SỚ VĂN DÂNG CÚNG TẠI THÁNH THẤT (BÀI 3)

A/. NGUYÊN VĂN BÀI SỚ:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Bát thập……..niên)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Thời duy

Thiên vận……niên, Tứ ngoạt, Sơ thập nhựt, ……thời, hiện tại Việt Nam quốc, ……..tỉnh, .…….huyện, .….…xã, cư trụ Thánh Thất chi trung.

Kim hữu đệ tử thọ Thiên ân……………, cộng đồng chư Chức sắc, hiệp dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng, quì tại Điện tiền thành tâm trình tấu:

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.

DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN.

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ TAM THANH ỨNG HÓA THIÊN TÔN.

KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI.

LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

HIỆP THIÊN ĐẠI ĐẾ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

GIA TÔ GIÁO CHỦ CỨU THẾ THIÊN TÔN.

THÁI CÔNG TƯỚNG PHỤ QUẢN PHÁP THIÊN TÔN.

TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN.

THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, VẠN CHƯỞNG CHƯ TIÊN, LIÊN ĐÀI CHI HẠ.

Kim vì kiết nhựt lương thần, hoài tưởng vọng niệm Đức HỘ PHÁP thọ đắc chơn truyền, chấn hưng Phật Đạo, đắc thành chánh quả, qui hồi Phật vị, cập kỷ niệm THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH, THẬP NHỊ THỜI QUÂN CHƯ THÁNH qui Thiên.

Chư thiên phong nghiêm thiết Đàn Tràng: Hương, đăng, hoa, trà,quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.

NGƯỠNG NGUYỆN

Đức HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH, THẬP NHỊ THỜI QUÂN thể đắc háo sanh đại đức, bác ái công bình, vận chuyển huyền diệu thần bút thường giáng oai linh hộ trì bố hóa chư đệ tử trí não quang minh, tinh thần mẫn huệ, thừa kế đại chí, bảo thủ chơn truyền, thật hành nhơn nghĩa, tế độ chúng sanh, hiệp hòa chủng tộc, Huynh đệ nhứt gia, cộng hưởng thái bình, thanh nhàn hạnh phước.

Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái, cẩn sớ thượng tấu

DĨ VĂN

B/. VIẾT RA CHỮ HÁN:

(八十……)

…., , , …., , …., …., …., .

…………., , 殿:

西

, , . , , .

: , , , , , .

, , , 十二時君, , , , , , , , , , .

,

.

C/. CHÚ THÍCH:

Hoài tưởng vọng niệm Đức HỘ PHÁP thọ đắc chơn truyền, chấn hưng Phật Đạo, đắc thành chánh quả, qui hồi Phật vị

Hoài tưởng : Tưởng nhớ đến những người đã qua.

Vọng niệm : Mong nhớ đến.

Hộ Pháp : Theo Đạo Cao Đài, Hộ Pháp là một phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài cao nhứt, nắm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, đối phẩm với hàng Phật vị.

Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, đêm 22 rạng 23 tháng 4 năm 1926, Đức Chí Tôn trục xuất Chơn thần của Ngài Phạm Công Tắc để Chơn thần Ngự Mã Thiên Quân nhập vào thân xác Phạm Công Tắc. Vì thế, Ngài Phạm Công Tắc trở thành Hộ Pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Nguyên căn Ngài Phạm Công Tắc là Ngự Mã Thiên Quân, được phong Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ.

Nơi Tòa Thánh Tây Ninh, Đức Hộ Pháp được thờ đối diện với ngôi Chánh Điện Đức Chí Tôn, hai bên Ngài là Thượng Phẩm và Thượng Sanh, sau lưng Ngài vẽ chữ Khí để thờ. Ngài ngự trên thất đầu xà, mình mặc Kim Khôi Kim Giáp, tay cầm cây Giáng ma xử.

Quyền hành, Nhiệm vụ và Đạo phục của Hộ Pháp được Đức Chí Tôn định rõ trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải.

Sau đây là sơ lược tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.

