SỐNG CHỤ SON SAO (Tiễn Dặn Người Yêu) | Nghiên Cứu Lịch Sử
Có thể bạn quan tâm
SỐNG CHỤ SON SAO (Tiễn Dặn Người Yêu) TẬP ĐẠI THÀNH CỦA VĂN HỌC THÁI (Việt Nam)
THÁI DOÃN HIỂU giới thiệu
Nguyễn Khôi là nhà thơ được chúng tôi tuyển vào bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI. Sự nghiệp của anh gồm có thơ ca, biên khảo và dịch thuật. Về phương diện dịch thuật anh có công trình Sống Chụ Son Sao rất có giá.
Truyện thơ Tiễn dặn người yêu (Sống Chụ Son Sao) là một thiên trường ca trữ tình kết hợp giữa truyện dân gian và thơ ca dân gian. Theo truyền thuyết, đây là câu chuyện tình của một đôi trai gái ở bản Panh và bản Sái thuộc xã Tranh Đấu, huyện Thuận Châu (tức Mường Muổi, Sơn La ngày nay). Sống Chụ Son Sao là đỉnh cao của văn học Thái đen(Tây Bắc Việt Nam) biểu trưng cho ngôn ngữ Thuận Châu, Mường La. Ra đời trong xã hội thịnh trị của thế kỷ XVII ở vùng Tây Bắc Đại Việt, ngôn ngữ thơ đã đạt đến trình độ điêu luyện, hầu hết các thể thơ Thái thông dụng đã được sử dụng trong Sống Chụ Son Sao, từ thể “Khắp Bắc” câu dài 11, 12 chữ, đến thể “Khống khái” câu ngắn 5, 6 chữ. Các thể thơ này được dùng xen kẽ với nhau khá nhuần nhuyễn.
Tiễn dặn người yêu – áng thơ tuyệt diệu xin được tóm tắt như sau : Một đôi nam nữ sinh ra cùng lứa. Khi đến tuổi cập kê, họ bén duyên nhau, chàng trai sắm lễ vật sang nhà dạm hỏi. Nhưng bố mẹ không ưng, chê nghèo, ép gả cô cho người khác giàu và ở một bản xa. Chàng trai thất tình, đeo nặng nỗi buồn thương, phẫn chí bỏ sang Lào đi buôn mong kiếm đủ bạc vàng chuộc lại người yêu. Nhưng chợ đời đâu dễ kiếm tiền, chàng trai lam lũ vật lộn gian nan ở quê người. Là phận gái, cô dâu đau buồn vẫn không vượt qua bức tường lễ giáo, cam chịu cho số phận an bài, buộc phải lấy một kẻ xa lạ. Thấm thoắt sáu bảy năm trời, đã hết hạn ở rể của chồng, sau nhiều lần cố trì hoãn chờ người yêu trở về, cô đành nhắm mắt đưa chân bước đi đến người nhà làm dâu. Đúng ngày vu quy, thình lình người yêu cũ về đến nhà. Bao ước vọng tan tành. Không thể xoay chuyển tình thế, chàng dành cải trang thành khách đưa tiễn dâu về nhà chồng để dọc đường tranh thủ than thở tâm tình với người yêu cho vơi nỗi cay đắng. Chàng và nàng đau khổ hẹn thề rằng không lấy được nhau thời trẻ sẽ tìm mọi cách để lấy cho được nhau lúc về già. Cuối cùng, cái ngày ước nguyện định mệnh đã thành. Họ gặp nhau trong cảnh ngộ bi thương. Sau hai đời chồng, nàng bị người chồng thứ hai đem ra chợ bán và oái oăm thay được người tình xưa tình cờ đổi lấy bằng một nắm lá dong gói bánh! Từ đó, họ mới được thật sự sống trong hạnh phúc vợ chồng.
Thông qua mối tình đẫm đầy nước mắt của hai nhân vật chính, những phong tục tập quán, bao đời chi phối nhân duyên, bao nỗi lao đao thăng trầm, những buồn vui, sướng khổ… được dồn nén trong thiên bi tình sử này và nó đã trở thành bộ từ điển bách khoa của đời sống tinh thần dân tộc Thái. Người Thái thuộc và hát ”Tiễn dặn người yêu” trong những cảnh huống tương thích giống như người Kinh thuộc và bói Kiều vậy.
Đã từng sống 21 năm ở Tây Bắc, lòng quê Quan họ thấm đượm hương sắc Mường bản, Nguyễn Khôi (Trai Đình Bảng)đã hóa thân vào chàng trai Thái để dịch, chuyển thể song thất lục bát tập đại thành của văn học Thái ra tiếng Việt. Chúng ta có thể khảo sát công trình công phu đó của nhà thơ :
1. Nguyên văn tiếng Thái :
“Cộp chụ tạu cáy khăn Pha lăng phăn mữa xú hườn hươn chọi Hên tò, mek dắn dọi lồng tồng xí puông Mươi luông tặp cháy cá hươn ông pêng piếng Tả chụ pên niếng nắc hặc pên niếng niêu Hứa chaư điêng bánh xong xữ đảy”
Cầm Cường dịch :
Bên nhau tận thâu đêm gà gáy Đeo giấc mơ về tới nhà, trăng xế đầu núi Màn sương buông đồng làng làm bốn mảng Sương lạnh sa mái nhà “ông” thành tảng Lời tình xôi nén chặt Thương tình xôi nén chắc vào xôi Mảnh tim này ai nỡ xẻ làm đôi.
Nguyễn Khôi chuyển thể :
Có đêm chuyện chừng quên gà gáy Đeo mộng về trăng rải như mơ Mù dâng sương tỏa mịt mờ Tơ duyên xe lối hẹn hò bền lâu.
1.Nguyên văn tiếng Thái :
“Nham bok pục, đất bok pục nằng cong Nhám bók tong, đất bók tong nằng thả Nham bók mạ, đất bók mạ nằng thả hướm lay” Cầm Cường dịch nghĩa :
Mùa hoa bưởi, ngắt hoa bưởi ngồi trông Mùa hoa vông, ngắt hoa vông ngồi chờ Mùa hoa mạ, ngắt hoa mạ ngồi ngóng đợi hoài.
Nguyễn Khôi chuyển thể :
Cho dù đã vợ người ta Đã yêu xin xẻ lòng chờ đợi nhau Mùa hoa bưởi, hoa ngâu hẹn đợi Hoa mạ vàng chờ tới tàn phai Hoa tàn em nhúng sương mai Hai mươi năm gói khăn mùi còn thơm.
1. Nguyên văn bằng tiếng Thái :
“Mửa lồng hươn, phắc cón hính pên bửa Bát làu lửa, xửa ón nọi ma ták têm chăn”
Cầm Cường dịch nghĩa : Lúc ra đi hạt cải mới nẩy mầm Tới ngày về, áo con trẻ phơi đầy sân.
Nguyễn Khôi dịch và phóng tác :
Khi anh đi cải ngồng cánh bướm Anh trở về, cải muộn ra hoa Khi đi piêu mới rủ là Khi về áo trẻ đầy nhà dăng phơi Lá trầu vàng rụng rơi khỏi cuống Cây tre sầu chết đứng vườn bên Bạn bè nên lứa nên duyên Riêng anh đơn độc nhìn em bẽ bàng .
Nhưng rất nhiều chỗ anh lại rút gọn lại. Vào đầu câu chuyện, nguyên tác dùng đến 180 câu tả cảnh thai nghén của Mẹ yêu, Nguyễn Khôi tước bỏ những chỗ không cần thiết “gom” lại 12 câu khá chuẩn:
“Mẹ anh yêu nhói đau bên phải Đều thèm ăn món gỏi cá chua Bé xinh hai tháng có thừa Mẹ thèm ăn dở me chua bên vườn Chửa ba tháng gỏi lườn Cá Giếc. Chắm nấu măng ngỡ tiệc tháng tư Tháng năm Cá Pộc đã chờ Cá Chày … sáu tháng mẹ sờ thấy con Tháng thứ bảy Cá Mương làm gỏi Cá Vũ ngon quẫy đợi tháng sau Bé xinh mẹ nặng mang bầu Đợi chờ chín tháng qua cầu nở sinh” * * Máng nước xối lanh tanh róc rách Chú thím mừng, mẹ mệt vẫn cười Mười ngày, chín tháng, đủ đôi. Hai ta cùng lúc chào đời khóc oe Anh rơi sấp bà chìa tay đỡ Mẹ đẻ ra rơi ngửa thành em Nâng niu bú mớm lớn lên Cùng phi ngựa trúc chơi liền bên nhau
Bản Chiềng Ly – Thuận Châu
Chất thi sĩ của người Kinh Nguyễn Khôi đã nhập vào hồn những câu thơ Thái rất đẹp và duyên dáng. Chúng ta có thể nhặt thêm : “Trời hoàng hôn nắng khép cửa rừng” (câu 78); “Quả câu nhỏ buộc dây trầu gỡ sao” (câu 120); “Người đi xa quẩn quanh vía bám – Dây trầu leo lên quấn hồn yêu” (câu 249-250); “Vừa đi vừa ngoái đầu về bản – Chân bước xa càng nhớ càng đau” (câu 309-310); “Không ăn bụng đã đói mềm – Ăn vào tắc họng như tên bắn vào” (câu 640-641); “Chán nhau nhựa trám quyện mau – Hai đuôi con mắt, vai đầu quyện thương” (câu 792-793) ; “Đêm nằm không mảnh lót lưng – Cơm ăn như cát đói từng đêm đêm” (câu 888-889); “Đồi dong chớp loáng bên bờ – Mưa sa núi trám gió đưa bước nàng” (câu 1000-1001). . Nguyễn Khôi không có ý định bám sát nguyên tác để dịch mà bám sát từng ý, từng đoạn thơ Thái hay nhất, rút được cái thần thái nguyên bản để chuyển thành thơ. Dịch thơ là một sự sáng tạo. Sức sáng tạo của Nguyễn Khôi thật đáng kể. Nhà thơ đã khéo chọn thể thơ song thất lục bát độc nhất vô nhị của Việt Nam ra đời cùng thời thế kỷ XVII với Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm và Nguyễn Gia Thiều viết Cung oán ngâm khúc – một thể thơ có khả năng vừa tự sự vừa trữ tình thích hợp cho truyện thơ để dịch.
Nguyên tác Sống chụ son sao dài 1.846 câu, Nguyễn khôi chuyển thể và rút gọn thành 1.024 câu mà cốt truyện vẫn đầy đủ ý nghĩa, hồn vía vẫn giữ trọn. Bản dịch thật tao nhã, lời Kinh hồn Thái nhuần nhị, nó là một công trình nghệ thuật có giá trị văn học cao, vượt trội hơn các bản dịch khác của Điêu Chính Ngâu (1914-1958), Mạc Phi (1928-1996). Có thể nói Nguyễn Khôi đã gần như sáng tác lại trên nền tảng của nguyên tác trứ danh này. Công lao của Nguyễn Khôi đối với “Tiễn Dặn Người Yêu” chẳng khác gì Nguyễn Du đối với Truyện Kiều.
Sau đây, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc toàn văn tác phẩm :
SỐNG CHỤ SON SAO
(Tiễn Dặn Người Yêu)
Truyện thơ dân tộc Thái Dịch thơ : Nguyễn Khôi
Phần 1:
1. Kể chuyện cũ lại bù chuyện tới Thuở đôi ta còn mới hoài thai Mẹ yêu đã tính từng ngày Em nằm bên trái “cựa” hoài lớn mau
5. Mẹ anh yêu nhói đau bên phải (1) Đều thèm ăn món gỏi cá chua Bé xinh hai tháng có thừa Mẹ thèm ăn dở me chua bên vườn Chửa ba tháng gỏi lườn Cá Giếc
10. Chắm nấu măng ngỡ tiệc tháng tư Tháng năm Cá Pộc đã chờ Cá Chày … sáu tháng mẹ sờ thấy con Tháng thứ bảy Cá Mương làm gỏi Cá Vũ ngon quẫy đợi tháng sau
15. Bé xinh mẹ nặng mang bầu Đợi chờ chín tháng qua cầu nở sinh Máng nước xối lanh tanh róc rách Chú thím mừng, mẹ mệt vẫn cười Mười ngày, chín tháng, đủ đôi
20. Hai ta cùng lúc chào đời khóc oe Anh rơi sấp bà chìa tay đỡ Mẹ đẻ ra rơi ngửa thành em (2) Nâng niu bú mớm lớn lên Cùng phi ngựa trúc chơi liền bên nhau
25. Mười ba tuổi em đâu còn nhỏ Óng ả lên nhóm lửa trên sàn Đàn môi, sáo thổi chứa chan Đôi ta như gốc cải làn tươi xanh Công cha mẹ sinh thành cùng lớn
30. Tuổi ấu thơ duyên ướm từ xưa Đến ngày gặp chốn sàn hoa Ngồi bên bếp lửa mặn mà trao duyên Có đêm chuyện chừng quên gà gáy Đeo mộng về trăng rải như mơ
35. Mù dâng sương tỏa mịt mờ Tơ duyên se lối hẹn hò bền lâu Chỉ sợ chặt “vầu” không thuận mé (3) Trời không thương, cha mẹ không ưng Thương ai khác bản khác mường
40. Không yêu mẹ ép buộc lòng phải yêu Ôi thương quá chim kêu mùa hạ Lòng nhớ mong không ngả tìm sang Tương tư những muốn tới gần Lại e người quở, bần thần ốm o
45. Mẹ anh xót mới nhờ người bói Quẻ này “hung” người nói thầm thì Đã yêu anh chẳng sợ gì Đã thương quyết lấy, quyết đi đến cùng Anh đi gặt lúa đồng ngoài nội
50. Anh đi đánh cá lưới ngoài sông Cá to anh đổ tràn “cong” Lợn gà nuôi đã đầy sân đợi ngày Tìm mua đĩa, đi ngay Tạ Bú Ra Tà Hè mua lụa, mua tơ
55. Buồng cau Tà Sại đang chờ (4) Trầu xanh muôn lá để nhờ”dạm” em
————————— Chú thích: (1) người Thái xưa quan niệm “thai” nằm bên trái đẻ con gái, bên phải đẻ con trai (2) người Thái có tập quán đẻ ngồi cho rằng hễ là con trai thì đứa bé rơi sấp, là con gái thì đứa bé rơi ngửa (3) một loại cây tre (4) các địa danh Tạ Bú, Tà Hè, Tà Sại ở bên bờ sông Đà- Sơn La
Phần 2:
Tìm bà Mai biết têm trầu tiếp Lựa lời thưa duyên đẹp không phai Lễ to lại đã chọn ngày
60. Sang nhà xin lạy mẹ thầy ưng cho Cha em ngồi cùng “Mo” (1) chẳng đáp Mẹ em ngồi giường thấp lặng thinh Hồi lâu mới nói lạnh tanh: – Người kia cái mặt khó nhìn làm sao!
65. Nón làng Chuông có đâu đáng đội Rể chi anh đòi tối đan chài Về đi chốn khác mối mai Về đi, nội ngoại trong ngoài trình thưa. Anh đã lo mà lo không đủ
70. Tính chi ly lẫn lú tính sai Tay ôm cau những rã rời Tay xách giỏ cá lệ rơi thẹn thùng. Anh đau đớn về buồng nằm khóc Tấm thân trai héo hắt phòng không
75. Khi con Người ấy ra đồng Cũng đi kiếm cá ngoài sông, học đòi Chài quăng đấy cá toi cả mẻ Người mang về ướp ché măng chua Đĩa mua Tạ Bú cũng chờ
80. Cau mua Tà Sại, tơ mua Tà Hè Cau Tà Sại chưa lìa đã héo Trầu Mường Chai lá méo mùi hôi Lá rong Người cắt gói xôi Thuốc lào bọc lá nhờ người mối manh
85. Lễ to chọn ngày lành tháng tốt Sang nhà xin cho được dâu hiền Cha em vừa thấy ưng liền Mẹ vui lời tựa tấm chiên (2) ấm nồng Em còn ở trên nương, nào biết
90. Trời hoàng hôn nắng khép cửa rừng Mặt trời rơi xuống tầng tầng Từ mặt “phai”(3) tràn sang sàn người thương Mặt trời quấn ngọn giang sắp lặn Mặt trời treo ngọn sắn sắp rơi
95. Trời im không một tiếng lời Trời đi chẳng đợi chân người theo đi Trời khuất núi mây che sập tối Em vội vàng ra lối bìa rừng Sương chiều đã đổ đầy thung
100. Em còn chặt củi nai lưng gánh về Bó to mẹ chẳng chê nấu rượu Lửa sàn hoa hơ áo anh yêu – Về đi, em gọi Vía theo Vía anh yêu chớ ngủ liều búi lau
105. Về tới bản thấy sao là lạ Gánh củi to em hạ gầm sàn – Mẹ ơi, em thẳng vào buồng Cởi khăn lòng những bồn chồn làm sao. Đi ra bến bờ cao nước lớn
110. Về nhà chừng khó ướm hỏi ai Thẩn thơ bụng đã đói rồi Cơm canh đâu hở… mẹ ơi có gì? Mẹ yêu bảo: mâm kia đang đợi Em mở xem: gà gói, cá, nem
115. Bên mâm bầy sẵn trầu têm Thử vờ em hỏi: khách đem đổi à? Mẹ bảo: Xá (4) núi xa không đổi Gói trầu kia Người tới “dạm” con Trăm năm tính cuộc vuông tròn
120. Thôi cô đã lớn chẳng còn ngây thơ Con chớ nghe lời gà, tiếng vịt Vườn sẽ tan, trứng chết trong phôi Mất họ hàng bởi lời xui Đâu khôn đâu dại tới lui khôn lường
125. Ai chả muốn nhà sang cửa lớn Cây cải hoa lũ bướm lượn tìm Mẹ cha đã mỏi mắt nhìn Tuổi già mong rể út bên cậy nhờ Giỏ cá trắm đang chờ rể biếu
130. Con gái yêu lấy hiếu làm đầu Em nghe trời sập xuống mau Thương anh nát ruột nỗi sầu ngẩn ngơ Em đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai
135. Chạy cầu chú bác trong ngoài Họ hàng: – thôi cũng chịu rồi cháu ơi! Chúng ta đã xơi cơi trầu lễ Em lại kêu anh rể, chị dâu – Ôi thôi bé út dễ đâu
140. Quả cau đã buộc dây trầu gỡ sao Chim cúc cu cành cao đã hót Nhà đang mừng, đừng khóc cô ơi! Trúc tre nên giấy trắng ngời Lấy chồng, bố đã gả rồi – phải nghe.
