Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học

Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học

Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học

Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học

  • Điều kiện kinh tế – xã hội

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự ra đời và lớn mạnh của nền công nghiệp lớn. Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và sự chuyển đổi về cơ cấu. Tỷ trọng công nhân công nghiệp đã tăng đáng kể và trở thành bộ phận hạt nhân của giai cấp. Đây là lực lượng công nhân lao động trong khu vực sản xuất then chốt có trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhất. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự thống trị áp bức của giai cấp tư sản, biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Điều kiện kinh tế, xã hội ấy đòi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường, điều mà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó một vài thập kỷ đã không thể đảm đương; không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư tưởng của giai cấp công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự sinh thành ra lý luận mới, tiến bộ soi sáng sự vận động đi lên của lịch sử.

  • Tiền đề văn hoá và tư tưởng

Đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa học, văn hoá và tư tưởng. Trong khoa học tự nhiên, những phát minh vạch thời đại trong vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có tính cách mạng.

Trong triết học và khoa học xã hội, phải kể đến sự ra đời của triết học cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Hêghen, Phoiơbắc; của kinh          tế   chính         trị     học  cổ        điển Anh: A. Smít và    Đ. Ricácđô;   của  chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán: H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen. Những giá trị khoa học, cống hiến mà các ông để lại đã tạo ra tiền đề cho các nhà tư tưởng, các nhà khoa học thế hệ sau kế thừa. Vấn đề còn lại là ở chỗ ai là người có đủ khả năng kế thừa phát triển những di sản ấy và kế thừa, phát triển như thế nào?

Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học

Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) trưởng thành ở một quốc gia có nền triết học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc và phép biện chứng của V.Ph. Hêghen. Bằng trí tuệ uyên bác, các ông đã tiếp thu với một tinh thần phê phán đối với các giá trị của nền triết học cổ điển và với kho tàng tư tưởng lý luận mà các thế hệ trước để lại; sớm đắm mình trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động… tất cả những điều đó đã cho phép các ông đến với nhau, trở thành đôi bạn cùng chí hướng, giúp các ông nhận thức được bản chất của những sự kiện kinh tế – xã hội, chính trị – xã hội đang diễn ra trong lòng chế độ tư bản. Kế thừa    các giá           trị                       khoa                    học trong kho tàng     tư tưởng nhân loại, quan sát, phân tích với một tinh thần khoa học những sự kiện đang diễn ra… đã cho phép các ông từng bước phát triển học thuyết của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý luận nói chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về chất.

Nhờ hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng    dư,       các ông      đã luận          giải         một  cách khoa học             sứ mệnh   lịch  sử của giai cấp công nhân, (đây được coi là phát kiến lớn thứ ba của C. Mác và Ph. Ăngghen), khắc phục một cách triệt để những hạn chế có tính lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng. [1] chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tất yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc lột trở thành giai cấp thống trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh sự cần thiết phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân…

  • Thời kỳ thứ hai (1848-1871):

Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của các nước Tây Âu (1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi bật trong thời kỳ này được đánh dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa vị kinh tế – xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.

Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học

Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (1844-1895)

Quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội – khoa học có thể chia thành ba thời kỳ nhỏ.

– Thời kỳ thứ nhất (1844-1848):

Nét tiêu biểu trong thời kỳ này là C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự chuyển biến ấy được phản ánh trong các tác phẩm       tiêu   biểu như: Lời   nói   đầu              của   Góp phần       phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh tế – triết học 1844, Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học…

Sự xuất    hiện   tác phẩm        Tuyên ngôn           của Đảng      cộng   sản      vào      đầu năm 1848 do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo đánh dấu sự hình thành về cơ bản chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý cơ bản được nêu ra trong tác phẩm này đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội khoa học, nó thừa nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là người xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó chứng minh cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tất yếu để chuyển chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, để giai cấp công nhân từ giai cấp bị bóc lột trở thành giai cấp thống trị cả về chính trị và kinh tế. Nó thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội mới. Nó cũng chứng minh sự cần thiết phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản trong phong trào cộng sản và công nhân…

  • Thời kỳ thứ hai (1848-1871):

Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của các nước Tây Âu (1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi bật trong thời kỳ này được đánh dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa vị kinh tế – xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.

Trong thời kỳ này, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển phong phú thêm nhờ tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân. Mác đã rút ra kết luận hết sức quan trọng là, để giành lại quyền thống trị về chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan liêu tư sản, xây dựng một nhà nước mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các nhà sáng lập  chủ    nghĩa khoa học         đã        xây      dựng   học  thuyết vềcách mạng

không ngừng, về liên minh giai cấp của giai cấp công nhân, về chiến lược, sách lược đấu tranh giai cấp, về lựa chọn các phương pháp và hình thức đấu tranh trong các thời kỳ phát triển và suy thoái của cách mạng, v.v…………………………………………………………………………………………………………………..

