sinh hoạt hàng ngày: ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Nhưng tinh thần của họ lại bừng bừng khí thế và sự nhiệt huyết xông tới chiến đấu với kẻ thù: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”,… Hành động hết sức mạnh mẽ, quyết liệt: “kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kính; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Đoạn thơ đã miêu tả được không khí hào hùng của trận đấu, tác giả sử dụng liên tiếp các động từ: đạp, lướt, xô, xông, đâm,… giúp cực tả không khí hào hùng, hành động dứt khoát, dũng mãnh của những con người vì nghĩa lớn mà quên thân mình.

    Khi khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, người viết hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực, chân dung của họ được tái hiện chân thực nhất từ dáng vẻ về ngoài, cho đến cuộc sống lao động vất vả hàng ngày,… Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh (ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ,…) Đặc biệt là thủ pháp đối lập được sử dụng nhiều: lướt tới/xông vào, đâm ngang/ chém ngược, manh áo vải, ngọn tầm vông/ đạn to, đạn nhỏ,… Các thủ pháp nghệ thuật trên đã góp phần khắc họa vẻ đẹp anh dũng, bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản anh hùng ca ngợi ca những người nông dân nghĩa sĩ anh dũng, bất khuất, kiên cường. Hình ảnh, sự hi sinh của họ là minh chứng cho lòng yêu nước nồng nàn, cho triết lí sống ngàn đời của ông cha ta: “Chết vinh còn hơn sống nhục”.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Action: Post ID: Post Nonce: ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Processing your rating... Đánh giá trung bình {{avgRating}} / 5. Số lượt đánh giá: {{voteCount}} {{successMsg}} {{#errorMsg}} {{.}} {{/errorMsg}} There was an error rating this post!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 909

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

Từ khóa » Những Lăm Lòng Nghĩa Lâu Dùng