Ngài Phạm Công Tắc sanh ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch năm Canh Dần (dl 21/6/1890) tại làng Bình Lập bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An), nhưng song thân Ngài quê quán tại làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

Thân phụ của Ngài là Phạm Công Thiện được Đức Chí Tôn cho biết là chơn linh của Ngân Hà Công Bộ nơi Thiêng Liêng, thân mẫu là Bà La thị Đường.

Ngài Phạm Công Tắc là đứa con áp út trong một gia đình gồm 8 người con. Gia đình Ngài đều theo đạo Công giáo.

Năm 1902, cha Ngài mất khi Ngài mới 13 tuổi. Thuở nhỏ, Ngài theo học chữ Nho tại một trường làng, sau đó mới đổi qua Tây học và học hết bậc trung học tại trường Chasseloup Laubat Sài gòn. Năm 1907, Ngài đậu bằng Thành Chung. Trong thời gian học, Ngài có tham gia phong trào Đông Du (1904-1907) và Ngài có tên trong danh sách các thanh niên đi du học ở Nhựt, nhưng mật thám Pháp phát hiện được nhóm hoạt động liền phi tang hồ sơ, hủy bỏ chuyến đi đó.

Ngài Phạm Công Tắc tạm gác lại phong trào Đông Du, để quyết định xin đi làm việc để có tiền phụ giúp gia đình. Ngài làm ở sở Thương chánh Sài gòn.

Năm 21 tuổi, Ngài vâng lịnh lập gia đình với Bà Nguyễn thị Nhiều sanh đặng ba người con, nhưng chỉ còn lại hai gái là Phạm Hồ Cầm và Phạm Tần Tranh.

Năm 1912, thân mẫu của Ngài qui liễu khi Ngài được 22 tuổi, là cái tang đau đớn vô cùng đối với Ngài.

Lúc này Ngài thường để tâm nghiên cứu Thần linh học và tìm cách liên lạc với các vong linh của thế giới vô hình.

Vào hạ tuần tháng 7 năm 1925, Ngài cùng với ông Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang tổ chức xây bàn để tiếp xúc với các vong linh.

Nhờ việc xây bàn, cầu cơ mà Ngài cùng với một số Chức sắc đã trở thành Thiên sứ của Đức Chí Tôn trong việc khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngài đóng góp nhiều công to lớn để phát triển nền Đạo như:

-Lập Hội Thánh Ngoại Giáo.

-Xây dựng Tòa Thánh và Báo Ân Từ.

-Lập các phẩm Chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập Nhị Thời Quân.

-Lập Phạm Môn và cơ quan Phước Thiện.

-Xây dựng các Cung như Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung để sau này làm Tịnh Thất cho người tu chơn.

-Cất chợ Long Hoa và mở mang châu thành Thánh địa

-…v.v.

Vì quá lao tâm lao lực với nền Đạo, lại bị đày đọa khổ cực trong hơn 5 năm đồ lưu nơi hải đảo, và thêm những nỗi đau buồn khi lưu vong tại Nam Vang, Ngài đã mang bịnh và Đăng Tiên vào lúc 13 giờ 30 ngày 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (dl 17-5-1959), hưởng thọ 70 tuổi.(Xem hình trang sau)

Thọ đắc Chơn truyền : Thọ được mối Chơn truyền

Chấn hưng Phật Đạo : Đạo Phật đã truyền bá lâu đời, nên càng ngày càng xa rời Chánh pháp. Vì vậy, phải chấn hưng, tức là tìm cách làm mạnh mẽ, thịnh vượng lên những gì còn yếu đuối, suy sụp trong giáo lý Phật giáo.

Đắc thành chánh quả : Được thành chánh quả, tức là được đắc vị Tiên hay Phật.

Qui hồi Phật vị : Trở về với ngôi vị Phật.

Cập kỷ niệm THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH, THẬP NHỊ THỜI QUÂN CHƯ THÁNH qui Thiên.

Thượng Phẩm : Là một phẩm vị chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài, chưởng quản chi Đạo, làm việc dưới quyền Đức Hộ Pháp.

Thượng Phẩm được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Quỳnh Cư vào ngày 18 tháng 5 Bính Dần (dl 27-6-1926).

