Sơ đồ Tư Duy Bài Đồng Chí Lớp 9 Ngắn Gọn Nhất - TopLoigiai
Có thể bạn quan tâm
Bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu khắc họa nổi bật hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ. Đây là bài thơ hay thường được sử dụng trong các đề thi vào lớp 10. Top lời giải sẽ hướng dẫn các em lập sơ đồ tư duy bài Đồng chí ngắn gọn, hay nhất. Qua đó có thể sử dụng sơ đồ tư duy này vào phân tích, cảm nhận, bình giảng bài thơ Đồng chí khi làm bài thi hoặc kiểm tra.
Mục lục nội dung Tóm tắt tác giả, tác phẩm trước khi lập Sơ đồ tư duy bài Đồng chíCách vẽ sơ đồ tư duy môn văn đẹp và hiệu quả nhấtSơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 1Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 2Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 3Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 4Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 5Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Đồng chíMẫu 1Mẫu 2Tóm tắt tác giả, tác phẩm trước khi lập Sơ đồ tư duy bài Đồng chí
I. Đôi nét về tác giả Chính Hữu
- Chính Hữu (1926-2007): Tên thật là Trần Đình Đắc, bút danh Chính Hữu
- Quê quán: huyện Can Lộc, tình Hà Tĩnh
- Năm 1946, Chính Hữu gia nhập Trung đoàn thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
⇒ Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp
- Sống và hoạt động trong thời điểm đất nước đang trải qua cuộc chiến đấu trường kì để bảo vệ chủ quyền, độc lập, Chính Hữu có ý thức hướng ngòi bút của mình vào hiện thực chiến tranh.
- Quá trình sáng tác:
+ Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ năm 1947
+ Đề tài chủ yếu trong các sáng tác tác của Chính Hữu là đề tài chiến tranh và người lính
+ Tác phẩm chính làm nên tên tuổi của Chính Hữu là tập thơ Đầu súng trăng treo (1966). Ngoài ra các tác phẩm của ông còn có Thơ Chính Hữu (1997),...
- Phong cách sáng tác: Những sáng tác của ông không nhiều nhưng phần lớn là những bài thơ mang đậm dấu ấn cá nhân với cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc, ngôn ngữ, hình ảnh chọn lọc, đặc sắc ⇒ Làm nên một nhà thơ với phong cách bình dị.
II. Tìm hiểu chung bài thơ Đồng Chí
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (Thu - Đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc.
⇒ Được đánh giá là tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, bài thơ đã đi qua hành trình hơn nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
2. Bố cục (3 đoạn)
- Đoạn 1 (7 câu thơ đầu): Cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội của những người lính.
- Đoạn 2 (10 câu thơ tiếp theo): Những biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của tình cảm ấy ở những người lính.
- Đoạn 3 (3 câu kết): Biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
3. Giá trị nội dung
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu. Tình đồng chí góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và phẩm chất của những người lính cách mạng. Qua đó hiện lên hình tượng chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
4. Giá trị nghệ thuật
Bài thơ thành công về nghệ thuật bởi thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình ảnh được sử dụng mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức biểu cảm.
II. Phân tích chi tiết bài thơ Đồng Chí
1. 7 câu thơ đầu: Sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí
- Hai câu đầu: Hoàn cảnh xuất thân của những người chiến sĩ:
+ Xuất thân từ ngư dân miền biển (nước mặn đồng chua) và nông dân (đất cày lên sỏi đá)
+ Hoàn cảnh khó khăn, vất vả, nghèo khó
⇒ Sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở cho sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
- Hai câu tiếp: Hoàn cảnh gặp gỡ:
+ “Đôi người xa lạ” : Hai đối tượng “anh”- “tôi” vốn không quen biết
+ “Chẳng hẹn quen nhau”: Tuy sự quen nhau là không hẹn trước, nhưng chính việc cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng tham gia chiến đấu đã làm họ nảy nở tình cảm cao đẹp.
