Sứ Mệnh Của Nhà Giáo - Tuổi Trẻ Online

69SbXwjL.jpgPhóng to
Max Planck thời sinh viên tại Berlin, 1878.
TTO - Nhà giáo bao đời, và ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, đều có sứ mệnh thiêng liêng là dạy dỗ các thế hệ trẻ để truyền đạt kiến thức từ đời này sang đời khác, giúp xã hội tồn tại và không ngừng phát triển.

Nhưng “dạy dỗ” bao hàm khá nhiều ý nghĩa. Có những nhà giáo đã dạy dỗ bằng tấm gương cao quý để học sinh học hỏi và noi theo. Hoặc bằng cách gây ấn tượng mạnh sâu sắc và gieo những hạt giống tốt trong học sinh, đánh thức và làm nẩy nở các tài năng một cách âm thầm.

Chẳng hạn như người thầy Hermann Müller của Max Planck, người khai sáng thuyết lượng tử thế kỷ 20.

Chính người thầy toán này - cuối thế kỷ 19 chưa có môn vật lý - đã gây ấn tượng mạnh mẽ lên cậu học sinh Max qua bài giảng về định luật bảo toàn năng lượng.

Max Planck diễn tả trong tự thuật khoa học của mình: "tôi cảm thấy khích lệ bởi những giờ giảng bài tuyệt vời của thầy toán Herman Müller, một con người ở tuổi trung niên, sắc sảo và hài hước, đã diễn giải ý nghĩa của các định luật vật lý bằng những thí dụ đặc sắc”. Khi đã ngoài 80 tuổi, ông vẫn nhớ rõ: “Một trong những điềukhông quên được là thí dụ mà thầy Müller đã cho về thế năng của một người thợ hồ đang vận chuyển khó nhọc một viên đá xây dựng lên mái nhà. Công mà ông đã thực hiện không hề biến mất. Nó sẽ được tích tụ cả năm trời, cho đến ngày viên đá đó tách ra khỏi mái nhà, và rơi lên đầu của một người khách bộ hành đi qua.”

Planck đã tiếp nhận định luật này và ôm ấp giấc mơ đi tìm những định luật phổ quát như thế trong trời đất. Một hạt giống được đánh thức.

Chưa hết. Cũng chính Max Planck sau đó lại gặp một vị thầy thứ hai.

Planck thuật lại “Khi tôi làm học trình cuối cùng tại Berlin và từ giã để vào Đại học, tôi hỏi ý kiếnNgài Von Jolly, giáo sư ngành vật lý lý thuyết xem có nên học ngành này không, ông nói: “Vật lý lý thuyết, đó là một ngành rất đẹp, nhưng hiện tại lại không có ghế giáo sư cho nó. Cơ bản thì không còn gì mới. Với sự khám phá nguyên lý bảo toàn năng lượng, tòa nhà vật lý lý thuyết đã khá hoàn chỉnh. Người ta có thể đó đây quét ra được một hạt bụi trong một góc này hay góc kia của tòa nhà, nhưng sẽ không tìm được điều gì mới mẻ.”

Vị giáo sư đó cả quyết mà không biết rằng tòa nhà vật lý sắp sụp đổ chỉ không đầy một thập niên sau, và một trong những tác nhân chính là chàng sinh viên Max Planck đang đứng trước mặt mình. May mà sinh viên Planck đã không để mình bị nản lòng! Suýt nữa nhân loại đã mất đi thuyết lượng tử với vô vàn ứng dụng trong công nghiệp và cuộc sống.<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />

C08YuVTu.jpgPhóng to
Einstein lúc ở trường trung học Aarau, Thụy Sĩ .
Còn con người vốn “nổi loạn” từ nhỏ Albert Einstein thì cũng thế, ông gặp nhiều thầy đáng kính, như thầy văn mà ông nhớ mãi, nhưng cũng gặp không ít những vị thầy “đáng sợ”, kỷ luật và giáo điều như nhà binh, kiêu ngạo xem thường học sinh. Einstein sau này mới nói: “Kẻ thù lớn nhất của chân lý là sự ngạo mạn của quyền uy” (ngay cả trong giáo dục, khoa học).

Cho nên Einstein đã bỏ ngang trường ở Munich để một mình đến “tị nạn học” ở Thụy Sĩ. Ở đó, ông gặp một vị thầy rất khả kính, Jost Winteler, mà ông có thể nhận làm người cha tinh thần, rất tinh tế, biết tôn trọng và đầy tình thương yêu. Chính ông đã đem lại niềm tin cho Einstein để tiếp tục việc học.