  • Thời kỳ thứ ba (1871-1895):

C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari, được thể hiện trong các tác phẩm

chủ yếu Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh, Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước 

Trong các tác phẩm này, các ông đã nêu nhiều luận điểm quan trọng về phá huỷ bộ máy nhà nước tư sản, về một số nguyên lý xây dựng nhà nước mới, thừa nhận Công xã Pari là một hình thái nhà nước của giai cấp công nhân. ở thời kỳ này, nhất là trong hai tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta và Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã trình bày khá tập trung dự kiến khoa học về chủ nghĩa xã hội với những nét khái quát: Hình thái cộng sản chủ nghĩa chia thành hai giai đoạn thấp và cao; về mục đích, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khác về cơ bản với tất cả các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Đó là một xã hội tạo mọi điều kiện để phát huy năng lực của con người và nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của con người. Để đạt mục đích trên, các ông chỉ ra một số phương hướng cần phải làm…

Như mọi   hệ   thống  khoa            học   khác,   chủ   nghĩa   Mác nói chung,    chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng là một hệ thống chỉnh thể tri thức. Trong hệ thống ấy, có các tri thức về các nguyên lý cơ bản phản ánh các quy luật vận động biến đổi của xã hội là những tri thức phản ánh bản chất của khách thể, chúng tồn tại mãi mãi với thời gian và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Các tri thức về cách thức, biện pháp và phương pháp vận dụng các quy luật ấy có thể thay đổi và cần phải thay đổi theo những hoàn cảnh lịch sử     cụ           thể.                           Điều   này,     với      tư   cách là   những nhà khoa       học chân chính,sinh thời chính C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã căn dặn chúng ta. Điều quan trọng là không thể và không bao giờ được cho rằng những hạn chế, nhược điểm thậm chí cả sai lầm trong các cách thức, biện pháp tác động mà các ông nêu ra là những sai lầm của cả các tri thức phản ánh quy luật đã được nhận thức. Điều này cũng giống như, không thể vì những thất bại của hàng nghìn thí nghiệm của Êđixơn nhằm sáng chế ra đèn điện mà lại nói rằng nguyên lý về sự có thể chuyển điện năng thành nhiệt năng là sai lầm.

I. Lênin vận dụng và tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong hoàn cảnh lịch sử mới (1870-1924)

V.I. Lênin (1870-1924) là người đã kế tục một cách xuất sắc sự ghiệp cách mạng và khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen. Những đóng góp to lớn của Người vào sự vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học có thể được       chia thành hai       thời            kỳ       cơ        bản:      thời      kỳ        trước                   Cách                   mạng      Tháng Mười và thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Mười đến khi Người từ trần.

– Lênin     vận dụng  sáng  tạo  và phát triển    chủ  nghĩa  xã  hội  khoa  học thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười Nga

Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của hủ nghĩa xã hội khoa học, phân tích và tổng kết một cách nghiêm túc các sự kiện lịch sử diễn ra trong đời sống kinh tế – xã hội của hoàn cảnh lịch sử mới, V. I. Lênin phát hiện và trình bày một cách có hệ thống những khái niệm, phạm trù khoa học phản ánh những quy luật, những thuộc tính bản chất chi       phối            sự        vận      động   biến    đổi   của  đời sống  xã  hội   trong quá trình chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là các tri thức về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, về các nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, sách lược trong nội dung hoạt động của Đảng; về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và các điều kiện tất yếu cho sự chuyển biến sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và cương lĩnh dân tộc, đoàn kết và liên minh của giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác; những vấn đề về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan hệ cách mạng xã hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc.

Bên cạnh hoạt     động lý  luận,  V.I. Lênin đã     từng  bước  lãnh  đạo  Đảng của giai    cấp công nhân Nga    tập  hợp   lực   lượng   đấu  tranh   chống  chế  độ chuyên chế Nga hoàng, tiến tới giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga.

– V.I. Lênin vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, do yêu cầu của công cuộc xây dựng chế độ mới, V. I. Lênin đã tiến hành phân tích làm rõ nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế, xác định chính sách kinh tế mới nhằm sử dụng và học tập các kinh nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu nông lạc hậu của nước Nga Xôviết.

Cũng trong thời kỳ này, V. I. Lênin đã viết nhiều tác phẩm kinh điển trong đó nêu ra và luận giải cho một loạt những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, đấu tranh chống lại mọi trào lưu của chủ nghĩa cơ hội – xét lại, chủ nghĩa giáo điều và bệnh “tả khuynh” trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Cùng với những cống hiến hết sức to lớn cả về lý luận và chỉ đạo thực tiễn cách mạng, V. I. Lênin còn nêu một tấm gương sáng ngời về lòng trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp công nhân, với lý tưởng cộng sản do C. Mác, Ph. Ăngghen phát hiện và khởi xướng; đồng thời Người cũng luôn phê phán bệnh               giáo điều  để phát   triển   sáng  tạo  chủ  nghĩa  xã hội khoa      học.

Những điều đó đã làm cho V. I. Lênin trở thành một thiên tài khoa học và một lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.

Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi V. I.Lênin từ trần (từ 1924 đến nay)

Hơn 80 mươi năm đã trôi qua kể từ khi Lênin từ trần, chủ nghĩa xã hội khoa học, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới đã trải qua nhiều thử thách to       lớn, đã  có được   nhiều  thắng   lợi   vĩ   đại  và  cũng  đã  có những tổn thất to lớn.

Có thể     nêu một  cách  vắn tắt nhưng    đầy  đủ  những   nội  dung cơ   bản phản ánh sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong khoảng 80 năm qua như sau:

  • Mọi thắng lợi cơ bản, quan trọng của nhân dân lao động, của cách mạng thế giới trong thế kỷ XX đều có phần đóng góp trực tiếp, cơ bản và rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội, của sự vận dụng thành công những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở mỗi nước cũng như của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong đó thắng lợi vĩ đại nhất là đã đưa nhân dân thế giới thoát khỏi họa phátxít, là tiền đề quan trọng nhất dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, là sự hình thành và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa… Điều này đã đẩy nhanh tiến trình vận động của quy luật lịch sử nhân loại về phía trước. Cùng với những thành tựu trong đấu tranh, cách mạng, trong hoà bình xây dựng, các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần quan trọng vào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
  • Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã tổng kết nêu ra và tiếp tục phát triển bổ sung nhiều nội dung quan trọng cho chủ nghĩa xã hội khoa học, cả về lý luận lẫn các vấn đề về phương hướng, giải pháp tác động, chủ trương chính sách xây dựng chế độ xã hội mới ở mỗi nước, góp phần quan trọng vào quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội khoa học. Điều này có thể minh chứng qua các hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các diễn đàn và hội nghị khoa học, lý luận chính trị, các cuộc viếng thăm trao đổi song phương và đa phương, nhất là các kỳ đại hội của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, các nước đang tiến hành lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa hiện nay.
  • Sự thắng lợi, phát triển rực rỡ và sau đó là sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô có thể được coi là minh chứng cho sự thành công và thất bại của vận dụng, áp dụng các nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn. Chừng nào và ở đâu, đảng cộng sản nhận thức đúng, sáng tạo hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà trong đó cách mạng đang vận động, để đề ra các chủ trương chiến lược và sách lược đúng đắn vì mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chừng đó và ở đó, cách mạng phát triển và thu được những thắng lợi. Trong trường hợp ngược lại, cách mạng sẽ lâm vào thoái trào và bị thất bại. Vấn đề đặt ra đối với chủ nghĩa xã hội khoa học là từ trong những thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thập kỷ cuối thế kỷ XX, cần nghiêm túc phân tích, khái quát và rút ra các vấn đề lý luận, những bài học kinh nghiệm, từ đó có những phương thức, biện pháp chủ trương chiến lược và sách lược hợp lý trong hoàn cảnh mới, tiếp tục bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học, tiếp tục thực hiện thắng lợi trên thực tế chế độ xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học

Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo cho thấy, những thắng lợi, những thành tựu của cách mạng luôn gắn liền với quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển và hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học trong những điều   kiện           lịch                   sử    cụ thể của thời đại,         trên     cơ        sở                                            thực tiễn

Việt Nam. Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, sự xuất hiện và những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, cả trong những vấn đề hết sức cơ bản của lý luận ấy lẫn những tri thức về cách thức, biện pháp và chiến lược sách lược vận dụng chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng nước ta trước kia, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học của Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể được tóm tắt trên một số vấn đề cơ bản như sau:

  • Độc lập dân  tộc gắn  liền  với   chủ  nghĩa xã hội   là  một  tính quy   luật

của cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời đại ngày nay;

  • Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, 3~gtcNXiT ới kinh tế làm trung tâm, đồng thời đổi mới từng bước về chính

.,              ảo giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường

thuận lợi để đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội;

  • Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.                                 Đây                được xem như một nội dung     cơ                          bản, thể      hiện                                     sự  ưu            việt

của xã hội xã hội chủ nghĩa ngay từ những chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;

  • Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội rộng lớn và thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới;
  • Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế

giới, khai thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo                      định                    hướng xã             hội  chủ  nghĩa,  kết  hợp  sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại;

  • Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam – nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then chốt để      đảm bảo      tăng        cường        vai trò lãnh    đạo      của   Đảng         là           phải   coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra một số bài học lớn, góp phần phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.

“Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh…

Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp…

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới…

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới…

Năm là, nâng cao    năng   lực   lãnh   đạo  và   sức   chiến  đấu   của  Đảng,

không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân…”[1]

Trên đây là những bài học kinh nghiệm được khái quát từ thực tiễn đấu tranh cách  mạng   dưới    sự                                lãnh    đạo    của Đảng của                            giai  cấp  công nhân

Việt Nam, là kết tinh những thể hiện sinh động các nguyên lý, quy luật được đúc   kết của           chủ                     nghĩa      xã     hội      khoa      học    ở       Việt      Nam và trong hoàn

cảnh lịch sử Việt Nam, trong điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại ngày nay.

Từ khóa » Sự Ra đời Của Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học Dựa Vào điều Kiện Nào