- Trang chủ
- Du khách
- Ký ức - Cảm xúc
Sơn La Ký sự - Bài 51: Thơ ca Thái 27/12/2013 Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư). Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử 'Quắm tố mướng' hoặc sử thi 'Tày pú xấc' cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để 'khắp' (hát)…. Bước đầu đã có làn điệu 'lòng bản' và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì: - Hệ tín ngưỡng 'hát thơ mo' do giới mo then hát khi cúng tế lễ. - Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv…. Ở người Thái 2 chữ 'thơ ca' quả là đầy đủ và ý nghĩa 'Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó'. Thơ Thái là 1 thứ 'kinh thi' bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng. Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới: HÀO QUANG KHẨU CẢ (tác giả tự dịch) Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1) Là nói lên: - Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước. Nhưng: Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước ViệtNamĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng. Sơn La, 9/7/1998 Hoàng Nó (Cầm Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn. (1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề. Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La. ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ Mặt trời đi qua sàn nhà người thương Hạt nắng còn vương bên thềm cửa sổ Hoàng hôn đi mặt trời không rủ Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn. Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ Mười sẽ quên và chín sẽ quên 'Sông Mã cạn bằng đĩa mới quên' Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ! Anh là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt Để đôi bờ bên nhớ bên thương 6/1997 Hà Trường Giang (1950) Quê huyện sông Mã - Sơn La VÀNG VÀ THƠ Một câu thơ, một hàng vàng Cân coi thử, ai nặng hơn ai? Nem công, chả quế ăn vội Không hóc cũng cay! Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim Cái gì giữ mãi hương thơm Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim Cầm Biêu (1920-1997) Quê Mường Chanh - Mai Sơn LỜI MẸ Yêu nhau bằng lời nói Mẹ bảo chưa đủ Bằng mân khiêng cỗ nặng Mẹ bảo cũng chưa no Vội đón sau đón trước Cành vướng sợi tơ lòng Mẹ bảo! Hãy lấy ngày làm gang để đếm Lấy tháng làm sải để đo tấc lòng Mưa to có cùng nhau hứng? Mặt trời làm tấm gương soi Soi vào khuôn mặt Soi vào lòng dạ tim gan Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt… Đầu lưỡi nếm cho rành Tự đáy lòng mình 'cân đong' Xử sự công bằng 1983 Lò Văn Cậy (1928 - 1994) Quê Sốp Cộp - Sông Mã HOA RỪNG Thấy em lượm bông vạt nương chân núi Như đứng giữa dải ngân hà Anh vứt bó cây, chạy ngay tới Chẳng đợi em ưng ý Anh cứ mà lượm theo. Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia Rồi lượm chung cây Lượm chung cành Lượm cả tay nhau. Mặt trời bảo về, ta chưa muốn Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động Hàng cúc bạc long lanh Ngực em mười đôi cúc bướm Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng Ngực rực hồng tia nắng Ngực ngấn đầy hương hoa. Vương Trung (1938) ÁNH CHỚP TRỜI XA Mưa rơi trên núi Giảng? Chớp lóe sáng chân mây! Ai phơi gì sàn ngoài quên dọn. Mau dọn! Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than: - Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1) 'Rồng chọi rồng' ngày đêm không ngớt. Cất tiếng cười hai cháu cầm tay - Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi! (1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn Tháng 6: trời kiêng mưa Sơn La 19 - 5 - 1979 Lò Văn E (1933 - 1995) Quê Sốp Cộp - Sông Mã NHỚ CON Có điều gì sánh được Mẹ nhớ con Thương từ những lỗi lầm Mưa lâm thâm mà lòng mẹ thành bão Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây Tình yêu của mẹ là trái chín trên cây Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say 11 - 1992 Cầm Thị Phụi (Phó chủ tịch HĐND tỉnh) ĐÊM HỘI MÚA XÒE Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giã Như chắp cánh niềm vui bay cao Cả 'Khuống' mường bỗng dưng nghiêng ngả Với vòng xòe nhún nhẩy say sưa Đôi chân thon thon quen theo lối nương. Đôi chân bè đạp mòn lối ruộng Quyện bên nhau rập rình 'Khắm xéo' quàng trên áo cóm Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo Cái dùi gỗ băm trên mặt trống Rền như giông, như sấm 'Họa…họa…Huệ…Huệ…' Cả vòng xòe cuồng lên Theo nhịp trống, nhịp tim Tung chân nhảy hết mình, hết sức 'Đàn bướm' cúc muốn bay khỏi ngực Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo Vòng xòe quay, quay mãi không ngừng Lương Văn Tộ (1946) Quê Sông Mã - Sơn La CÂY BAN TRÊN RỪNG (Tác giả tự dịch) Ào ào bãi xoáy Đá lăn, cây đổ Thân sâng, gốc sở ngổn ngang Một cây Ban đứng điềm nhiên Cạnh lối lên nương làm cỏ Hỏi giông, hỏi gió Sao Ban kia vẫn bình yên phận thường? Cây ban rằng: 'hòa tình yêu' Trắng trong tuổi trẻ Chung thủy tận già Lửa mường đất gốc, chưa thành than (thì không thể chết Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh) Một cây Ban Đứng trên nương Lò Xuân Thương (1936) Quê Púng Tra - Thuận Châu CHIỀU BẾN VẠN (1) Bến cũ đâu hỡi sông? Bến ở trong lòng nước Miệt mài ngày đêm chảy Về Hòa Bình khơi xa. Bản tình ca bất tận Gập ghềnh đá nơi đâu? Ở trong lòng nước ấy Với biển hồ phẳng lặng Xóa những dòng vách ngăn. Và mai lên Ngược xuôi Thuyền đánh cá Và chiều buông Sương giăng tròn Trăng xóa Còi tàu vang xa, vang xa Bến Vạn Yên 1995 Hoàng Bạch Long 1949 Quê Huy Thượng - Phù Yên (1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông. KHOẢNG XANH Gió Lào mang hơi lửa Hun sém cả trưa hè Cháy khét tiếng ve Rừng tre trơ trụi lá Con chim vội vã sà xuống khe trốn Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt! Đến con kiến cũng còn phải ung dung thư thái Miệt mài tha mồi về tổ Ai như quả bứa chín vàng mơ Trong trẻo giữa trưa hè Thời gian nhòa vào im lắng Một khoảng không trống vắng Vỗ ào vào cánh xanh Lò Vũ Vân 1943 Quê Bắc Yên - Sơn La XUÂN BẢN THÀN Tết Ở bản Thàn Cái vui Sôi lên từ hũ rượu cần Bụng trống Vú chiêng Rung lên Cả mái sàn chao đảo Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu Măng vầu Măng sặt Dỏng tai đón mưa rơi Xuân 1996 Lò Vũ Vân BIỂN Ở THẢO NGUYÊN Ở độ cao một nghìn năm mươi mét Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao Ước có biển nên gom mây về làm biển Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông Đảo là những ngọn thông, chóp núi Cho thuyền chim đi về neo đậu Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn huyền ảo Đưa ta về thời xưa cổ tích Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung? Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc Bỗng chốc tan - biển biến về đâu? Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên. Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997 Lò Vũ Vân NHỚ VỀ PHỐ VẠN Chúng tôi dân tứ xứ Gặp nhau ở nơi đây Dựng nên một Phố nhỏ Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1) Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2) Tôi Mường Bi, Mường Động (3) Còn chị hay mơ mộng Theo chồng lên nơi đây Là dân Nam Định đó (4) Một dãy phố nhỏ thôi Bao dòng đời đã chảy Tụ về Phố nhỏ này Nhớ bến Vạn thuở ấy Thuyền đuôi én ngược xuôi Ai đi xuống chợ Bờ Ai ngược dòng Đà Giang Lên Mường Chiên, Mường Ét Dòng sông vẫn êm trôi Nối phố nhỏ của tôi Với bao bờ thương nhớ Ơi bến Vạn, phố Vạn Phố của chúng tôi đó Mùa đông heo hút gió Tết về câu đối đỏ Tiếng pháo lại rộ vang Tiếng chuông điểm đình Ang (7) Tiếng trống vang đình Hán Hồn thiên cổ bay về Bản làng trong khói hương Mùa hè nóng rát bỏng Những cây phượng trước ngõ Lại cháy đỏ màu hoa… Nay phố đã đi xa Chìm đáy nước sông Đà Ôi phố núi nho nhỏ Phố của chúng tôi đó Vẫn cháy màu phượng đỏ Trong lòng mỗi chúng tôi Rồi một ngày không xa Hoa phượng lại rực đỏ Trên phố mới nguy nga Tôi lại viết bài ca Về bến Vạn, phố Vạn Phố của hoa phượng đỏ Thắm mãi bên sông Đà 6/1996 (1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên) (2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa (3) Thuộc Hòa Bình quê người Mường (4) Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ (5) Thuộc Quỳnh Nhai (6) Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong Nhà thơ Đinh Tân (1942) Dân tộc Mường Quê Tân Phong, Phù Yên, Sơn La CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA
Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12 dân tộc anh em. Thái | 482.985 | Người chiếm 54,7 % | Kinh | 153.646 | Người chiếm 17,42% | Hmông | 114.578 | Người chiếm 13,00% | Mường | 71.906 | Người chiếm 8,15% | Các dân tộc khác | Người chiếm 6,73% |
Trình độ dân trí tính đến 2002: Tỉ lệ biết chữ 70,8% Học sinh phổ thông 220.430 em Giáo viên 10.209 người Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện | Họ tên | | | Email | | | Tiêu đề | | | Nội dung | | | Mã kiểm tra | | - Sơn La Ký sự - Bài 52: Chuyện tình ở Chiềng Ly 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 50: Nhạc khí Thái 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 49: Xòe Thái 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 48: Câu chuyện săn voi 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 47: Người bắn hổ 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 46: Du lịch Mộc Châu 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 45: Lễ hội Lung ta 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 44: Mó suối nước nóng 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 43: Đèo Pha Đin 27/12/2013
- Sơn La Ký sự - Bài 42: Cổ tích 27/12/2013
|