- 3 câu thơ tiếp: Sự gắn kết trọn vẹn giữa những người đồng chí:
+ Hình ảnh song hành “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: Tình đồng chí nảy nở và bền chặt khi họ chia sẻ với nhau những khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.
+ Những người chiến sĩ còn chia sẻ với nhau những gian khó đời thường “đêm rét chung chăn”, hiểu rõ về nhau để trở thành “tri kỉ”.
+ Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của một tình cảm cách mạng cao đẹp: tình đồng chí.
2. 10 câu thơ tiếp: Diễn tả những biểu hiện cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội
- 3 câu đầu: Tình đồng chí là cảm thông những tâm sự thầm kín về hậu phương, quê hương
+ Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị, thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với họ từ lúc chào đời: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa”
+ Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện quyết tâm chiến đấu
⇒ Tình cảm đồng chí thân thiết, họ chia sẻ với nhua những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ
- 7 câu tiếp: Đồng chí là cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn trong đời lính
+ Họ san sẻ cùng nhau, cùng nhau trải qua những “cơn ớn lạnh”, những khi “sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi” ⇒ Hình ảnh chân thực, họ thương nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét
+ Họ chia sẻ cho nhau, cùng nhau trải qua những thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống hằng ngày: “Áo anh rách vai...không giày”: Sự thiếu thốn về vật chất không làm tình cảm của họ phai nhạt đi, ngược lại làm cho họ quyết tâm hơn vì lí tưởng
+ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” Biểu hiện của tình đồng chí trực tiếp nhất, họ nắm tay nhau- cái nắm tay để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng, để quyết tâm ⇒ Cử chỉ cảm động chan chứa tình cảm chân thành
3. 3 câu cuối: Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ của tình đồng chí
- 2 câu đầu: Nhiệm vụ gian khổ của người lính
+ Hoàn cảnh: đêm, rừng hoang, sương muối ⇒ hoàn cảnh khắc nghiệt
+ Nhiệm vụ của những người lính chiến: đứng gác, phục kích sẵn sàng “chờ giặc tới”
⇒ Tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách, gian lao, hình ảnh của họ đứng cạnh bên nhau vững chãi làm mờ đi sự gian khổ, ác liệt của chiến tranh, tình đồng chí giúp họ lãng mạn và bình thản trong mọi hoàn cảnh
- Câu cuối “Đầu súng trăng treo”: hình ảnh kết thúc đầy bất ngờ, độc đáo, điểm sáng của toàn bài, gợi liên tưởng thú vị:
+ “Súng”: biểu tượng của chiến tranh
+ “trăng”: biểu tượng cho thiên nhiên trong mát, cho hòa bình
⇒ Sự hòa hợp giữa trăng và súng làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu là bảo vệ cho cuộc sống thanh bình nơi quê hương ⇒ Tình đồng chí của họ càng thêm cao cả và ý nghĩa bội phần
Cách vẽ sơ đồ tư duy môn văn đẹp và hiệu quả nhất
Để vẽ sơ đồ tư duy môn Văn hiệu quả, bạn cần chú ý các bước quan trọng sau:
- Tạo ý tưởng chính (ý tưởng trung tâm) cho bài
- Tạo các nhánh cho bản đồ tư duy
- Thêm các hình ảnh trong sơ đồ
Mindmap như một phương thức trực quan và hiệu quả trong việc ghi nhớ những tác phẩm, những ý chính trong văn học, chúng được dùng để thay thế rất hiệu quả cho những con chữ dài lê thê trong Văn học
Ngoài ra, bạn cũng nên thêm thắt những hình ảnh gợi nhớ trong Mindmap môn Văn. Khi sử dụng hình ảnh có tác dụng kích thích thị giác khiến não bộ tiếp nhận thông tin nhanh hơn, qua đó giúp bạn tiết kiệm thời gian học bài mà vẫn không quên các nội dung chính cần nhớ.
