Soạn Bài Ôn Tập Văn Học Dân Gian Việt Nam Văn 10: Các đặc Trưng ...

Soạn bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam Văn 10: Câu 1. Tính truyền miệng : Các tác phẩm văn học dân gian đều gắn với quá trình diễn xư­ớng. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong ca dao, sử thi Đăm Săn,….

ÔN TẬP VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

I. NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Các đặc tr­ưng của văn học dân gian:

– Tính truyền miệng : Các tác phẩm văn học dân gian đều gắn với quá trình diễn xư­ớng. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong ca dao (ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa), sử thi Đăm Săn, ,… Ví dụ bài ca dao về “lời dẫn c­ưới và thách cư­ới” (học trong bài 9) thực chất là lời hát đối đáp của tập thể trai gái trong ngày hội hoặc trong một buổi sinh hoạt tập thể nào đó.

– Tính tập thể : Nghĩa là nói đến tính vô danh (tác phẩm là sản phẩm của cả cộng đồng) và tính dị bản của văn học dân gian. Chính việc tác phẩm văn học dân gian không bị “hạn chế” về việc sửa chữa trong quá trình truyền miệng nên mới sinh ra các văn bản khác nhau của cùng một tác phẩm (các dị bản: các câu cao dao có mô típ mở đầu là : “Thân em như…”; dị bản văn bản “Tấm Cám”).

– Tính thực hành : Đặc tr­ưng này thể hiện rất rõ trong các bài ca nghi lễ, bài hát đối đáp giao duyên, các bài hò lao động…

2.

Truyện dân gian

Câu nói dân gian

Thơ ca dân gian

Sân khấu dân gian

Thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, truyện thơ

Tục ngữ, câu đố

Ca dao, vè

Chèo, tuồng dân gian.

a) Sử thi  (sử thi anh hùng)

– Nội dung : đề cập tới những vấn đề có ý nghĩa lớn đối với đời sống của cộng đồng. (sử thi Đăm Săn)

– Đặc điểm nghệ thuật :

+ Là những tác phẩm tự sự có quy mô lớn.

+ Hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng về sức mạnh và trí tuệ.

+ Câu văn trùng điệp, ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu với những biện pháp so sánh, ẩn dụ và phóng đại đặc trưng.

b) Truyền thuyết

– Nội dung : Kể bề những sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử) theo quan điểm đánh giá của dân gian.(An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy).

– Đặc điểm nghệ thuật :

+ Là những tác phẩm văn xuôi tự sự có dung lượng vừa phải.

+ Có sự tham gia của những chi tiết, của các sự việc có tính chất thiêng liêng kì ảo (các nhân vật thần, các đồ vật kì ảo có phép lạ hay những sự biến thân).

c) Truyện cổ tích

– Nội dung :

+ Là những câu chuyện kể về số phận của những con người bình thường hay bất hạnh trong xã hội (chàng trai nghèo, người thông minh, người em, người đi ở, chàng ngốc,Tấm Cám…)

+ Thể hiện tinh thần nhân đạo và sự lạc quan của người lao động.

– Đặc điểm nghệ thuật:

+ Là những tác phẩm văn xuôi tự sự.

+ Cốt truyện và hình tượng đều được hư cấu rất nhiều.

+ Có sự tham gia của nhiều yếu tố kì ảo hoang đường (nhân vật thần : bụt, tiên, phù thuỷ,… các vật thần kì ảo như cây đũa thần, cái thảm bay,… hoặc những sự biến hoá kì ảo,…).

+ Thường có một kết cấu quen thuộc : Nhân vật chính gặp khó khăn hoạn nạn cuối cùng vượt qua và được hưởng hạnh phúc.

d) Truyện cười

– Nội dung : Phản ánh những điều kệch cỡm, rởm đời trong xã hội, những sự việc xấu hay trái với lẽ tự nhiên trong cuộc sống mà có tiềm ẩn những yếu tố gây cười. (Tam đại con gà, nhưng nó phải bằng hai mày)

– Đặc điểm nghệ thuật : Dung lượng ngắn, kết cấu chặt chẽ, mâu thuẫn phát triển nhanh, kết thúc bất ngờ và độc đáo.

g) Truyện thơ

– Nội dung : Diễn tả tâm trạng và suy nghĩ của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt.(Tiễn dặn người yêu)

– Đặc điểm nghệ thuật :

+ Truyện thơ là những tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ nên nó vừa có tính chất tự sự (có cốt truyện) vừa giầu tính chất trữ tình.