145. Con gà chọn cành me đậu tốt Gái kén chồng chẳng được hay đâu Phải thằng chồng “Xá”(4) ngu lâu Chọn dao chọn phải lưỡi dao mẻ quằn Nghe cha mẹ môn đăng hộ đối
150. Nón đội đầu sớm tối thong dong Như cá không muối cá ươn Đâu che lá chuối, cào vườn nương xa. Lời nhân ngãi bao giờ chả ngọt Hay thì hay chẳng được gì đâu
155. Kẻo mà mạ lỡ vụ gieo Nhà cao cửa rộng đón chiều chuộng em. Lời như “chiếu”(5) đã liền một tấm Như lưỡi gươm đã cắm xuyên tường Dẫu van cha cũng chẳng thương
160. Thân con bọ ngựa dễ lường bão, mưa Em đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai Mượn dao người để chặt cây (6) Khiến người đốn củi, lựa lời cho thôi.
Chú thích: (1) Mo – thầy cúng (2) Chiên – tấm chăn chiên (3) Phai – đập bằng tre gỗ ngăn dòng suối (4) Xá – dân tộc thiểu số gồm người Khơ Mú, Kháng, Xinh Mun – cách gọi miệt thị (5) Chiếu – là chiếc chiếu để nằm phẳng liền một tấm (6) ý đoạn này là âm mưu kế “hoãn binh” của cô gái, cứ tạm bằng lòng để cho “Người ấy” (không phải người yêu) đến ở rể một thời gian thử thách theo phong tục từ ba tháng đến ba năm, có đạt yêu cầu mới cho làm lễ chung chăn, chính thức thành rể. Nếu không đạt thì sẽ bị đuổi về…
Phần 3:
165. Lúa đầy bịch sẽ mời ra cổng Cho một manh khố đóng mang đi Dở dang kẻ nói người chê Kẻ thương người ghét ê chề mặt ai. Em bỗng thành vợ người, nghĩa nặng
170. Rau của Người bùi đắng, nghĩa dày Sáo, kèn Người đã về đây Nón treo giữa vách, chặt cây rào vườn Người đã thành rể con nuôi bố Trông ruộng vườn, đuổi hổ, chăn trâu
175. Tinh mơ dậy sớm mài dao Chiều về chài lưới, mệt nào dám kêu Em đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai Lòng yêu, sống tựa chết rồi
180. Thà ăn lá ngón lìa đời cho xong Như vần đá, đá lăn đổ sập Dập ngón tay rút ruột mà đau Máu không rơi, buốt tận đầu Nhói trong tim, hỏi ai nào biết cho?
185. Trùm chăn kín xót xa thầm khóc Cúi mặt gầm nước mắt chứa chan Ngẩng lên lệ rỏ hai hàng Chừng thừa nước mắt cả làng rửa rau Thương mắt biếc như trầu xanh lá
190. Thương ngón tay thon thả lá hành Nhớ lời nguyện ước đinh ninh Khăng khăng son sắt mối tình còn đeo. Nhớ như gà con theo nhặt tấm Như nắm xôi nóng bọc lá tươi
195. Những mong là “đó” (1) thả trôi là “đơm”(2) bạn quý, người hôi mất “lờ”(3) Anh đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai Túm hai cái núm một “chài”
200. Đêm đêm quăng trượt ra ngoài bờ sông Như một kẻ đôi lòng khó nghĩ Suy một mình thêm bí không cùng Đã không nên vợ nên chồng Muốn ăn dưa, cố rào vườn chẳng nên
205. Nào ai ngỡ là em tình phụ Như hoa tươi mãi rú rừng xa Ước như tay Vượn dài ra Hóa là tay Cóc khó qua bìa rừng Ước có phép như Rồng biến hóa
210. Biến em yêu thành vợ trong buồng Lên trời đậu ngọn cây thơm Bay tìm xem thử “mệnh” nàng ra sao Mệnh nàng đâu ta cầu gần lại Mệnh nàng xa mấy “xải” (4) cũng co
215. Buộc hai hồn một dây to Gần trong gang tấc “mệnh” chờ liền đôi Anh đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai Người ta trầu úa mối mai
220. Mẹ cha em lại mừng vui đón chào Còn anh cả buồng cau sai quả Trầu xanh tươi muôn lá… mang về Vừa sang “dạm” đã đuổi, chê – Ối dào, cái giống quả me ngoài rừng.
225. Quả me nhà thơm lừng ngọt lạ Gái nhà này phải giá bằng Voi Giá Voi, đành lảng chịu thôi Giá Trâu, cố đấm ăn xôi họa là Dù thu vét cả nhà chẳng đủ
230. Lấy “số” đua với “số” không cùng “Phận” thì “phận” mỏng như không Phải đâu rau núi, quả rừng hái tranh Bạc không nặng khó giành em được Tình có sâu thua cuộc… lìa nhau!
235. Tủi thân anh bỏ sang Lào Cắm sào rời bến, lòng đau nuốt hờn Nào đeo túi đi buôn bán sắt Bán “lưỡi mai” quanh khắp quê người Mường Tang, Tòng Puốn tới nơi(5)
240. Chân mây mờ tỏ, cửa trời ngó sang Nén bạc: được cả đàn ngựa quý Vạn trâu: chìa dao mẻ đổi liền Nhờ phúc em, lãi muôn tiền Xuất hành ngày tốt đã xem từ nhà
245. Ngày Nhâm Ngọ tiếng gà tao tác Anh quay về chọn được ngày “Thân” Vừa ra cửa đã vấp chân Đi buôn tìm được ngày “Dần” lộc to Ra cổng gặp Cáo chờ lạy khấn
250. Bìm Bịp mừng nhúng nhắng xun xoe “Tực Từ”(6) kêu lộng ngoài khe Thấy chim Chót Bóp bay về sánh đôi Trời mở cửa thử coi Ngựa quý Bốn vạn Trâu… lãi đẻ ngàn lần
255. Ngựa trâu đi bước rầm rầm Bồn chồn lại rỏ lệ thầm nhớ em Nghe Hổ Báo rừng bên gầm thét Nghe Chim kêu tha thiết đường mưa Nhớ quê đồng đã vào mùa
260. Mạ ai gieo, để ai bừa ruộng em? Nỗi nhớ ai ngày đêm gọt tỉa Vào giữa rừng hú Vía em thương Ở nhà em đợi bên thang Ngồi nơi đầu cối võ vàng ngóng trông
265. Anh cứ tưởng vườn Gừng hóa Nghệ Bạn tình xưa ve vé bên chồng Nhưng còn đây trái tim hồng Dây tơ vương vấn theo từng bước anh. Người đi xa quẩn quanh Vía bám.