Rồi lên đại học ETH ở Zürich Einstein lại gặp những vị thầy “áp đặt” làm ông cảm thấy ngột ngạt, khiến ông bỏ học nhiều giờ, trở thành nổi danh là anh sinh viên “lười biếng, cúp cua”.

Einstein đã trốn các vị thầy đó để được tự học cái mình đang khao khát! Và đã học được nhiều hơn ở giảng đường! Planck không bỏ học, nhưng thấy buồn tẻ và nản lòng trước các bài giảng, mà đó là bài giảng của những con chim đại bàng trong ngành vật lý lúc bấy giờ: H.Helmhotlz và G. Kirchhoff. Cuối cùng ông rút lui về tự học ở những tác phẩm có văn phong sáng sủa và đầy thu hút của Rudolf Clausius, người khám phá định luật cơ bản thứ hai của nhiệt học, và tác giả của khái niệm entrôpi.

Thầy Minkowski của Einstein cũng đâu phải là người tầm thường, ông là một ngôi sao sáng chói của toán học. Nhưng Einstein vẫn không thỏa mãn. Giấc mơ tri thức thầm kín của ông có lẽ không ai hiểu để tiếp sức, nên ông phải tự đi tìm con đường riêng chinh phục thế giới. Chỉ vài năm sau, thầy Minkowski phải giật mình không hiểu nổi tại sao cậu sinh viên lười biếng kia lại có được công trình nghiên cứu tuyệt vời về thuyết tương đối như thế.

Những thí dụ trên là sự minh họa rất sinh động tính hai mặt của sứ mệnh dạy dỗ thiêng liêng của người thầy. Dạy dỗ cũng thể là “khai hoang”, nhưng cũng có thể vô tình làm chết đi những hạt giống quý của quốc gia, “cắt cỏ” nhưng cũng có thể cắt bỏ luôn một cách oan nghiệt những mầm non mới chớm nở. Nhà vật lý học người Mỹ nổi tiếng R. Feynman đã nói về giáo dục: “Giáo dục là một sức mạnh, cho cả thiện và ác”.

Comenius, một nhà sư phạm nổi tiếng của thế kỷ 17 ở châu Âu, đã nói về con người như một tuyên ngôn: “Bản chất con người là yêu tự do, yêu quyền tự quyết và ghét bắt buộc. Cho nên nó muốn được chỉ đường đến chỗ phát triển chứ không muốn bị kéo đi, đẩy đi hay ép buộc”. Học sinh cần được hướng đến các nguồn tri thức chứ không nên bị kéo lôi. Miếng đất và không khí giáo dục phải được tạo ra sao cho màu mỡ, sách vở cần phải có nhiều nguồn và nhiều tính sáng tạo, và phải “xốp” để các hạt giống nảy mầm và phát triển tốt được.

Học sinh phải thở được không khí học tập dễ như hít thở khí trời tự nhiên, các em phải là chủ thế chứ không phải là "vật thể". Mọi cách giáo dục cứng nhắc khuôn mẫu đều làm cho miếng đất giáo dục khô khan và chai cằn, và không thể có được những cánh đồng bội thu. Hiểu biết, khoa học là sinh động, không phải là cái gì đơn điệu. Hãy xem thầy Hermann Müller của Max Planck.

Hãy là những vị thầy của tương lai, biết cái mình biết và chưa biết trong sự khiêm tốn, và luôn luôn phấn đấu để hiểu biết, để sáng tạo, nâng giáo dục lên thành nghệ thuật. “Kiến thức tự nó là khô cứng. Phải có thầy giỏi và trường tốt để làm sống nó lại” như Einstein nói. Học sinh không phải học để biết quá khứ hay hiện tại, mà các em phải học để có khả năng biết được tương lai và tự hoạch định cho mình! Mọi con đường dẫn đến khoa học, đến chân lý do đó không thể đóng kín mà phải được mở ra. Trong hướng đó chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sứ mệnh cao cả và thiêng liêng của nhà giáo.

Cuối cùng nhưng không phải thứ yếu: nhà giáo theo nghĩa rộng không phải chỉ có vai trò khi họ đứng lớp, mà họ còn có vai trò khi để lại những tác phẩm hay: sách vở. Những nhà khoa học vĩ đại bao giờ cũng là những con người tự học, và tìm đến các tác phẩm hay của những vị thầy trí tuệ, dù có lên lớp hay không. Đó chính là mái trường thứ hai rộng mở vươn đến tương lai cực kỳ quan trọng trong việc phát triển trí tuệ của nhân dân.

Từ khóa » Sứ Mệnh Của Người Thầy Là Gì