Nếu là một người mê Tam quốc, có lẽ không ai không biết về cuộc kết bái huynh đệ nổi tiếng của ba anh em Lưu Quan Trương mà người ta vẫn thường gọi là "kết nghĩa vườn đào”. Thế nhưng, có lẽ ít người biết rằng, kết nghĩa vườn đào chỉ là câu chuyện hoàn toàn bịa đặt của tác giả Tam quốc. Thực tế, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi chưa bao giờ kết bái huynh đệ chứ đừng nói tới vườn đào… Cuộc kết nghĩa của ba anh em Lưu Quan Trương là câu chuyện mở đầu của cuốn tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa” nổi tiếng được không ít người biết tới. Chuyện kể rằng, vào cuối thời nhà Hán, triều đình thối nát khiến cảnh đói rách tràn lan, những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi lên khắp mọi nơi. Năm đó, bọn giặc Khăn vàng nổi dậy chống lại triều đình, sức tấn công như vũ bão. Khi đại quân của chúng tấn công vào U Châu, thái thú của châu này là Lưu Yên rất lo lắng mới viết cáo thị dán giữa chợ để tìm người tài tham gia cùng binh lính triều đình chống giặc Khăn vàng. Hôm cáo thị đến Trác Quận thì cũng là lúc Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi tình cờ gặp nhau. Lưu Bị vốn là dòng dõi hoàng thất bị sa sút, phải làm nghề đan dép, bán chiếu kiếm sống, thấy cáo thị chiêu quân không nén được lòng mới cảm khái thở dài. Trương Phi làm nghề mổ lợn, tính tình nóng như lửa, thấy vậy mới quát hỏi: "Đại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?”. Lưu Bị thấy Trương Phi khí khái mới mời vào quán uống rượu bàn chuyện thế sự. Đương lúc đó thì Quan Vũ bước vào gọi rượu, nói rằng uống say để ngày mai giết giặc Khăn vàng. Thấy Quan Vũ tướng mạo hơn người, Lưu Bị mới sang mời lại cùng ngồi. Ba người nói chuyện càng lúc càng tâm đắc, cuối cùng Trương Phi đề nghị, ngày mai, ba người sẽ đến vườn đào để làm lễ kết bái anh em rồi cùng mưu tính việc lớn. Lưu Bị và Quan Vũ cho là phải, đồng ý nghe theo. Ngày hôm sau, Trương Phi sai người nhà bày lễ tại vườn đào, ba người quỳ trước hương án lạy hai lạy rồi cùng thề đồng tâm hiệp lực, sống chết có nhau. Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Đức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ 2, còn Trương Phi làm em út. Xuất hiện ở ngay hồi một và là ba nhân vật chính xuyên suốt của cuốn tiểu thuyết "ủng Lưu phản Tào” (ủng hộ Lưu Bị, chống lại Tào Tháo), cuộc kết nghĩa vườn đào của ba anh em Lưu Quan Trương từ trước tới nay luôn được coi là tấm gương mẫu mực cho tình huynh đệ kết nghĩa. Thậm chí, kết nghĩa vườn đào còn trở thành một điển cố giàu ý nghĩa trong văn chương. Thế nhưng, thực tế lịch sử lại diễn ra hoàn toàn không giống như những gì đã được tác giả La Quán Trung đã viết. Những bằng chứng rõ ràng nhất đều cho thấy, Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thực sự chưa bao giờ kết nghĩa làm anh em. 1.Không sử sách nào ghi chép Trong phần "Quan Vũ truyện”, sách "Tam quốc chí” của Trần Thọ có chép, khi Lưu Bị dựng cờ tập hợp quân sĩ, Quan Vũ, Trương Phi đã đến đầu quân