270. Dây trầu leo lên quấn hồn yêu Ngọn khoai ngả rợp bóng chiều Tình yêu đôi lứa chẳng Xiêu hẹn lời. Như dồn Bò buộc nơi cột trước Như dồn Trâu anh buộc cột trong
—————————— Chú Thích: 1,2,3 : các dụng cụ để đơm bắt cá 4 : Xải tay, cách đo dân giã 5 : Chỉ nơi xa xôi 6 : một loại chim
Phần 4:
275. Thương em đã dặn hết lòng Yên tâm đợi mấy tháng xong anh về Vào rừng măng thương tre đừng nhổ Gặp bạn trai đừng có bỡn đùa Trai quan kệ gái quan nô
281. Gái trai cùng bản chuyện trò thân thương Lìa anh, em nhớ đừng ngủ chạ Xa anh, em chớ có nằm đôi Anh về soi mắt kề môi Ta chung chăn gối, hỡi ôi đợi cùng
285. Bò anh bán tận Mường nước ấm Sang Vân Nam ngựa bán rất hời Mỗi con một nén bạc tươi Ngựa Ô vượt giá hai mươi nén tròn. Bạc mười nén tìm em anh chuộc
290. Vải năm trăm (1) anh cược em ra Cho dù là vợ người ta Đã yêu xin xẻ lòng chờ đợi nhau. Mùa hoa bưởi hoa ngâu hẹn đợi Hoa Mạ vàng chờ tới tàn phai
295. Hoa tàn em nhúng sương mai Hai mươi năm gói khăn mùi còn thơm Mười chín đời Tạo Quan vẫn thắm Mặt thân thương gửi gắm gì hơn Vải ư? Sợ vải chóng sờn
300. Đàn ư? lại sợ gãy đàn ngang cung Gửi bạc vụn sợ không xứng đáng Bạc nén ư? Anh kiếm chưa ra Gửi tre, lại sợ tre già Đàn môi cất kỹ kẻo mà nhận sai
305. Con khóc lấy đàn môi dỗ nín Ngày về trời theo cánh ngựa bay (2) Lời thương em nhớ đừng phai Hồn thương đừng có đổi thay cõi trời. Như hóa phép vàng tươi cánh bướm
310. Qua hè chờ đông đến cưới nhau Tuổi xuân dù có qua mau Đợi khi góa bụa qua cầu vẫn ưng Gái góa hai ba lần vẫn đẹp Hơn gái tơ ba ngấn cổ cao(3)
315. Má hồng hơn tuổi xuân đào Thương yêu chắc hẳn dạt dào hơn xưa Đã yêu nhau lời thề phải nhớ. Trầu têm chờ chớ úa, còn thơm Thư đi chớ lạc bản mường
320. Gửi lòng yêu tới người thương phương trời Em yêu khấn: anh ơi đừng ốm Hãy như ve ILiếng (4) tài hoa Dãi dầu đừng quá đi xa Phòng cơm thuốc độc người ta hại mình.
325. Đi buôn chớ xem khinh ngày tháng Lúa móc câu làm cốm cha làm Gạo còn mấy ống cơm lam Đi dăm bảy bữa quay thuyền về quê. Vừa đi vừa ngoái về bản cũ
330. Bước chân xa càng nhớ càng đau Dồn bò lên ngọn Khau Vai Trâu lên Khau Cả cao vời núi non Chân bò vướng ngọn giang tàu móc Trâu bước đi chân vấp cành si.
335. Cây rừng ngáng lối ngựa phi Trâu không ăn cỏ,ngựa chê thóc mầm Anh ngồi đám lá xanh anh ngắt Bẻ cành mơ gấp khúc bói xem Quẻ”hung” hao của tốn tiền.
340. Trời đòi trâu lợn, Vía em ám cùng Vía em lướt theo từng bước ngựa Vết chân trâu có Vía em vương Em thì ra ruộng lên nương Bổ cau anh ném dọc đường vía theo.
345. Ở nhà em sớm chiều mong nhớ Xin nán lòng kẻo khổ anh đi Trâu anh, chồm dậy tức thì Núi cao tiếp núi ngựa phi tối ngày Xa em lên Mường lay núi biếc
350. Lối Mường So đá xếp quanh co Cheo leo dốc dựng bên bờ Chênh vênh cuối thác sóng xô bên trời Áo anh đã tả tơi xơ xác Trâu mang đi đổi chác chẳng hời(lời lãi)
355. Chồng em biết chắc biết mỉm cười Ngựa hay chẳng đủ bạc mười chuộc em. Anh còn phải đi thêm xa nữa Năm lại năm khốn khổ em ơi Rừng tre măng đã đâm chồi.
——————————- Chú thích: (1) : Vải 500 chầu, mỗi chầu dài 4 sải(khoảng 3000 thước) (2) ngựa có cánh đẽo bằng gỗ treo trên cây tang cạnh mộ đưa hồn người chết về Mường trời. (3) Đàn bà góa vì buồn nên gầy cho nên cổ cao ngẳng có ngấn, vì yêu nên anh vẫn cho là đẹp (4) một loài Ve rừng kêu rất hay, được ví với người tài hoa có giọng tốt.
Phần 5:
360. Ngăn buồng cho rể, bông nhồi thêm chăn Chăn đệm mới em làm chất đống Của hồi môn, rể ngóng ngày ra Cha tìm ngày tốt “bảy”,”ba” Kéo chăn, dịch đệm, giao hòa lứa đôi (1)
365. Em đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai Lòng yêu, sống tựa chết rồi Thà ăn lá ngón lìa đời cho xong Chồng em mới thung dung nói nhỏ
370. “Trời cho ta thành vợ thành chồng Cho dù đệm ngắn vài gang Chăn như lá cỏ đắp ngang cũng đành Ta sẽ chắn suối xanh làm đập Chặn lũ về để bắt cá to
375. Chồng cầy vợ cấy chăm lo Mẹ cha cũng được ấm no với mình” Em đã lo mà lo không đủ Tính chi ly lẫn lú tính sai Khóc gào chỉ tổ người cười
380 Cười ư, sượng mặt để người mỉa cho Năm tiếp năm trông chờ mong ngóng Đã sáu mùa lúa chín qua rồi Bảy mùa cá lũ trôi xuôi Ngày qua ngày lại anh ơi cháy lòng
385 Cha mẹ bảo: cốm không ăn mãi Rể chẳng nuôi nhà vợ đến già Sẽ đưa dâu quý về nhà Bên chồng cũng đã quá ba năm chờ Chồng em ra ven bờ kiếm cá
390. Ra ngoài đồng gặt lúa qua trưa Cá nhiều đem ướp mắm chua Đợi ngày đẹp, mẹ cũng vừa nhắc em Năm nay đưa vịt ngon về Phủ Tháng Giêng này đúng cữ đưa dâu
395. Em rằng: giêng chẳng tốt đâu Gieo kê chim nhặt, buông câu cá chuồn Mẹ nói buồn: tháng hai đưa vậy Em vội thưa: tháng ấy kiêng hơn Mệnh con treo mãi thượng nguồn
400. Phải chờ bà Mụ đúc hồn cho xong Phải đeo “lếp”(2) đi vòng nhà ngoại Đeo sọt đi quay lại nhà xưa Tháng này chưa phải tháng đưa Vịt ngon về Phủ cũng chưa đúng kỳ
405 Mẹ bảo: tháng ba đi vậy nhớ Em thưa: còn làm cỏ trên nương Tháng ba nhà phải cắt chàm Phủ còn chưa nhận vịt ngon đưa về Mẹ bảo : tháng tư đi vậy nhớ
410. Em thưa: tháng này “dở” sự sinh Biết bao lỗi, lệch đến mình E điều thiên hạ cười khinh, không về Mẹ bảo tháng năm đi vậy nhớ Em thưa: chiêng có gõ chẳng kêu
415. Giường thờ nấm mọc”gở” nhiều Vịt ngon về Phủ bao điều khen chê Mẹ bảo: tháng sáu đi vậy nhớ Em thưa: mùa nước đổ tràn sông Thuyền đi nguy hiểm vô cùng
420. Gái không về tới nhà chồng, không đi Mẹ bảo: tháng bảy đi vậy nhớ Em thưa: ngỗng ấp nở tháng này Sợ diều quạ đến cắp bay Vịt ngon về Phủ chẳng hay chăng là
425 Mẹ bảo tháng tám đi vậy nhớ Em thưa: tháng nắng đỏ cành bòng(bưởi) Gió tây thổi bỏng tim gan Vịt đưa về Phủ sẽ làm sao đây Mẹ bảo: tháng chín đi vậy nhớ
430. Em thưa: trời oi bức âm u Sói tru hùm rống gầm gừ Vịt đưa về Phủ mịt mù sương sa Mẹ bảo: tháng mười đi vậy nhớ Em thưa: còn lũ đỏ nước ngầu
435. E thành gái góa sông sâu Vịt đưa về Phủ xuống cầu âm ty Mẹ bảo: tháng một đi vậy nhớ Em thưa: mùa nấm gỗ héo hon Mẹ chồng chê chẳng thấy ngon
440. Vịt đưa về Phủ giá còn đáng chi Mẹ bảo: tháng chạp đi vậy nhớ Gốc cải già lá tỏa đuôi voi Bố chồng ngừng cả đan chài Mẹ buông tay cửi đón người dâu yêu.