Sau khi tìm hiểu chi tiết về bài thơ, các em cùng đến với sơ đồ tư duy Đồng chí đã được Top lời giải tổng hợp và biên soạn sau đây nhé:
Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 1
Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 2
Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 3
Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 4
Sơ đồ tư duy bài Đồng chí - Mẫu số 5
Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Đồng chí
Mẫu 1
"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri ki" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:
"Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc..."
("Chiều mưa đường số 5" - Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?
Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ "Bao giờ trở lại", Hoàng Trung Thông viết:"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải chân không đi lùng giặc chinh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày..."
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo".
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. "Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
"Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Mẫu 2
Văn chương là một bức tranh muôn màu, nó hiện ra dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ được lấy chất liệu từ hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những thứ xa xôi, hào nhoáng để mãn nhãn người đọc mà tiếp cận với người đọc bằng những thứ tình cảm chân thành, những chủ đề gần gũi. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ không chỉ thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc mà nó còn phả một luồng gió mới vào văn chương đương thời. Hòa mình vào không khí ấy, Chính Hữu với “ Đồng chí” như một hiện tượng xuất sắc về đề tài người lính. Cảm nhận bài thơ “ Đồng chí”, Chính Hữu đưa bạn đọc vào thế giới hiện thực nơi núi rừng biên giới tưởng xa lạ nhưng thấm đẫm tình đồng đội bằng thứ văn chương giản dị, mộc mạc.
Không thể phủ nhận rằng, để có được hai chữ “Độc lập Tự do” dân tộc ta đã đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng thanh xuân tươi trẻ của cả một thế hệ qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Từ hiện thực đầy đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời thì cách mạng như một tượng đài vĩnh cửu, một nguồn cảm hứng dạt dào, vô tận không bao giờ vơi cạn và góp phần làm nên tên tuổi của nhiều thế hệ các nhà văn, nhà thơ. Và Chính Hữu là một trong số đó.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng thứ ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng. "Đồng chí" là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Chính Hữu, được trích trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” viết vào đầu mùa xuân năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ ca ngợi tình đồng chí cao cả và thiêng liêng, gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của những người nông dân mặc áo lính giữa thời khói lửa.
Với giọng thơ như một cách kể chuyện thủ thỉ, tâm tình cùng Ngòi bút tài hoa, ngôn ngữ giản dị, đầy tính tự nhiên Chính hữu đã đi về với xuất thân để hình thành nên tình đồng chí:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Anh và tôi đều có xuất thân từ những người nông dân chân chất, mộc mạc. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn chất liệu dân gian để nói về quê hương của mình cùng với cấu trúc song hành, đối xứng , Chính Hữu đã thổi hồn vào để cho lời thơ đầy chân thành, chất thơ mộc mạc. Phải chăng sự đồng cảm và hiểu nhau là nhân tố, là bệ phóng cho tình đồng chí?.
"Anh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hẹn quen nhau".
Cùng hoàn cảnh, cùng chung lý tưởng lớn, các anh đã bước chân vào con đường đầy gian nan nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ là một cái duyên để cho các anh gặp gỡ, để cho những trái tim nồng nàn yêu nước có dịp hội tụ, đưa các anh từ những người nông dân chân lấm tay bùn xa lạ, chẳng hề thân quen thành những người bạn tri kỷ:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ"
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Những người nông dân mặc áo lính ấy chiến đấu vì chính mình và sự nghiệp chung của đất nước đã xóa nhòa mọi khoảng cách về không gian, thời gian, địa vị câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi thế đứng trong đêm hành quân. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều, không chỉ gần nhau về không gian địa lý mà còn là chung suy nghĩ, chung lý tưởng cách mạng. Tố Hữu cũng đã nói đến tình cảm người lính trong tập thơ Việt Bắc
Thương nhau chia củ sắn lùiát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Câu thơ 7, 8 rút ngắn với hai từ "đồng chí" như nghẹn lại như cái choàng vai tin cậy, như một dáng đứng vững chãi thu về một tâm điểm của sức mạnh niềm tin rắn rỏi .Xúc động xen lẫn tự hào khi nói về tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lý tưởng chiến đấu những người nông dân nồng nàn lòng yêu nước, thiết tha mong hai chữ độc lập tự do cho dân tộc. Chính Hữu đã thật tài tình khi sử dụng các từ ngữ như bên, sát, chung, thành đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỷ, tình đồng chí.