Cao Quỳnh Cư, hiệu là Bội Ngọc, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Cao Quỳnh Tuân, làm Cai Tổng Hàm Ninh Thượng,và mất lúc Ngài Cư mới được 10 tuổi. Thân mẫu của Ngài Cư là Bà Trần thị Huệ, sau đắc phong nữ Giáo Sư ngày 14 tháng giêng Đinh Mão.

Ngài có người anh thứ ba là Cao Quỳnh Diêu được đắc phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm 1927 và Bảo Văn Pháp Quân năm 1929.

THƯỢNG PHẨM

CAO QUỲNH CƯ

Năm 1907, Ngài lập gia đình với bà Nguyễn thị Hiếu ở Sài gòn. Bà Hiếu được Đức Chí Tôn phong làm nữ Giáo Sư năm 1927, sau thăng lên Đầu Sư năm 1968. Hai Ông Bà chỉ sanh được một người con trai là Cao Quỳnh An, nhưng mất sớm khi còn du học ở Pháp.

Năm 1915, Ngài Cao Quỳnh Cư làm thư ký sở Hỏa xa Sài gòn, sau 10 năm làm việc Ngài được lên ngạch Còm mi. Gia đình cư ngụ tại 134 đường Bourdais, nay là đường Calmette thuộc Quận Nhứt Sài gòn.

Nhờ việc xây bàn, cầu cơ mà sau Ngài ngộ đạo và được Đức Chí Tôn phong là Thượng Phẩm Hiệp Thiên Đài vào ngày 18 tháng 5 Bính Dần (dl 27-6-1826).

Ngài có công rất lớn trong việc phá rừng để xây cất Tòa Thánh tạm và di dời cốt Phật Tổ từ chùa Gò Kén về. Nhưng Ngài bị cơn khảo đảo dữ dội, do một nhóm người xua đuổi, phải lui về an dưỡng ở Thảo Xá Hiền Cung, rồi từ đó vì buồn rầu, vì thất chí nên Ngài sanh bịnh và đăng Tiên lúc 11 giờ trưa ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (dl 10-4-1929).

Thượng Sanh : Là phẩm vị chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài chưởng quản chi Thế, làm việc dưới quyền Hộ Pháp.

Thượng Sanh được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Hoài Sang vào ngày 18 tháng 5 Bính Dần (dl 27-6-1926).

Cao Hoài Sang sanh ngày 29 tháng 7 Tân Sửu (dl 11-91901) tại làng Thái Bình tỉnh Tây Ninh.

Thân phụ của Ngài là Cao Hoài Ân (Huệ Chương trong Đại Đạo Truy Nguyên viết là Cao Hoằng Ân), lúc sanh tiền làm việc tại Tòa Án, là vị Thẩm phán Việt Nam đầu tiên. Thân mẫu là Bà Hồ Thị Lự (đắc phong nữ Giáo Sư tại Kim Biên năm1927, thăng Phối Sư năm 1935 và thăng nữ Đầu Sư1968).

Ngài có ba anh em: Anh thứ hai là Cao Đức Trọng đắc phong Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài, người chị thứ ba là Cao Thị Cường đắc phong nữ Giáo Sư.

Thuở nhỏ Ngài học trường Sư phạm, thi đậu bằng Thành chung, rồi ra làm việc ở sở Thương chánh, Sài Gòn, lần lần được thăng lên ngạch Tham tá.

Ngài lập gia đình với Bà Võ Thị Giáo, sanh đặng 9 người con, gồm 5 người trai và 4 người gái.

Việc xây bàn để cầu các vong linh lần đầu tiên được tổ chức tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phổ hàng dừa gần chợ Thái Bình, Sài Gòn.

Ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn phong Ngài chức Thượng Sanh, chưởng quản chi Thế Hiệp Thiên Đài.

Năm Bính Thân (1956), Đức Hộ Pháp phải lưu vong sang Miên quốc, không người lèo lái thuyền Đạo, nên Hội Thánh yêu cầu Đức Ngài về Tòa Thánh cầm giềng mối Đạo.

Từ đó Đức Ngài về tái thủ phận sự nơi Tòa Thánh, cho đến ngày 26 tháng 3 năm Tân Hợi (dl 21-4-1971) Ngài ngọa bịnh và đăng Tiên vào lúc 17 giờ, hưỏng thọ 71 tuổi.