445. Em lúng túng hết điều chối nữa Chọn ngày lành sắp sửa cưới cheo Tháng này em phải đi theo Vịt ngon về Phủ, trầu leo lên giàn Bữa ăn to họ hàng đều tới
450 Bữa nhỏ riêng để cưới em về Bạc Vân Nam thật khó chê Cân Lào đã bắc sát kề cân Kinh Cha em được riêng mình bốn nén Ngày mồng hai đánh chén đêm thâu
455. Tiếp rồi bữa rượu đưa dâu Anh yêu còn mải buôn trâu phương trời Lên Mường So tìm nơi bán ngựa Con ngựa ô hai chục nén tròn Bạc mười dành để chuộc em
460. Vải năm trăm đặt cược thêm tiếc gì Bạc thừa thãi ta đi đúc nhị Bạc trắng thì đúc Pí(3) thổi chơi Trở về anh trở về thôi Cơm ăn bãi cát ngủ đồi sỏi xa
465.
Thấy đôi nai nhẩn nha gặm cỏ Súng anh giương, mũi ná anh nhằm Nai run: xin lạy van chàng Má hồng đang đợi, Nàng xuân đang chờ Anh tiu nghỉu buông cò, bỏ ná
470. Đàn Phượng đang ăn quả trên cành Súng tay anh đã lăm lăm Chim kêu: xin lạy van chàng thương cho. Anh lại qua khe mơ vách đá Lệ nhớ tuôn vạch lá luồn chui
475. Con Don , con Dím nhạo cười Tóc vương hoa cỏ, lạc rồi, rừng ma Ma gái vặt Chanh na ném đuổi Anh cắm đầu chạy vội lan man Những mừng đến cửa nhà Quan
480.
Đây nhà người cũ trên sàn xôn xao Chừng cả tiếng em yêu giòn giã Như chim rừng ăn quả mừng reo Ngõ hoa Mai nở mỹ miều Tóc cao búi ngược ra chiều đón dâu(4)
————————— Chú Thích: (1): tục lệ người Thái khi mới đến ở rể phải thử thách một thời gian dài( ngủ riêng ở đầu hồi nhà, khi hai bên đã ưng nhau mới được kéo chăn, dịch đệm lại gần nhau làm lễ chung chăn “Sú phả”) (2) Lếp: cái giỏ bên hông của các cô gái Thái (3) Pí: một loại sáo (4): Tóc búi cao ngược lên đỉnh đầu gọi là “tằng cẩu” biểu hiện gái đã có chồng
Phần 6:
485. Anh dò hỏi: Khách đâu đông tới Mẹ anh kêu : – không phải con ơi Mọi người ăn uống xong rồi Sẽ đưa gái quý về nơi nhà chồng. Khi anh đi cải ngồng cánh bướm
490.
Anh trở về cải muộn đơm hoa Khi đi Piêu mới rủ là Khi về áo trẻ khắp nhà giăng phơi Là trầu vàng rụng rơi khỏi cuống Cây tre sầu chết đứng vườn bên
495.
Bạn bè nên lứa nên duyên Riêng anh đơn độc nhìn em bẽ bàng Thư gửi sang xem chừng đã mục Chuối trổ buồng chín nục thơm ngon Nàng đang mải chuyện chồng con
500.
Đã yêu kẻ khác, mình còn bơ vơ Anh đã lo mà lo không đủ Tính chi li lẫn lú tính sai Trèo cao lộn cổ lỡ đời Đành trơ mắt ếch nhìn người Vu Quy
505.
Trong nhà em đang khi chuốc rượu Hòm xiểng chờ chẳng thiếu ngoài hiên Thôi vào chào các bề trên Lạy cha , lạy mẹ, tìm em dặn dò Xin cha mẹ thương lo đừng ốm
510.
Có se mình sớm nhắn con hay Xin chào bạn gái bạn trai Chào vườn trước ngõ trong ngoài bản ta Ơi sàn khuống đậm đã duyên nợ (1) Nơi hẹn hò bếp lửa cùng nhen
515.
Thôi rồi… nay lớp các em Mới chiều qua đón trăng lên trên sàn Mưa không rơi đừng tan sàn nhé Trời không mù đừng để quạnh hiu Đàn môi bạn đánh tối chiều
520.
Gái có chồng chẳng thể theo bạn bè Xin chào cột chạm xòe đuôi nhạn Mái chân gianh xén phẳng rui mè Mái nhà tổ phụ bản quê Xin chào hai họ ba bề đương ăn
525.
Chào khung cửi dệt khăn dệt lụa Chào ngựa bò gặm cỏ non tơ Chào đàn vịt đẻ trứng to Thương gà trống gáy đúng giờ thức ta Từ nay chẳng xuống nhà giã gạo
530.
Từ nay không rang đậu cho heo Bãi mùi, búi sả ta yêu Xin chào bếp lửa đến chiều khói vương Ông đầu rau lửa vờn đen sạm Cửa vắng ta chừng cũng rộng thênh
535.
Cầu thang bữa bữa xuống lên Gầm sàn sớm tối thân quen với mình Ta đã bỏ bạn tình , lỡ bạn Chào anh trai hám bán em đi Anh trai vội vã phân vi:
540.
Những mong em sướng so bì đâu hơn? Trong nhà vẫn ồn ồn tiệc rượu Hòm xiểng chờ chẳng thiếu ngoài hiên Khăn Piêu phấp phới bay lên Áo anh vội khoác đến liền tiễn đưa.
———————————- Chú thích: (1) Tục hát Hạn Khuống ở nơi sàn hoa ngoài trời, đêm đêm nhen bếp lửa, trai gái Thái gặp gỡ giao duyên.
Phần 7
545. Anh sẽ tiễn đến nhà ông chú Đến nhà chồng đừng sợ em ơi Đưa em đưa đến tận nơi Buồn thay tục lệ chẳng vời đến anh Mẹ anh sợ ra ngăn anh lại
550. Lôi anh về “không phải việc con Gươm người sắc chớ coi thường Bát cơm thuốc độc, thôi nhường con ơi!” Anh vùng vẫy : quyết “chơi” chẳng sợ Gươm sáng lòe giành vợ người ta
555. Nếu không, làm loạn bản nhà Nếu không, làm giặc xông pha Phủ đường(1) Cha mẹ ngăn, lòng thương dằng dặc Cha mẹ ghìm nằng nặc đòi yêu Trong lòng em, chết cũng liều
560. Gươm chồng em chém ngang chiều cũng cam “Vải năm trăm” coi bằng đồ bỏ “Bạc nén” như vỏ đỗ vụn đồng Rồi ra sao sẽ mặc lòng Chết cùng em tựa lông hồng nhẹ sao
565. Dù thân phải phanh phui chín khúc Chết giữa rừng như lúc ngủ say Dối quanh để mẹ buông tay Thề rằng: thôi vậy, con rày không đi Mẹ cho con ăn gì kẻo đói
570. Cơm canh vừa ăn khỏi khỏe ngay Cá em bỏ mứa càng hay Xôi khô đáy chõ quá ngày còn ngon Con sẽ đi vào non bắn sóc Lừa mẹ nghe, anh gấp theo em.