Những người lính ra đi có cùng chung xuất thân, hoàn cảnh. Vì vậy nỗi nhớ, động lực của các anh nơi tiền tuyến mưa bom bão đạn đều có chung hai chữ quê hương, từ đó làm thắm đượm thêm tình đồng chí:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà không mặc kệ gió lung layGiếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…...
Nếu hình ảnh người lính trí thức trong “Tây tiến” của Quang Dũng ra đi từ mảnh đất ngàn năm văn hiến sẽ nhớ về dáng Kiều thơm thì người lính trong thơ Chính Hữu lại nhớ về giếng nước, mái đình, gốc đa. Những chất liệu, hình ảnh dân gian "Cây đa cũ, bến đò xưa... ...", được Chính Hữu sử dụng một cách đầy tinh tế, điêu luyện, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, đong đầy nỗi nhớ quê hương của chàng trai mặc áo lính. Hai nỗi nhớ ở cả tiền tuyến và hậu phương, tình yêu quê hương và sự đồng cảm nơi xuất thân đã làm thắm đượm thêm hai chữ “ Đồng chí” , là nhân tố góp phần làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, thậm chí là đánh cược cả sinh mạng nơi tuyền tuyến mưa bom bão đạn.
Tình đồng chí, đồng đội trong thời kì kháng chiến chống Pháp như một nguồn cảm hứng dồi dào để các nhà thơ, nhà văn chắp bút. Và trong gian khổ, vẻ đẹp của tình người ấy tỏa ra một nguồn sáng hơn bao giờ hết:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Giờ đây, tác giả đã đưa vào câu thơ hàng loạt những chi tiết đầy tính chân thực. Đó là áo rách, quần vá, chân không giày. Câu thơ hiện lên bao sự gian khổ, thiếu thốn về vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Không những thế, nó còn là căn bệnh sốt rét rừng kinh niên mà người lính phải chịu đựng. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng nói đến căn bệnh này
Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá giữ oai hùm
Nhưng trong cùng khổ, với việc sử dụng thế đối xứng tôi - anh, Chính Hữu đã gợi lên sự đồng cảm, chia sẻ của người lính sát cánh bên nhau:
Áo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giá chân không giày..Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Những câu thơ tưởng chừng như là kể, là tả nhưng đến câu thơ “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nó không còn là kể, là tả nữa. Nó có gì đó một chút ngượng ngùng, vụng về trong tình cảm chân thật của người lính Cái hay của tứ thơ là sự lặp lại của những cặp đối xứng so sánh thật hồn nhiên “Tôi - anh”, “Quần - áo”, “Cười buốt giá - Chân không giày”. Hình ảnh người lính- đồng chí được nâng dần lên từ sự gian khó thiếu thốn bao nhiêu thì vẻ đẹp tâm hồn càng được nâng lên bấy nhiêu
Ba câu thơ cuối là một bức tranh đẹp nhất, hoàn hảo nhất về hình ảnh người lính:
Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo
Trong bức tranh ấy, nổi bật lên trên nền rừng hoang sương muối là sự kết hợp của ba hình ảnh: người lính, khẩu súng và vầng trăng. Nó tạo nên một khung cảnh vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh nơi rừng núi hoang vu, khắc nghiệt của thời tiết khi phải chịu cái rét thấu xương như hàng ngàn mũi dao đâm vào da thịt, khi mà cái chết đang cận kề bên mình người lính vẫn ung dung, bình thản cùng nhau “ chờ giặc tới”. Cách nói của Chính Hữu không chỉ cho ta thấy rõ hơn hoàn cảnh của cuộc chiến mà còn sáng ngời tinh thần chiến đấu của chú bộ đội cụ Hồ. Và trong không gian ấy, nhà thơ đã có một phát hiện rất thi vị:
"Đầu súng trăng treo".