THƯỢNG SANH

CAO HOÀI SANG

Thập Nhị Thời Quân : Là mười hai vị Chức sắc Đại Thiên phong của Hiệp Thiên Đài thuộc ba chi: Pháp, Đạo, Thế, dưới quyền của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh.

Thập Nhị Thời Quân gồm các vị sau:

* Dưới quyền Hộ Pháp:

–Bảo Pháp: Nguyễn Trung Hậu.

–Hiến Pháp: Trương Hữu Đức.

–Khai Pháp: Trần Duy Nghĩa.

–Tiếp Pháp: Trương Văn Tràng.

* Dưới quyền Thượng Phẩm:

–Bảo Đạo: Ca Minh Chương.

–Hiến Đạo: Phạm Văn Tươi.

–Khai Đạo: Phạm Tấn Đãi.

–Tiếp Đạo: Cao Đức Trọng.

* Dưới quyền Thượng Sanh:

–Bảo Thế: Lê Thiện Phước.

–Hiến Thế: Nguyễn Văn Mạnh.

–Khai Thế: Thái Văn Thâu.

–Tiếp Thế: Lê Thế Vĩnh.

Thể đắc háo sanh đại đức bác ái, công bình vận chuyển huyền diệu thần bút thường giáng oai linh

Háo sanh đại đức : Đức hiếu sinh to lớn, tức là đức thương yêu sự sống muôn loài rất to lớn.

Công bình : Ngay thẳng, không thiên vị bên nào.

Thần bút : Cây bút thần. Ở đây chỉ cơ bút.

Oai linh : Có oai lực thiêng liêng như Thần Thánh.

Hộ trì : Che chỡ và gìn giữ.

Thừa kế đại chí, bảo thủ chơn truyền, thật hành nhơn nghĩa, tế độ chúng sanh

Thừa kế đại chí : Nối tiếp theo cái ý chí to lớn của người xưa.

Bảo thủ Chơn Truyền : Gìn giữ những giáo pháp chơn thật để truyền lại cho người sau.

D/. GIẢI NGHĨA:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Năm Đạo thứ Tám mươi….)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Hôm nay thời:

Vận Trời năm….., tháng Tư, ngày Mùng mười, ……giờ, hiện tại nước Việt Nam, …….tỉnh, ………huyện, ………xã, ở trong Thánh Thất….

Nay có vị đệ tử thọ Thiên ân là…………., cùng tất cả các Chức sắc, hiệp chung với Chức việc, Đạo hữu nam nữ các cấp, đồng quì trước Điện thành tâm trình tâu cùng:

TRONG HUỲNH KIM KHUYẾT

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

GIÁO CHỦ TAM GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

BA TRẤN OAI NGHIÊM TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đ. Đ. T. K. P. Đ.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, Vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

Hôm nay là ngày lành giờ tốt, ngày tưởng niệm đến Đức HỘ PHÁP thọ được mối Chơn truyền, chấn hưng nền Phật Đạo, và đắc được Chánh quả để trở về với ngôi vị Phật, cùng kỷ niệm THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH, THẬP NHỊ THỜI QUÂN, và các vị Thánh đã về chầu Đức Chí Tôn.

Chư Thiên phong trang nghiêm thiết lễ Đàn cúng gồm: Hương, hoa, trà, quả, rượu tinh khiết đúng theo nghi thức xin thành tâm hiến dâng lễ này.

Chúng con ngẫng lên nguyện cầu:

Đức HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH, THẬP NHỊ THỜI QUÂN đạt được đức háo sanh to lớn, bác ái công bình, vận chuyển ngọn thần bút huyền diệu thường giáng oai linh gìn giữ và cảm hóa cho chúng con trí não sáng suốt quang minh, tinh thần lanh lẹ minh mẫn, tiếp nối để kế thừa chí cả hầu gìn giữ chơn truyền, thi hành nhơn nghĩa, cứu giúp chúng sanh, hiệp hòa chủng tộc, anh em sống chung như một nhà, cùng hưởng đời thái bình, an ninh hạnh phước.

Chúng con đồng thành tâm cúi đầu bái lạy và kính cẩn dâng sớ này tâu lên.

Kính trình.

Từ khóa » Chú Giải Sớ Văn