575. Phút giây thôi hẫng mắt nhìn Chồng em quẩy gánh em liền bước theo Tới rừng ớt em yêu ngồi đợi Qua rừng cà ngắt trái chờ anh Nơi chờ em rải lá xanh
580. Dành câu nói nhỏ mới đành lòng xa Không rời, sợ người pha thuốc độc E chồng em tức bốc thuốc mê Như bò gặm cỏ ủ ê Bị nai đến phá ê chề niềm riêng
585. Xin được quấn vai em lụa mát Ủ hương dành đốt xác mai sau(2) Phút giây còn được bên nhau Đưa con anh ẵm cùng âu yếm nồng Cho anh được bế bồng đừng ngượng
590. Con giống cha, xem Dượng giống không? Giống em con sẽ trắng hồng Có hay má lúm lạ lùng giống ai? Đưa ngón tay để anh đeo nhẫn Vòng bạc đầy một nén anh trao
595. Tre vàng bướm nở xôn xao Yêu em đưa tiễn biết bao dặm trường Chim chích liệng kêu vàng anh lại Chim nhạn bay cản lối anh đi Chia tay thôi tiếc làm chi
600. Sóng xô bè vỡ…sầu bi tuyệt đường Chưa trọn ngày yêu thương khoảnh khắc Của người ta giữ chắc được nào Cá kia chỉ ở dưới ao Lúa kia ở ruộng bên nhau khó lìa
605. Tiễn đến đây anh về em nhé Em vội kêu: đừng thế anh ơi Sao Khun Lú(3) đợi góc trời Mây kia vương vấn bao lời thở than Ta sẽ xa để thương rơi lệ
610. Chớ bỏ em đơn lẻ giữa rừng Đừng buông giữa thác trào dâng Bên nhau đây thoắt bỗng dưng chia lìa Hẹn tháng 5 cá về nước đỏ Đợi tiếng chim Tăng Ló(4) gọi hè
615. Lời tình tự lắng say mê Yêu em anh tiễn đưa về tận nơi Ta rảo gót đường dài sánh bước Đi mải mê qua gốc tơ hồng Nhạn kia quấn quýt vợ chồng
620. Uyên ương ngấp nghé mây lồng cửa hang Hoa Áy(5) rờn trôi ngang sông Mã Còn thương, tay gối lả riêng chờ Rồi ngày nối lại duyên xưa Tình mường duyên bản chẳng mờ chẳng phai
625. Đưa tiễn tới nơi người bán chiếu Qua bãi chiều có chợ bán mây Vượt đèo qua dốc cây xoài Nơi đàn trâu đứng vươn vai cọ sừng Đã yêu em đi cùng tới bản
630. Tiễn đưa nhau đưa thẳng tới nhà Tiếng đồn gia thế người ta Tin đưa phóng đại quá đà thuyền voi Anh nghe đồn bằng đồi núi đá(6) Nhà chồng em nóc vẽ hoa sen
635. Cột kèo chạm Nhạn bay lên Mái chân gianh xén phẳng trên rui mè Bàn thờ kê thật to chính giữa Đến mười voi vào cửa chẳng xiêu Thoáng trông bạc nén rất nhiều
640. Cột to như đúc, lạt đều vót trơn Khung bếp nào khác vườn rau lớn Gian tiếp gian chim lượn trăm vòng Đến nơi xem lại tiếng đồn: Ôi thôi, lều lán vây tròn cột lau
645. Vách sậy kề vũng trâu nghiêng ngả Sàn chênh vênh chồng vợ khó leo Chim ri ghé đậu cũng xiêu Chó vào đuôi hở, gà kêu muốn bùng Xuyên mũi giáo xem chừng thừa cán
650. Người đẹp ơi ở Lán sao đành Lên sàn sợ sụp què chân Thử qua kẽ mái anh luồn như chim Lối cửa sổ thử lên như chuột Như phép thần vọt tới nhà trong
655. Thang lau em bước lên tầng Xếp ngồi vái lạy bố chồng ngồi trên Thấy chồng em bưng liền mâm tới Cá gói ư? Toàn gói rau rừng Không ăn, bụng đã đói mềm
660. Ăn vào tắc họng như tên bắn vào Anh xin nhủ em yêu hết nhẽ Dặn em yêu phải kể hết lời Bậc thang trên nhớ chớ ngồi Gặp anh chồng:chớ lả lơi chuyện trò
665. Chiếu bố chồng có cho chẳng ngủ Gối anh chồng chớ có vịn qua(7) Chớ nên chửi lợn mắng gà Con thơ khóc quấy chớ mà rủa con. Con làm sao đâu con bù xứng
670. Phải dỗ dành ẵm nựng hát ru Đi nương chớ gỡ chấy ra Về nhà đừng ngắm bóng ta trong nồi Đặt con vào trong nôi chớ ngủ Trái tim yêu tình cũ chớ quên
675. Xin đừng nói xấu cô em Anh chồng cùng bố mẹ bên nhà chồng Bởi xung quanh những ông bà bác Ăn ở mà trái phép khó xin Luật kia phạm lấy chi đền
680. Cúng gà lễ lợn, tốn tiền, kiếm đâu? Nhà lắm khách đến sao hay đến Có con gà mẹ tiễn đưa chân Rắc ngô em gọi tới gần Nhanh tay chộp được, chẳng cần tăng gia
685. Thôi, cắt tiết… lệ sa thương qúa Thôi, vặt lông… nhà lạ vặt đâu Cạnh thang: e mẹ càu nhàu Ra ngoài mé cửa, suối sâu em làm Bỏ nồi luộc nồi gang chóng được
690. Canh cá sôi lục sục chóng ăn Lại nghe vịt lẩn vào vườn Mặc cho dâu mới lẹ luồn đuổi ra Xùa ruộng dưới vịt đà xáo xác Lùa ruộng trên”càng cạc” om xòm
696. Quá trưa bụng chửa hạt cơm Hết hơi đuổi vịt vào vườn le te Áo váy ướt khó bề phơi phóng Đâu cũng người cửa đóng then cài Em đành áo ướt vậy thôi
700. Cơm canh đã hết rã rời chân tay. Cũng còn may chồng thương phần để Canh lòng tòng bát mẻ dính trôn Canh tôm còn lại đuôi tôm Cá thì đầu vẩy , gà còn cánh chân
705. Cánh gà nhọn, xương gân khó gặm Khuỷu chân khô khó cắn móng dai Chấm thì sợ ngượng khách chơi Chan thì xấu hổ khách mời cười cho Ôi khác hẳn ở nhà cha mẹ
710. Thuở bé thơ cha dỗ mẹ dành Con rô con riếc chê tanh “Nuôi con bằng nhện” nay đành vậy thôi.
—————————– Chú thích 1. không lấy được nàng ta làm giặc giữa Phủ Không lấy được em, anh làm loạn giữa Mường
2.Người Thái đen có tục hỏa táng muốn xác cháy đượm cần có hơi hướng của người thân yêu nhất
3. Theo truyện thơ Khun Lú – nàng Uả của dân tộc Khơmú,hai người yêu nhau không lấy được nhau biến thành hai ngôi sao như sao Hôm , sao Mai.
4. Chim Tăng ló như loại chim Cuốc kêu vào mùa hè mưa lũ
5. Hoa Áy: một loại hoa rừng nhẹ như hoa lau
6. Đồn về xuôi, tiếng đồn bằng thuyền Đồn lên ngược, tiếng đồn bằng voi(Ý nói phóng đại quá mức)
7.Tục kiêng kị, cả đoạn này anh dặn dò chị phải giữ gìn đúng tục lệ để tránh bị phạt vạ theo luật tục Thái, chỉ riêng”trái tim” thì đừng quên tình cũ (là anh)
Phần cuối:
Khi chưa lấy thì người vồ vập Sắp đón về tấp nập xum xoe
715. Lấy rồi, người mắng người chê Bắt ăn cám lợn, kéo bè đánh cho Chồng em tốt, tảng lờ chẳng đánh Cha mẹ chồng thác bệnh không ăn Chồng em buộc phải đánh càn
720. Gậy phang tới tấp lệch sườn, vẹo lưng Em yếu mỏng ngã lăn nghiêng ngả Ngất xỉu đi, anh ngỡ ngủ quên(1) Nâng phủi sạch, dậy đi em Tóc đưa anh gỡ, búi lên đỉnh đầu
————————– (1):Lúc này anh người yêu vẫn đang còn tiễn dặn vừa đến bên nhà chồng,được chứng kiến cảnh nhà chồng hành hạ nàng dâu mới
725. Chặt tre tốt về “sao” lấy thuốc Thuốc tre rừng hết buốt hết đau Tơ vò ta gỡ cùng nhau Cùng nhau tơ rối lựa mau quay guồng Guồng gỗ tốt cán thuôn quay tít
730. Quay trở về tình đẹp ngày xưa Dù có chết,”ảnh” chẳng mờ Thành sông uống mát, thành bờ dây leo Chết thành bèo: ao chung cùng nổi Chết thành hồn: một mái ở chung
735. Gốc dưa yêu mọc bãi sông Nước xin đừng ngập, mặn nồng tình trao Như Lú – Ủa thành Sao chẳng lạc Như trâu chuồng, tiền bạc trong kho Thương nhau chẳng có bến bờ
740. Như vàng đá tạc nên thơ trọn đời Cho dù cháy sạch đồi gỗ cứng Lòng dạ ta bền vững thiên thu Đưa em đưa đến tận nhà Dặn em mọi nhẽ toàn là lời thương
745. Ngày sinh nhật chớ bươn rừng thẳm Giỗ ông bà chớ lảng ra sông Nấu đun nhặt rác ngoài sân Ngọn chàm cứ bẻ khi cần đồ xôi Dấm chua bỏ gừng ôi cho hỏng
750. Gieo dưa lên chỗ đứng cột nhà Dây leo lên cả ban thờ Trồng khoai cạnh bếp để bò lung tung Rửa ốc rửa từng con cho tức Rửa bát lắc cả rổ cho tan
755. Rửa muôi gõ sứt miệng chum Làm ra ngang ngạnh chồng hờn chồng chê Chồng giận bỏ, được về đâu sợ Ta lấy nhau, phận lỡ thương nhau Duyên ôi, tình ế vẫn cầu
760. Yêu nên còn mãi một màu đẹp tươi Dù chết chẳng quên người tình cũ Hồn trên mây vẫn nhớ tình xưa Bến mê sông lú dật dờ Đừng quên bông bụt tuổi thơ thuở nào
765. Ngăn cơn lũ bờ ao chớ bỏ Lấy nước lên phải nhớ mương phai Cuốc kêu, gà gáy nhớ hoài Tóc cao “tăng cẩu” chớ sai lời nguyền Gạo vào cối chớ quên chày giã
770. Cơm vào mồm chớ nhả cơm khê Cho dù mọc lá cọc tre Dâu thành rừng rút lời thề chẳng phai Gieo kê biến thành hai bãi cát Gạc nai thành tê giác hãy quên.