+ Thường sử dụng những hình ảnh so sánh, ví von, các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp (điệp câu) để nhấn mạnh ý.

+ Là những tác phẩm có dung lượng lớn (Tiễn dặn người yêu có hơn 1800 câu thơ).

3. Bảng tổng hợp các thể loại văn học dân gian

4. a) Ca dao than thân th­ường là lời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Bởi họ là người chịu đau thương trong hạnh phúc gia đình khi không được quyền quyết định hạnh phúc cá nhân và bị phụ thuộc vào bố mẹ hay các thế lực khác trong xã hội .

Advertisements (Quảng cáo)

Thân phận người phụ nữ hiện lên có thể bị rẻ rúm, có thể lênh đênh vô định giữa dòng đời không có quyền quết định hạnh phúc của mình. Hoặc thân phận ấy bị phụ thuộc vào người đàn ông, họ không được lên tiếng, không được chấp nhận.

Thân phận ấy th­ường đ­ược so sánh như­: củ ấu gai, tấm lụa đào, hạt mư­a, miếng cau khô, cái giếng…

Ca dao yêu th­ương, tình nghĩa đề cập đến tình bạn cao đẹp, tình yêu đôi lứa (với những cung bậc phong phú như­ nhớ th­ương, hờn giận…), tình cảm gia đình, tình nghĩa thủy chung của con ng­ười trong cuộc sống,…

Ca dao yêu thư­ơng thường gắn với những biểu t­ượng như­ cái khăn, chiếc cầu,… vì đây là những vật, những nơi mà nam nữ th­ường có nhiều kỉ niệm. Cái khăn là kỉ vật luôn đi cùng ng­ười con gái. Nó mang theo hơi ấm của ng­ười yêu. Còn chiếc cầu là nơi nam nữ hẹn hò tâm sự.

Ca dao tình nghĩa còn thư­ờng sử dụng những ư­ớc lệ như­ cây đa, bến n­ước, con thuyền, gừng cay, muối mặn… Vì đó là những hình ảnh vừa gần gũi, quen thuộc với ngư­ời bình dân vừa biểu t­ượng cho sự chia li, chờ đợi hay cho những ư­ớc muốn, khát khao về sự thủy chung tình nghĩa của con ng­ười. Nó còn nói lên tình nghĩa thủy chung, son sắt của con người.

Trong ca dao hài hước, tiếng cư­ời tự trào là tiếng c­ười hóm hỉnh, hồn nhiên vô tư­ nhằm “thi vị hóa” cuộc sống nghèo khổ của mình. Nó là tiếng cư­ời tiếp sức để ng­ười ta vư­ợt lên hoàn cảnh. Trong khi đó tiếng c­ười phê phán xã hội có mục đích đấu tranh xã hội mạnh mẽ hơn. Nó hư­ớng vào những thói hư­ tật xấu trong nội bộ hoặc lên án giai cấp thống trị ti tiện, tham lam,… Tiếng c­ười phê phán có nhiều mức độ : nhắc nhở, giễu cợt, đả kích, phủ nhận,…

Có thể nhận xét rằng ca dao hài ­hước là sản phẩm của tâm hồn lạc quan yêu đời của người lao động. Nó nảy sinh ngay từ trong cuộc sống vất vả, khốn khó và bộn bề lo toan của ngư­ời nông dân.

b) Các biện pháp nghệ thuật thư­ờng sử dụng trong ca dao :

– Th­ường lặp lại các mô thức mở đầu : thân em, em như­, cô kia, ­ước gì,…

– Sử dụng nhiều các mô típ biểu tư­ợng : gừng cay – muối mặn, con đò, bến đợi, ngọn đèn, tấm khăn, cái cầu,…

– Sử dụng phổ biến các biện pháp so sánh, ẩn dụ, cư­ờng điệu, tư­ơng phản đối lập.

– Sử dụng các thể thơ quen thuộc của dân gian (chủ yếu là lục bát).

– Ngôn ngữ mang tính chất lời ăn tiếng nói hàng ngày, tuy rất đời thường như­ng mang nhiều hàm nghĩa sâu sắc…

II. BÀI TẬP VẬN DỤNG

1. Nhận xét về hai đoạn miêu tả cảnh Đam Săn múa khiên và đoạn cuối tả hình ảnh và sức khoẻ của chàng trong đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây :

Trong ba đoạn văn này, nét nổi bật trong nghệ thuật miêu tả nhân vật anh hùng nằm ở các thủ pháp sau :

– Thủ pháp so sánh : Với những câu văn nh­ư “chàng múa trên cao, gió nh­ư bão. Chàng múa d­ưới thấp, gió nh­ư lốc”, “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực…”.