dưới trướng. Lưu Bị sau đó được phong Bình Nguyên tướng, "thân thiết với Quan, Trương như anh em, còn ngủ cùng giường. Quan, Trương hai người ngày ngày hầu hạ bên cạnh, không quản ngại khó nhọc, gian khổ”. Quan Vũ từng nói: "Tôi chịu ơn của Lưu tướng quân, thề sẽ cùng sống chết”. Từ hai đoạn chép trong cuốn sử được coi là khá chính xác về thời đại Tam quốc như "Tam quốc chí” của Trần Thọ, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng mối quan hệ giữa Lưu, Quan, Trương rất thân thiết, vui buồn cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia. Quan Vũ, Trương Phi cũng rất chung thành với Lưu Bị, không quản gian khổ ngày ngày theo hầu bên cạnh để bảo vệ cho Lưu Bị. Tuy nhiên, trong nguyên văn Trần Thọ chỉ viết, ba người "thân như anh em” chứ hoàn toàn không nói ba người có quan hệ anh em hay đã từng kết bái làm anh em. Thêm nữa, câu nói của Quan Vũ cũng cho thấy, ba người chưa từng kết nghĩa huynh đệ như những gì La Quán Trung đã miêu tả trong "Tam quốc diễn nghĩa”. Bởi vì nếu như ba người đã từng kết nghĩa huynh đệ, Quan Vũ sẽ phải gọi Lưu Bị là "anh” chứ không bao giờ gọi Lưu Bị là "Lưu tướng quân” như Trần Thọ đã chép. Tuy nhiên, đây chưa phải là chứng cứ duy nhất. Sách "Tam quốc chí” phần "Trương Phi truyện” cũng có chép, từ khi Trương Phi còn trẻ đã cùng với Quan Vũ khởi sự và cùng thờ Lưu Bị. "Vũ lớn hơn nhiều tuổi, nên Phi coi như anh”. Như vậy, sách "Tam quốc chí” cũng chỉ chép Trương Phi xem Quan Vũ như anh chứ không đề cập đến Lưu Bị. Hơn nữa, sử gia này cũng chỉ nói, vì Quan Vũ nhiều tuổi hơn so Trương Phi nên Trương Phi đối đãi như anh chứ không phải hai người họ kết nghĩa. Gọi một người là "anh” hoàn toàn không có nghĩa rằng họ đã từng kết nghĩa làm anh em. Trong "Lưu Diệp truyện” của sách này cũng chép, sau khi Quan Vũ làm mất Kinh Châu, bị quân Đông Ngô giết chết, Ngụy Văn Đế Tào Phi, con Tào Tháo mới hỏi quần thần rằng liệu Lưu Bị có xuất binh tấn công Ngô hay không, trong số những người đứng hầu, Lưu Diệp bước ra đáp: "Lưu Bị và Quan Vũ nghĩa là quân thần, nhưng ơn như cha con, Quan Vũ bị giết hại, nếu như Lưu Bị không xuất quân báo thù cho hắn thì cả ơn cả nghĩa đều không thể coi là trọn vẹn trước sau với Quan Vũ”. Lưu Diệp dùng từ "cha con” để hình dung mối quan hệ cá nhân giữa Lưu Bị và Quan Vũ chứ không hề đề cập tới quan hệ anh em. Nếu như Lưu, Quan, Trương đã từng kết bái huynh đệ, ắt hẳn Lưu Diệp sẽ không nói như vậy. Từ những dẫn chứng nói trên, có thể khẳng định hai điều. Một là, mối quan hệ giữa Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi đích thực rất thân thiết, giống như anh em, cha con. Thứ hai, và điều này mới quan trọng, rằng không có bất cứ sử liệu nào ghi chép chuyện kết nghĩa vườn đào của Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, ngoại trừ "Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. 