775. Tóc trên đầu búi chẳng nên Cá cua biết hát thì em quên chờ. Sông Mã cạn lòng trơ bằng đĩa Sông Đà nông bằng đũa hãy quên Cá măng vùng đớp sao đêm
780. Vàng anh ăn mía thì em quên chờ Nay Sáo, Yểng rủ về anh hỡi Voi lẻ đàn lủi thủi anh đi Mía kia anh đẵn làm gì Lấy chồng bảy kiếp, tình si vẫn tình.
785. Mau hãy lớn trúc xinh mơn mởn Chuối mọc nhanh thành khóm chuối cao Voi qua chớ để chúng vào Xanh um chắc rễ thì thào gió qua. Vườn gừng héo đôi ta không lỗi
790. Vườn riềng vàng chẳng đổi thay lòng Thác cùng cá trắm đuôi cong Chết cùng cá chép… chết cùng bên nhau Lòng thương chặn sông Thao, sông Mã Cá lìa đàn quẫy phá văng xa
795. Thôi chào em, trở về nhà Em rằng: I-liếng tài hoa chớ buồn Cầu anh đi đúng đường chớ lạc Phận em nghèo tiền bạc đâu lo Nhẽ ra xôi đỗ gà giò
800. Còn đây xôi hẩm chẳng vò mà đau Rời bản em sang cầu đường lớn Chừng còn nghe văng vẳng em than Tiếng như kêu trách chồng con Nhanh chân anh vượt qua non lúc nào.
805. Chẳng còn nghe em yêu cười nói Thương khóm rau nhỏ nhói vườn to Vừa lên đã ngắt về đồ Đang mùa hoa gạo vật vờ bóng em. Núi tiếp núi rừng lim thăm thẳm
810. Đã thương nhau đừng chán quên nhau Chán nhau nhựa trám quện mau Hai đuôi con mắt, vai, đầu quện thương Như cánh chim nẻo đường sa mạc Bay về em hồ mát nước trong
815. Nhớ em trong mộng về thăm Mường xa bảy cõi xin đừng quên thương Quả bí ngô sọc vàng sọc trắng Gốc tơ hồng giữa bản đâm bông Hoa sao hoa thắm lạ lùng
820. Những mơ ngà ngọc lượn vòng quanh hoa Hoa Áy tỏa hương qua sông Mã Áo chàm xanh lấp ló kìa ai Mải băng đồng rộng bãi dài Bẻ cây ngồi nghỉ, mệt nhoài buồn thay.
825. Bẻ cây còn vết tay in dấu Không thư từ đau đáu nhớ mong Buồn tình mới chặt tàu dong Hóa trăm buồng chuối cũng không hết sầu Trồng khoai hóa dây bầu phép lạ
830. Em lấy chồng, ta đã tiễn nhau Gặt ăn măng đắng rau bầu Trai thanh gái lịch ngõ hầu giúp ta? Tình đã lỡ thành ra duyên trái Gió sông Đà quằn quại sóng xô
835. Nhắn cùng bác lái vô tư Tàu dong lá nhỏ nghiêng từ dốc cao. Ngắt lá dong anh chao đơm cá Yêu một người thương nhớ một người Xa nhau nằm đất lạ hơi
840. Nằm lều lá chuối lạnh phơi sương rừng. Anh rảo bước về mường bản vắng Ăn miếng xôi dính cắm đầu tên Đêm chừng ma quấy phát điên Nhớ thương phát ốm, mẹ phiền hoảng lo.
845. Đã yêu nhau nằm mơ thấy mặt Mây mù trôi sao dạt mênh mông Khói sương cầu nguyện ước lành Phân thân anh, nửa hóa thành thân em. Năm sắp hết trải trên ba vụ
850. Đã bốn mùa cá lũ trôi xuôi Đường tình mẹ cản không rời Cha răn em chỉ lặng cười trông xa. Cha mẹ chồng nói qua nói lại: Nàng dâu lười rau hái vài cây.
855. Nấu canh chẳng được bát đầy Gỏi thái miếng mỏng chẳng tầy thái vuông. Tiếng như thể choang choang sét đánh: Vải khổ năm không khiến dệt xe Không cho bưng biếu nhà Phìa
860. Thân không đáng giá bạc chìa ba dây. Nói thì ngại nhà đây tan nát Nợ nhà mày số bạc cưới cheo Bạc mười sáu chửa trả theo Vải năm trăm chửa đủ nhiều mua em.
865. Chồng em bảo:”nước trên nguồn đổ Nó không hay ta trả nó về” Ý chừng họ đuổi em đi Cực thân lệ rỏ dầm dề tràn mương. Lệ rơi đủ chan cơm rửa mặt
870. Một dòng đầy đủ luộc trâu to Một dòng đủ ắp lên hồ Để cho em tắm như xưa họ “chài” Em vạn lạy: xin người tha lỗi Con xin làm sớm tối dâu hiền
875. Cúng gà người cũng chẳng thèm Cúng voi người ngoảnh mặt xem gọi là Những thứ ấy sao mà em có Phận nghèo hèn khốn khó kiếm đâu Người xui chồng nện thật đau
880. Gậy phang chập tối, đêm thâu, sáng mờ Chồng đánh em như vồ nện bịch Như Tạo Mường vui thích đánh chuông Đuổi em, dao quẳng xuống sàn Guồng tơ khung cửi đạp tan… đuổi về.
885. Em đành trở về quê với ngoại Thân một mình bải hoải bơ vơ Khi đi bác mẹ tiễn đưa Trở về rũ rượi như cờ vô phong Mong người yêu lại không thấy lại
890. Nước ngăn rồi quên khuấy đập cao Cá ăn vứt đó bờ rào Đi xa quên áo ai nào nhớ ai. Gần người khác quên hơi bạn cũ Mùa hoa sung đã lỡ qua rồi
895. Mẹ cha trông xuống bồi hồi: Ai kia gồng gánh tả tơi dưới nhà? Trông áo đen ngỡ là áo sẫm Ai kia gần kỹ ngắm là em – Chao ôi, gái quí mẹ hiền
900. Mẹ cha hốt hoảng kêu lên…em về! Hỏi sao một mình đi như thế Hay như voi chẳng thể xa rừng Con yêu nhớ mẹ cha hiền Chẳng quên người cũ bỏ liền về đây?
905. Em ngắc ngứ: con nay kiệt sức Việc nhà chồng cật lực chẳng xong Đêm nằm không mảnh lót lưng Cơm ăn như cát đói từng đêm đêm. Làm chẳng nên người xua người chửi
910. Việc làm ăn chưa giỏi người la Tiếng đồn em bỏ về nhà Về xuôi lên ngược quá đà mũi tên Chẳng phải góa, đôi bên từ giã Trở về nhà như lạ như quen
915. Nghe tin có mối đến liền Cau buồng, cá gói cầm lên hỏi nài Cha mẹ bảo: bớt chài suối hẹp Gái lỡ làng, tiền cược hạ thôi Người khiêng lợn cưới đến nơi(2)
—————————— (2) Tục lệ cũ, lấy người đã qua một đời chồng thì giá tiền cũng hạ như suối hẹp phải dồn bớt chài lại, không phải ở rể như lần thứ nhất.