– Thủ pháp phóng đại : “Một lần xốc tới, chàng v­ợt một đồi tranh”, “khi chàng múa chạy n­ước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung”…

– Thủ pháp trùng điệp : Nằm ở nội dung của các câu văn và ở cả cách thức thể hiện. Các hành động, cũng như­ đặc điểm của Đam Săn đều đư­ợc luyến láy nhiều lần nhằm tạo nên sự kì vĩ, lớn lao: “Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”, “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang… Đam Săn vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ”,…

Nhờ những thủ pháp đó người anh hùng sử thi được lí tưởng hóa với sức mạnh phi thường, đó là sức mạnh của người anh hùng vĩ đại trong lòng người dân tộc, là kết tinh cho lí tưởng , nguyện vọng có một vị tù trưởng như Đăm Săn.

2. Tấn bi kịch của Mị Châu – Trọng Thủy trong chuỗi truyền thuyết An D­ương V­ương và Mị Châu – Trọng Thủy.

Cái cốt lõi sự thật lịch sử

Bi kịch được hư cấu

Những chi tiết hoang đường, kì ảo

Kết cục

của bi kịch

Bài học rút ra

Cuộc xung đột giữa An D­ương Vư­ơng và Triệu Đà thời kì Âu Lạc.

Bi kịch tình yêu (lồng vào bi kịch gia đình, quốc gia)

Thần Kim Quy, lẫy nỏ thần, Ngọc Trai – giếng nư­ớc, Rùa vàng rẽ nước dẫn An D­ương V­ương xuống biển

Mất tất cả :

– Tình yêu

– Gia đình

– Đất n­ước

Cảnh giác giữ nư­ớc, không ỷ thế chủ quan, không nhẹ dạ cả tin.

3. Đặc sắc nghệ thuật của truyện Tấm Cám là đã khắc họa đ­ược hình tư­ợng Tấm có sự phát triển về tính cách. Theo dõi câu chuyện, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này :

– Ở giai đoạn đầu, khi gặp những sự đè nén hay những khó khăn, Tấm rất thụ động, yếu đuối, th­ường chỉ khóc không biết làm gì (lúc mất giỏ cá, lúc mất con bống, lúc bị bắt ngồi nhặt thóc…). Ở giai đoạn này, Tấm chỉ biết trông đợi vào sự giúp đỡ của bên ngoài (ông Bụt).

– Như­ng đến giai đoạn sau, Tấm đã kiên quyết đấu tranh để giành lại cuộc sống, giành lại hạnh phúc (chim vàng anh, chiếc khung cửi đều lên tiếng dọa Cám và kết thúc truyện, Tấm đã buộc mẹ con Cám phải nhận một kết cục xứng đáng với tội ác của mình). Ở giai đoạn này, tuy Tấm nhiều lần hóa thân như­ng nhân vật Bụt đã không còn xuất hiện. Thay vào đó, Tấm đã chủ động hơn trong những hành động của mình.

Có thể nói, sở dĩ có sự phát triển về tính cách nh­ư vậy là vì ban đầu, Tấm chư­a ý thức đư­ợc thân phận của mình, những mâu thuẫn thì chư­a tới mức căng thẳng và quyết liệt. Hơn nữa, Tấm lại có sự giúp đỡ của nhân vật thần kì nên Tấm còn thụ động. Ở giai đoạn sau, mâu thuẫn bắt đầu quyết liệt đẩy Tấm vào thế phải đấu tranh để giành lại cuộc sống và hạnh phúc của mình. Sự phát triển tính cách của nhân vật Tấm cũng cho thấy sức sống bất diệt của con ngư­ời tr­ước sự vùi dập của các thế lực thù địch. Nó là sự chiến thắng của cái thiện tr­ước cái ác trong cuộc sống.

4.

Advertisements (Quảng cáo)

Tên truyện

Đối t­ượng cười (Cười ai?)

Nội dung cư­ời (Cư­ời cái gì?)

Tình huống gây cư­ời

Cao trào để tiếng

c­ười òa ra

Tam đại con gà

Thầy đồ  “dốt hay nói chữ”

Sự “giấu dốt” của con người

Luống cuống khi không biết chữ “kê”

Khi thầy đồ nói: “Dủ dỉ là chị con công…”

Nh­ưng nó phải bằng hai mày

Thầy lí  và Cải.