2.Quan Vũ mới là anh cả Trong hồi đầu tiên của "Tam quốc diễn nghĩa” có viết, khi giặc Khăn vàng nổi dậy nhằm vào năm Trung Bình thứ nhất đời Hán Linh Đế (tức năm 184), khi đó Lưu Bị đã 28 tuổi. Sau đó, trong cùng một ngày, Lưu Bị gặp cả Trương Phi và Quan Vũ, cả ba đều hận rằng đã gặp nhau quá muộn. Vì thế, ngay ngày hôm sau, ba người đã có buổi "kết nghĩa vườn đào” nổi tiếng mà ai cũng biết. Tuy nhiên, việc La Quán Trung nói trong "Tam quốc diễn nghĩa” rằng năm đó, Lưu Bị "tuổi đã 28” là không chính xác. Căn cứu theo "Tiên chủ truyện” (Truyện về Lưu Bị) của sách "Tam quốc chí” thì Lưu Bị chết vào tháng năm Chương Vũ thứ 3 (tức năm 223), năm đó, Lưu Bị "63 tuổi”. Theo cách tính tuổi truyền thống của người Trung Quốc là tính cả tuổi mụ thì Lưu Bị sinh vào năm 161. Như vậy, khi giặc Khăn vàng nổi dậy vào năm 184 thì Lưu Bị mới 23 tuổi. Lại xem đến tuổi của Quan Vũ. Sử sách ghi chép về năm sinh của Quan Vũ là "không rõ”, chỉ biết vị tướng mặt đỏ râu dài này mất vào năm Kiến Anh thứ 24 (tức là năm 219). Các nhà nghiên cứu sau khi bỏ rất nhiều công khảo chứng cho rằng, Quan Vũ sinh vào khoảng năm 159, lớn hơn Lưu Bị 2 tuổi. Vào những năm dưới triều vua Khang Hy nhà Thanh, khi đào giếng tại quê cũ Quan Vũ tại Giải Châu (nay là thành phố Vận Thành, Sơn Tây, Trung Quốc), người ta đã đào được bia mộ của ngôi mộ tổ của dòng họ Quan Vũ. Trên tấm bia mộ đào được có khắc gia thế của Quan Vũ. Khi đó, có một người tên là Chu Đán đã viết một bài văn có tên là "Ghi chép về tấm bia mộ tổ Quan Vũ”. Trong bài viết này Chu Đán có viết rằng, Quan Vũ sinh vào năm Diên Hy thứ 3 nhà Hán, tức năm 1960. Theo cách tư liệu này thì Quan Vũ hơn Lưu Bị 1 tuổi. Như vậy, dù theo nguồn sử liệu nào thì chí ít, Quan Vũ cũng lớn hơn Lưu Bị ít nhất là một tuổi. Tuổi của Trương Phi thì tương đối dễ xác định. Trong sách "Quan Công niên phổ” có chép, Trương Phi nhỏ hơn Lưu Bị 4 tuổi. Theo đó mà tính thì Trương Phi sinh vào khoảng năm 165 và kém Quan Vũ chí ít là 5 tuổi. Theo một tài liệu khác thì Trương Phi sinh vào năm 167. Từ những số liệu trên đây có thể khẳng định rằng, trong số ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi thì Quan Vũ là người lớn tuổi nhất, thứ đến là Lưu Bị rồi mới tới Trương Phi. Như vậy, giả như ba người họ có làm lễ kết nghĩa thành anh em mà các sử gia "quên” không ghi vào sử sách thì người anh cả phải là Quan Vũ chứ không phải Lưu Bị và bộ ba "Lưu Quan Trương” đáng ra phải là "Quan Lưu Trương” mới hợp lẽ. 3.Chuyện bịa đặt trong dân gian Như vậy, rõ ràng là chuyện "kết nghĩa vườn đào” của ba người Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là hoàn toàn không đáng tin vì vừa không có căn cứ về mặt sử liệu lại vừa có rất nhiều sơ hở. Vậy vì sao La Quán Trung lại đưa chuyện kết nghĩa vườn đào vào trong tiểu thuyết của mình mà lại đưa lên ngay vị trí đầu tiên của cuốn sách? "Tam quốc diễn nghĩa” vốn là một cuốn sách "bảy phần thực ba phần hư”. Tác giả La Quán Trung, sống cách thời Tam quốc hàng ngàn năm để viết được một cuốn sách như vậy phần lớn là căn cứ vào các câu truyện lưu truyền trong dân gian rồi biên soạn lại. Mà chuyện