Đây có lẽ là câu thơ hay nhất, lan tỏa nhất khi viết về anh bộ đội cụ Hồ của Chính Hữu. Lấy chất liệu từ hiện thực, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời trong một đêm khuya tĩnh mịch. Hai hình ảnh mang đầy tính đối lập. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu gian khổ, hy sinh nơi hiểm trở; trăng là biểu tượng của một sự yên bình - điều mà những người lính đang mong mỏi hướng tới. "Đấu súng trăng treo" là một hình ảnh đầy thi vị, trong cuộc chiến gian khổ, thậm chí phải hy sinh cả tính mạng của mình cho nền độc lập của Tổ quốc, họ vẫn bình thản, lạc quan, yêu đời. Họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Dù trong rừng hoang sương muối đêm tối và biết bao hiểm nguy, người lính thời kháng chiến chống Pháp vẫn mở rộng tâm hồn để cảm nhận hình ảnh đẹp đẽ của vầng trăng treo trên đầu mũi súng. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một hình ảnh đẹp nhất của Chính Hữu về người lính. Nó có thể coi là một sự đột phá thi ca mang nguồn cảm hứng,vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mạng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Dùng hình ảnh ánh trăng để tô đậm cái tư thế bình tĩnh, chủ động “chờ giặc tới". Mọi khó khăn, gian khổ, không khí căng thẳng của trận chiến đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp lung linh, huyền diệu của ánh trăng nơi rừng núi hoang sơ, hiểm trở.
Cảm nhận về bài thơ “Đồng chí”, có thể thấy Chính Hữu đã thổi một luồng gió nhẹ nhàng về tình đồng chí, đồng đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao. Với sự kết hợp của bút pháp hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, sử dụng chất liệu dân gian để làm cho những lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Trên đây là Sơ đồ tư duy bài Đồng chí do Top lời giải tổng hợp và biên soạn. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt bộ môn Văn. Tham khảo thêm nhiều bài Văn mẫu 9 được cập nhật liên tục tại toploigiai.vn em nhé.
Từ khóa » Sơ đồ Tư Duy Bài đồng Chí 9
-
Sơ đồ Tư Duy Đồng Chí Của Chính Hữu, Ngữ Văn Lớp 9 - Thủ Thuật
-
Sơ đồ Tư Duy Bài Thơ Đồng Chí Dễ Nhớ, Ngắn Gọn
-
Sơ Đồ Tư Duy Đồng Chí Chính Hữu ❤️️ 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
-
Sơ đồ Tư Duy Bài Đồng Chí (năm 2022) Dễ Nhớ - Ngữ Văn Lớp 9
-
Sơ đồ Tư Duy Bài Đồng Chí Lớp 9 Ngắn Gọn Nhất
-
Sơ đồ Tư Duy Đồng Chí - Chính Hữu
-
Sơ đồ Tư Duy Đồng Chí Của Chính Hữu - THPT Sóc Trăng
-
Sơ đồ Tư Duy Bài Đồng Chí Lớp 9 - CungHocVui
-
Sơ đồ Tư Duy Đồng Chí Lớp 9 Ngắn Gọn Hay Nhất - Hocvan12
-
Sơ đồ Tư Duy Đồng Chí Của Chính Hữu - Xfaster
-
Sơ Đồ Tư Duy Bài Đồng Chí Ngắn Gọn Và Dễ Hiểu - Clevai
-
Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí - Dàn ý Chi Tiết - Tin Công Chức
-
Sơ đồ Tư Duy Đồng Chí Của Chính Hữu, Ngữ Văn Lớp 9