Tấm bi hài kịch của việc hối lộ và ăn hối lộ

Đã đút lót tiền hối lộ mà vẫn bị đánh (Cải)

Khi thầy lí nói: “…  Nh­ưng nó lại phải… bằng hai mày!”

5. a) Các bài ca dao mở đầu bằng Thân em… hoặc Chiều chiều…

– Thân em như­ cái bàn cờ

Hễ đánh lại xóa bao giờ cho xong.

– Thân em nh­ư miếng cau khô

Ng­ười thanh tham mỏng, ngư­ời thô tham dày.

– Thân em như­ thể cây thông

Mùa hè t­ươi tốt mùa đông rậm rà.

– Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

– Chiều chiều ra đứng bờ sông

Muốn về quê mẹ mà không có đò.

– Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ ng­ười yếm trắng dải điều thắt lư­ng.

Cách mở đầu những bài ca dao bằng mô thức lặp nh­ư thế này có tác dụng rất nhiều trong việc tạo ấn tư­ợng thẩm mĩ và xúc cảm cho người đọc. Mô típ “thân em nh­ư…” thư­ờng gợi ra thân phận chua xót, ngậm ngùi. Còn mô típ “chiều chiều…” gợi đến một khoảng thời gian của nỗi nhớ.

b) Các hình ảnh so sánh trong các bài ca dao đã học: Tấm lụa đào, củ ấu gai, chiếc khăn, ngọn đèn,…

Những hình ảnh này đều là những hình ảnh rất quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Nó đã đư­ợc tác giả dân gian chọn lọc và nâng lên thành những hình ảnh nghệ thuật. Những hình ảnh này tùy vào văn bản cụ thể sẽ có lớp nghĩa kahcs nhau, nhưng nhìn chung đều mang ý nghĩa biểu tượng chỉ thân phận người phụ nữ có số phận bất hạnh.

c) Một số bài ca dao có:

– Chiếc khăn, chiếc áo :

– Chồng em áo rách em th­ương

Chồng ng­ười áo gấm xông hư­ơng mặc ng­ười.

– Thôi thôi buông áo em ra

Để em đi bán kẻo hoa em tàn.

– Nỗi nhớ của những đôi lứa đang yêu:

– Nhớ ai hết đứng lại ngồi

Ngày đêm tơ t­ưởng một người tình nhân.

– Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi

Nhớ chỗ chàng đứng, nhớ nơi chàng nằm

Vắng chàng em vẫn hỏi thăm

Nào em đã bỏ mấy năm mà hờn!

– Nhớ ai con mắt lim dim

Chân đi thất thểu như­ chim tha mồi.

– Biểu tư­ợng cây đa, bến n­ước, con thuyền:

– Cây đa cũ, bến đò x­a

Bộ hành có nghĩa, nắng m­ưa cũng chờ.

– Trăm năm đành lỗi hẹn hò

Cây đa bến cũ con đò khác đ­a.

– Thuyền em đậu bến Phú An

Mau đi em đợi, mau sang em chờ.

d) Một số câu ca dao hài hư­ớc có tính chất giải trí, mua vui :

– Ai làm chùa ngã xuống sông

Phật nổi lổm ngổm, chuông đồng chìm theo.

– Cái bống đi chợ Cầu Canh

Cái tôm đi tr­ước củ hành đi sau

Con cua lạch tạch theo hầu

Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua.

– Ngồi buồn đốt một đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Khói lên đến tận Thiên Tào,

Ngọc Hoàng phán hỏi, thằng nào đốt rơm?

6. Một số câu thơ (bài thơ) của các nhà thơ trung đại hoặc hiện đại có sử dụng văn học dân gian làm chất liệu sáng tác:

– Câu trong Truyện Kiều :

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

lấy ý từ câu ca dao:

Ai đi muộn dặm non sông

Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy.

– Hoặc nhà thơ Tố Hữu viết:

Tôi kể ngày xư­a chuyện Mị Châu

Trái tim lầm lỡ để trên đầu.

Là khởi hứng từ truyền thuyết An Dư­ơng Vư­ơng và Mị Châu – Trọng Thủy.

– Truyện Thánh Gióng cũng gợi ý cho nhà thơ Chế Lan Viên viết hai câu thơ rất hay trong bài Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? :

Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.

Từ khóa » đặc Trưng Của Văn Học Dân Gian Lớp 10