kết nghĩa vườn đào là một trong số không ít những câu chuyện do dân gian tưởng tượng mà nên. Việc dân gian lưu truyền cuộc kết nghĩa vườn đào của ba người Lưu Quan Trương có thể là do sự tưởng tượng từ câu "tình như anh em” trong cuốn chính sử của Trần Thọ. Còn việc Lưu Bị mặc dù nhỏ tuổi hơn Quan Vũ nhưng vẫn được tôn làm anh là vì Lưu Bị ít tuổi, song lại là vua. Trong mối quan hệ về mặt "hành chính”, Lưu Bị là "cấp trên” của Quan Vũ, do vậy khi dân gian tưởng tượng ra câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” đã đưa Lưu Bị lên làm anh. Như vậy mới gọi là biết "lễ”, biết "nghĩa”. Vấn đề là ở chỗ, từ khi nào thì câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” bịa đặt này bắt đầu xuất hiện? Chuyện "kết nghĩa vườn đào” xuất hiện trong "Tam quốc diễn nghĩa” rõ ràng là do La Quán Trung căn cứ trên các truyền thuyết dân gian rồi kết hợp với yêu cầu về tình tiết của cuốn tiểu thuyết mà sáng tạo nên. Nhưng trước khi cuốn sách Tam quốc nổi tiếng ra đời, thì câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” đã lưu truyền trong dân gian từ lâu. Theo khảo cứu thì muộn nhất là tới thời nhà Tống (khoảng thế kỷ 11) thì câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” bắt đầu lưu truyền. Cuối đời Tống, trong cuốn sách "Ghi chép về việc xây lại miếu” có chép: "Ban đầu, Quan Vũ và Xa kỵ tướng quân Trương Phi cùng với Lưu Bị làm bạn, kết thành anh em…”. Như vậy, bắt đầu từ đây, mối quan hệ "thân như anh em” trong chính sử, bắt đầu biến thành "kết thành anh em” trong các câu chuyện dân gian. Đến thời Nguyên sau đó, câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” này càng ngày càng trở nên đầy đủ và hoàn thiện hơn. Người ta bắt đầu thêm vào đó các tình tiết để câu chuyện trở nên phong phú hơn. Và cũng vì thế, bắt đầu xuất hiện những dị bản khác nhau về chuyện "kết nghĩa vườn đào”. Trong một vở kịch được dựng vào thời Nguyên, thời đại hý kịch phát triển nhất trong lịch sử Trung Quốc, có một vở kịch tên là "Kết nghĩa vườn đào của Lưu Quan Trương” có ghi lại câu chuyện như sau: Quan Doãn Bồ Châu họ Tang muốn nhân lúc thiên hạ rối loạn tự mình tạo dựng binh nghiệp, mời Quan Vũ làm tướng thống lĩnh. Quan Vũ giết họ Tang rồi trốn đến đất Phạm Dương, Trác Châu. Lúc đó, Trương Phi đang mở cửa hàng bán thịt tại đây. Một hôm, Trương Phi có việc ra ngoài, trước khi đi, cố ý dùng một tảng đá lớn đè lên một thành đao đặt phía trước cửa hàng, nói với người làm rằng, nếu như có người có thể lấy được thanh đao đặt dưới tảng đá thì đem toàn bộ thịt biếu cho người đó và phải nhớ người đó ở đâu. Không lâu sau, Quan Vũ đi ngang qua cửa hàng của Trương Phi, nghe câu chuyện này, mới nhẹ nhàng bước tới nâng tảng đá lớn, lấy thanh đao một cách dễ dàng. Tuy nhiên, Quan Vũ nhất định từ chối không nhận thịt. Khi Trương Phi trở về, biết chuyện này bèn đi tìm Quan Vũ đến quán rượu gặp mặt rồi bái Quan Vũ làm anh. Hai người sau đó lại gặp Lưu Bị. Thấy Lưu Bị tướng mạo phi phàm nên Quan Trương hai