920. Mồng hai làm cỗ xin đòi đón dâu Trong nhà rượu cùng nhau mời mọc Hòm xiểng đi đã sắp ngoài sân Lao xao nắng xế non ngàn Buồng cau trong thúng, họ hàng tiễn đưa.
925. Nhà trai đón giữa trưa tất tưởi Tóc búi cao, chồng mới em theo Trái tim xưa vẫn còn treo Anh ở đâu? Vía còn đeo trong hồn. Về chồng mới em buồn, cáu gắt
930. Phơi thóc thì mắng cót chửi sàn Hạch chồng giữa chốn làm Quan Vào nhà cười bác, ra sàn khích anh. Nói xấu mẹ, đành hanh với bố Vào bếp chân đá đổ chậu nồi
935. Dỡ xôi làm vỡ mâm xôi Khách vào, mặc áo để lòi vú ra Vú quả mướp vòng ba vòng bảy Ngủ đệm chê… rận chấy như sung Tỉnh ra lại mắng nhiếc chồng
940. Tóc em thì chải ngược, ghế lồng lật ngang Cha mẹ than: mua Nàng dâu dữ Nhà chẳng yên, xấu hổ, cơm toi Bạc mười ta trả đủ rồi Thôi tống ra chợ lấy mươi ba đồng.
945. Đổi gạo chẳng ai màng đến đổi Đổi muối chẳng ai tới đổi cho Nghìn lần, chín chợ vòng vo Lá dong một cuốn đổi cho xong đời Trớ trêu lại về người tình cũ(3)
—————————— (3) người chồng thứ ba chính là người tình cũ, người thứ hai đã trả đủ giá người nên có quyền đem ra chợ bán, không ai thèm mua chỉ đổi được một cuộn lá dong, trớ trêu lại gặp người tình cũ,là chàng trai đóng vai người tình tiễn dặn ở trên
950. Ngôi nhà xưa anh ở em yêu Chàng đâu biết, mặc em theo Để ngoài cối gạo sớm chiều chớ thây. Chồng mới đưa dao dầy, rựa mỏng Đưa giần sàng, củi cám…khoán cho Lòng riêng một mối tơ vò Kêu ca cùng lợn, tựa lò thở than. Tưởng mong gặp được làm vợ quý. Thành vợ yêu mới mẻ bên chàng Mà nay bỏ dưới gầm sàn
960. Để vương khói bếp phủ làn tóc tro Mắt trộm ngó bạn xưa tình tự Em mới thưa: đây có vật tin Đàn môi xin gửi anh nhìn Đàn môi em gảy bạn tình nhớ chăng?
965. Chàng mới bảo: tiếng đàn kẻ khó Kẻ hèn kia sao có đàn môi? Tình tang một khúc bên trời Thoảng chừng đàn giống tiếng lời ngày xưa? Chàng dò hỏi thuở vừa đôi tám
970. Mới nhận ra ôi bạn trăm năm Thỏa tình yên trí làm ăn Mắt thương soi mắt ăn nằm có nhau Cành ban nở bên cầu vừa thấy Sắm lụa là may váy em thương
975. Lại như hoa sớm ngậm sương Như gái Mường Muổi khăn hường thêu chim(4) Đã nên duyên thì xin chớ phụ Yêu đến khi tóc ngả hoa râm Đến khi đầu bạc răng long
—————————- (4) Gái Thuận Châu nổi tiếng là đẹp
980. Chẳng chê vụng dại cũng không chê lười. Muối dưa chớ cười dưa chua quá Rượu ủ lâu đắng lạ chớ chê Bên nhau hạnh phúc thỏa thuê Nhờ trời phù hộ em về cùng anh
985. Còn vợ cũ duyên tình chẳng bén Nàng có công vun vén cửa nhà Anh chìa vàng bạc lụa là Tiễn người vợ cũ có xa đừng phiền. Em yêu nói: trầu têm đừng chặt
990. Têm chặt e vôi gắt trầu non Yêu nhau yêu nóng chóng mòn Bình tâm sắp đặt, bản mường khó chê Người ấy bảo: mọi bề em chịu Đừng vứt em như xéo lá bay
995. Em xin giã gạo đỡ chày Em xin phơi lúa đổi tay đỡ chàng Đã có kiềng xin làm gạch cạnh Gặp chị xưa, xin phận thứ hai Chịu đau được đỡ đầu roi
1000. Được che ngọn kiếm chịu lời nhỏ to Làm đầy tớ sớm khuya hầu rượu Làm kẻ hầu buồng chiếu vợ chàng Ngoài hiên nằm ngủ cũng cam Cúi xin anh chị được làm vợ hai.
1005. Chàng mới bảo: chớ nài nèo nã Nhà rác đầy bởi vỏ măng tre Hay gì cả lẽ, đa thê Quanh năm xích mích, trở về đi thôi! Người vợ cũ tìm lời dặn lại
1010. Xin chào anh má ấp vai kề Chào con nhỏ để mẹ đi Về ông bà ngoại cùng dì cậu ta. Trông ra thấy có hoa cài tóc Khăn piêu đen phất tỏa đuôi voi
1015. Nàng đi nàng đã đi rồi Chàng thương đưa tận ra ngoài đường quan. Xin chúc cô bình an lành lặn Giữ gìn đừng dãi nắng dầm mưa Đồi dong chớp nhoáng bên bờ
1020. Mưa sa núi trám gió đưa bước nàng. Trời xui khiến bên chàng nên vợ Trúng hồng tâm mũi nỏ thần yêu Chỉ vào guồng cuộn tơ gieo An cư lạc nghiệp bao nhiêu là tình.
Hào Nam 105 Đê La Thành (Hà Nội), ngày 26 tháng 12 năm 1995.
HẾT
Giới thiệu về dịch giả Nguyễn Khôi:
Nguyễn Khôi: sinh 1938, quê Phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.. NR; 259/39 phố Vọng – Hà Nội. – Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội – UV BCH Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội – UV BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu số VN (Khóa 2) Chuyên viên Cao cấp, nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội Việt Nam
Các tác phẩm đã xuất bản:
– Trai Đình Bảng (thơ) nxb Văn Học 1995,vhtt 2000 – Gửi Mường bản xa xăm (thơ) nxb vhdt 1998 – Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998. – Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài) nxb vhdt 2005 – Bắc Ninh thi thoại (biên khảo) đã tái bản lần thư 3. – Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo nxb Vhdt 2006. – Cổ Pháp cố sự- 4 tập, 920 trang nxb vhdt, viết về cội nguồn nhà Lý. – Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000 (nxb lao động); tuyển tập thơ Việt Nam 1975-2000, nxb Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-nxb giáo dục1998; tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ 20 (nxb giáo dục-2005) , tuyển tập thơ Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ 21(nxb Hội Nhà Văn 2010)vv…
Dịch thuật:
– Sống Chu Son Sao (Tiễn Dặn Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái – Tiếng hát làm Dâu (dân ca H’mông) vv…
Giải thưởng :
– Giải thưởng viết về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bài thơ ” Về Hà Nội”. – Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp cố sự.
Chia sẻ:
- Thêm
Có liên quan
Từ khóa » Cá Heo × Cá Nóc Xoay Chuyển Số Mệnh
-
Ca Heo X Ca Noc | Memesspotify
-
Cha Của Con Tôi Là Cá Heo - Gia Ngữ ~ Đọc Truyện Đam Mỹ Hiện Đại ...
-
Nghiệp Biển - Tạp Chí Cửa Việt
-
Con Người, động Vật Và Nỗi đau Trước Cái Chết - BBC News Tiếng Việt
-
(PDF) Thành Phần Loài Cá Trong Vùng đệm Khu Bảo Tồn U Minh ...
-
Tổng Hợp Danh Sách Các Loại Cá Cảnh Nước Ngọt Việt Nam
-
10 Loài Sinh Vật Biển đáng Sợ Nhất
-
Vườn ảnh Lạ Vnth
-
Ngôn Tình - Trò Chơi Số Mệnh - Hắc Y Phàm - Việt Nam Overnight
-
VinWonders Phú Quốc - Official Website
-
CẨM NANG DU LỊCH NHA TRANG
-
Những Phát Minh đi Trước Thời đại Của Nikola Tesla - VnExpress
-
Trang Chủ Thư Viện Sách Nói Hướng Dương Dành Cho Người Mù