Giao diện chuyển sang thanh bên ẩn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sáo đá xanh
Adult S. v. vulgaris in England
Tình trạng bảo tồn
Ít quan tâm (IUCN 3.1)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)
Animalia
Ngành (phylum)
Chordata
Lớp (class)
Aves
Bộ (ordo)
Passeriformes
Họ (familia)
Sturnidae
Chi (genus)
Sturnus
Loài (species)
S. vulgaris
Danh pháp hai phần
Sturnus vulgarisLinnaeus, 1758
Bản địa: vàng, đến vào mùa hè sinh sản; xanh lá cây đậm, sinh sản và sinh sống; xanh da trời, trú đông.Du nhập: vàng nhẹ, đến vào mùa hè sinh sản; xanh lá cây nhẹ, sinh sản và sinh sống.
Sáo đá xanh (danh pháp hai phần: Sturnus vulgaris) là một loài chim thuộc Họ Sáo (Sturnidae).[1] Đây là loài chim sáo đá có nguồn gốc ôn đới châu Âu và Tây Á, nó có mười hai phân loài. Nó cũng đã được du nhập vào Úc, New Zealand, Canada, Hoa Kỳ, Mexico, Peru, Argentina, quần đảo Falkland, Brazil, Chile, Uruguay, Nam Phi và Fiji.[2]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]
Sáo đá xanh dài từ 19–23 cm (7,5–9,1 in), sải cánh 31–44 cm (12–17 in) và cân nặng 58–101 g (2,0–3,6 oz).[3] Đuôi dài 5,8 đến 6,8 cm (2,3 đến 2,7 in), và chiều dài sống mỏ là 2,5 đến 3,2 cm (0,98 đến 1,26 in).[3] Con trống trưởng thành có phía dưới ít đốm hơn con mái trưởng thành. Lông cổ họng lâu dài và chùng hơn, và được sử dụng như là một tín hiệu trong biểu hiện. Chim non có màu nâu xám, và mùa đông đầu tiên của chúng giống như con trưởng thành mặc dù thường giữ lại một số đặc điểm lông lúc còn non màu nâu đặc biệt là trên đầu trong phần đầu của mùa đông. Cặp chân chắc, hơi đỏ hồng. Mỏ hình nón hẹp với một đầu nhọn, trong mùa hè, mỏ con mái màu vàng, và màu vàng với một cuống mỏ màu xám xanh ở con trống, trong khi vào mùa đông, và ở con non, mỏ có màu đen ở cả hai giới. Việc thay lông diễn ra mỗi năm một lần, vào cuối mùa hè sau khi kết thúc mùa sinh sản, lông tươi nổi bật nghiêng trắng (lông ngực) hoặc da bò (cánh và lông trở lại). Việc giảm các đốm trong mùa sinh sản được thực hiện bằng cách rụng bớt các lông đốm trắng. Chim sáo đá xanh đi chứ không phải là nhảy lò cò. Dáng bay khá mạnh mẽ và trực tiếp, chúng trông có hình tam giác, cánh và đuôi ngắn trong khi bay.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]
^ Clements, J. F.; Schulenberg, T. S.; Iliff, M. J.; Wood, C. L.; Roberson, D.; Sullivan, B.L. (2012). “The eBird/Clements checklist of birds of the world: Version 6.7”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
^ Long, John L. (1981). Introduced Birds of the World. Agricultural Protection Board of Western Australia. pp. 21–493