người mới mời uống rượu cùng. Lưu Bị uống say nằm ngủ, chỉ thấy có con rắn đỏ chui vào thất khiếu Lưu Bị. Quan Vũ cho rằng "phúc của người này tương lai ắt sẽ giàu sang phú quý”. Vì vậy, hai người lại cùng bái Lưu Bị làm anh. Ba người cùng mổ trâu giết ngựa, lập hương án tại vườn đào ngoại thành làm lễ trước trời đất đồng thời thề rằng: "Không cầu cùng sinh môt ngày, chỉ cầu sẽ cùng chết một ngày”. Trong một cuốn sách có tên "Lời bình về Tam quốc chí” cũng thuộc thời Nguyên, câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” càng được miêu tả chân thực hơn. Sách viết rằng: Quan Vũ quê ở Bình Dương, Bồ Châu, vốn là một người lương thiện, tướng mạo phi phàm, mắt phượng mày ngài, thân cao 9 thước 2, thích xem sách "Xuân Thu”, "Tả truyện”, mỗi khi xem đến đoạn bọn loạn thần tặc tử thì vô cùng tức giận. Sau đó, vì quan huyện Bình Dương tham tàn bạo ngược, tàn hại nhân dân trong huyện, Quan Vũ trong cơn tức giận đã giết chết tên quan độc ác, sau đó bỏ trốn đến Trác Quận. Ở Trác Quận có một người họ Trương, tên Phi, thân cao hơn 9 thước, tiếng nói như chiếc chuông lớn, là một người giàu có trong vùng. Một hôm, khi Trương Phi đang đứng trước cửa nhà mình thì nhìn thấy Quan Vũ đi qua. Trương Phi thấy người đàn ông đi qua trước mặt mình tướng mạo hơn người nên mới bước lên thi lễ hỏi thăm. Quan Vũ kể cho Trương Phi nghe câu chuyện mình giết người rồi phải bỏ trốn đến đây. Trương Phi nghe xong, cảm thấy Quan Vũ có chí của một anh hùng nên mời Quan Vũ tới quán rượu trò chuyện. Hai người vừa uống vừa trò chuyện, thấy rất tâm đầu ý hợp, giống như bạn cũ lâu ngày không gặp nhau. Vừa khi đó, có một người bán giày cỏ dạo trên phố tên Lưu Bị vừa bán hết hàng cũng vào quán rượu. Quan, Trương hai người nhìn thấy Lưu Bị tướng mạo phi phàm, khác hẳn người thường. Quan Vũ mời Lưu bị một chén rượu, Lưu Bị không khách khí, một hơi uống cạn. Nói chuyện vài câu, ba người bèn chuyển sang ngồi cùng một bàn. Uống một lúc, Trương Phi bỗng nói ở quán rượu đông người nói chuyện không tiện, nên mời Lưu Bị và Quan Vũ về nhà mình. Tại vườn đào phía sau nhà Trương Phi, ba người ngồi trong mái đình uống rượu trò chuyện. Trong cuộc trò chuyện, ba người so độ tuổi thì Lưu Bị lớn tuổi nhất, thứ đến Quan Vũ và trẻ nhất là Trương Phi. Vì thế, ba người bèn kết nghĩa làm anh em, lớn làm anh, nhỏ làm em, đồng thời mổ ngựa trắng, giết trâu đen làm lễ tế trời đất, nguyện không sinh cùng ngày nhưng sẽ chết cùng ngày. Từ những ghi chép sơ sài thời Tống, cho tới cuốn tiểu thuyết của La Quan Trung, có thể nói "Tam quốc diễn nghĩa” đã đưa câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” lên tới mức hoàn chỉnh nhất đồng thời đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật. Từ đời Tống, qua đời nhà Nguyên, "kết nghĩa vườn đào” đã lưu truyền trong dân gian một thời gian rất dài nên dị bản rất nhiều. La Quan Trung đã khéo léo lược bỏ những phần hoang đường, thô sơ trong các câu chuyện lưu truyền trong dân gian để viết thành phiên bản "kết nghĩa vườn đào” kinh điển nhất. Trong cuốn sách này, Lưu Quan Trương ba người kết nghĩa làm anh em trước hoàn cảnh đất nước gặp họa và cả ba đều muốn đầu quân tham gia giết giặc, bảo vệ đất nước. Với cách sáng tạo này, rõ ràng, câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” của La Quán Trung cao hơn hẳn các phiên bản khác, giúp người đọc tin phục một cách tuyệt đối rằng, hành động kết nghĩa của ba người Lưu Quan Trương là hành động vì chính nghĩa. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là, vì sao từ dân gian cho tới La Quán Trung đều muốn mọi người coi Lưu Quan Trương là chính nghĩa mà Tào Tháo là gian ác, phi nghĩa? Nếu như căn cứ theo cuốn chính sử "Tam quốc chí” của Trần Thọ thì Tào Tháo kỳ thực là một nhân vật kiệt xuất, hùng tài đại lược. Còn những Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi cho tới Khổng Minh đều hoàn toàn không phải là hiện thân của chính nghĩa, hay trung nghĩa mà chỉ là một trong ba thế lực cát cứ thời bấy giờ. Tuy nhiên, chỉ vài triều đại sau đó, hình ảnh hai phe phái này đã có sự đảo chiều, Tào Tháo dần dần trở thành kẻ gian hùng, hiểm ác còn Lưu Bị thì dần trở thành hóa thân của chính nghĩa. Đặc biệt là Quan Vũ và Khổng Minh thì ngày càng được thần thánh hóa. Họ được dân gian đặt ngang bằng với hoàng đế, thậm chí là cao hơn cả hoàng đế. Cho tới nay, ở Trung Quốc, số đền thờ Quan Vũ có tới hàng ngàn, nhiều hơn cả miếu thờ Khổng Tử. Quan điểm "ủng Lưu kháng Tào” bắt đầu xuất hiện từ thời nhà Đường, nhưng tới thời Nam Tống thì thực sự có một bước ngoặt. Đó là khi triều đình Bắc Tống bị quân Kim tấn công, chiếm cả thủ đô. Tàn quân nhà Tống chạy về phía nam, lập kinh đô mới ở Lâm An (nay là Hàng Châu) hình thành nhà Nam Tống. Bị quân Kim chiếm mất nửa đất nước, những người theo nhà Nam Tống đương nhiên hận đến thấu xương đối với những người Kim sống ở miền bắc. Trong thời kỳ Tam quốc, nước Ngụy của Tào Tháo chiếm cứ toàn bộ vùng phía bắc, còn nước Thục và nước Ngô thì ở phía nam. Vì thế, vào thời Nam Tống, mỗi khi nhắc tới những câu chuyện thời Tam Quốc, Tào Tháo trở thành kẻ địch trong tưởng tượng của họ. Thế là bao nhiêu nỗi uất hận đối với người Kim, những con dân Nam Tống đều dồn cả lên đầu Tào Tháo. Từ đó mà hình thành tư tưởng đề cao Lưu Bị, hạ thấp Tào Tháo. Câu chuyện giữa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi cũng là một nguyên nhân khiến Tào Tháo bị phản đối. Dân gian thường coi trọng tư tưởng trung nghĩa mà mối quan hệ thân thiết, trung thành giữa ba người Lưu Quan Trương thì thỏa mãn được nhu cầu tâm lý này. Hơn nữa, Lưu Bị dẫu sao vẫn là họ Lưu, nghĩa là con cháu nhà Hán. Còn Tào Tháo thì nói đi nói lại vẫn là con cháu một tên hoạn quan, xuất thân thấp hèn. Vì vậy, người ta đồng ý để Lưu Bị có thêm hai người anh em có võ nghệ cao cường với lòng trung thành tuyệt đối. Đó cũng là lý do vì sao, người ta lại bịa ra câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” hoàn toàn chưa bao giờ xảy ra này. |