Súng Máy – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm

Súng máy là loại súng tự động hoàn toàn có nòng xoắn, được thiết kế để bắn thẳng liên tục trong thời gian dài. Các loại hỏa khí tự động có cỡ nòng từ 20 mm (0,79 in) trở lên được xếp vào pháo tự động chứ không còn là súng máy.
Là một phân lớp vũ khí phóng đạn động năng trong quân sự, súng máy chủ yếu được dùng làm vũ khí yểm trợ bộ binh, và thường được triển khai khi gắn trên hai chân (bipod), ba chân (tripod), giá cố định hoặc bệ hỏa lực hạng nặng để tăng ổn định trước giật lùi. Nhiều súng máy còn dùng cơ chế tiếp đạn bằng dây và bắn khóa nòng mở, vốn là những đặc điểm thường không thấy ở các loại súng bộ binh khác.
Súng máy có thể được phân loại thêm thành súng máy hạng nhẹ (LMG), súng máy hạng trung (MMG), súng máy hạng nặng (HMG),súng máy đa chức năng (GPMG) và vũ khí tự động cấp tiểu đội (SAW).
Phân loại
[sửa | sửa mã nguồn]- Theo kích cỡ nòng: cỡ nòng cơ bản (5,56–7.62 mm), cỡ nòng lớn (12,7–15 mm),...
- Theo kích cỡ súng: tiểu liên, trung liên, đại liên,...
- Theo kiểu dáng: Báng gấp, báng xếp, súng có giá đỡ, súng có kính ngắm...
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn][Những thiết kế súng máy thành công đầu tiên xuất hiện từ giữa thế kỷ 19. Đặc trưng then chốt của súng máy hiện đại, bao gồm tốc độ bắn tương đối cao và quan trọng hơn,cơ chế nạp đạn bằng cơ khí[1] lần đầu thể hiện ở mẫu Gatling Model 1862, được Hải quân Hoa Kỳ biên chế. Các vũ khí này vẫn vận hành bằng tay; tuy nhiên, điều đó đã thay đổi với ý tưởng của Hiram Maxim: khai thác năng lượng giật lùi để tự nạp trong súng máy Maxim. Tiến sĩ Gatling cũng từng thử nghiệm mẫu dùng mô-tơ điện; như đã nói ở trên, dạng nạp đạn bằng nguồn ngoài này cũng đã được ứng dụng trong vũ khí hiện đại.
Dù cách dùng kỹ thuật của thuật ngữ “súng máy” có từng thay đổi, định nghĩa hiện đại do Hiệp hội Nhà sản xuất Vũ khí & Đạn dược Thể thao Mỹ (SAAMI) đưa ra là: “Súng tự động hoàn toàn tự nạp, bắn và tống vỏ liên tục khi giữ cò ở vị trí bóp cho đến khi hết đạn hoặc nhả cò.”[1] Định nghĩa này loại trừ phần lớn vũ khí lặp bắn vận hành thủ công đời đầu như Gatling và các súng bắn loạt kiểu Nordenfelt.
Thời trung cổ
[sửa | sửa mã nguồn]Những tổ tiên sớm nhất của vũ khí bắn nhiều phát là “súng đàn organ” thời trung cổ. Một ví dụ sớm về nỗ lực cơ giới hóa loại này là một “cỗ máy chiến tranh” do Anh chế tạo vào giữa thập niên 1570, có khả năng bắn 160–320 phát, mỗi loạt 4, 8, 12 hoặc 24 viên, với tốc độ bắn ước tính gấp khoảng 3 lần xạ thủ hỏa thương điển hình thời đó. Người ta còn tuyên bố khẩu súng “nạp lại bao nhiêu cũng được” và bắn trong mọi thời tiết, dù chính quyền Anh đã không tiếp nhận sau các cuộc thử nghiệm tại Tháp London.[2][3] Những hỏa khí đầu tiên bắn nhiều phát từ một nòng mà không cần nạp tay hoàn toàn là súng ổ xoay sản xuất ở châu Âu cuối thế kỷ 16. Một khẩu dài cỡ súng vai được chế tạo tại Nuremberg (Đức) khoảng 1580. Một khẩu khác là hỏa thương ổ xoay do Hans Stopler (Nuremberg) sản xuất năm 1597.[4]
Thế kỷ 17
[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi đạn liền vỏ (unitary cartridge) ra đời, súng dài bắn liên tiếp thực thụ rất khó chế tạo; tuy vậy, vẫn có các súng trường bắn lặp kiểu đòn bẩy như Kalthoff repeater và Cookson repeater được sản xuất số lượng nhỏ trong thế kỷ 17.
Có lẽ những ví dụ sớm nhất tiền thân của súng máy hiện đại lại xuất hiện ở Đông Á. Theo Wu-Pei-Chih (Ngũ Binh Chí) — sách khảo cứu trang bị quân sự Trung Hoa biên soạn vào đầu thế kỷ 17, quân đội Trung Quốc có trong kho “Po-Tzu Lien-Chu-P’ao” (“pháo chuỗi 100 viên”). Đây là pháo bắn lặp nạp bằng phễu, chứa bi đạn và bắn nối tiếp từng phát. Cách vận hành của nó tương tự súng hơi nước Perkins (1824) hay súng điện phân Beningfield (1845), chỉ khác là thuốc súng cháy chậm được dùng làm lực đẩy thay cho hơi nước hoặc khí sinh ra từ điện phân.[5] Một khẩu súng bắn lặp khác do Đới Tử chế tạo vào cuối thế kỷ 17 cũng nạp bằng phễu, nhưng không bao giờ sản xuất hàng loạt.[6]
Năm 1655, trong cuốn The Century of Inventions của Edward Somerset, Hầu tước xứ Worcester đời thứ 2, có nhắc tới một phương thức nạp, ngắm và bắn tới 6 khẩu đại hỏa thương gắn tường 60 lần/phút, đạt tổng tốc độ 360 phát/phút; tuy nhiên, giống như mọi phát minh được nêu trong sách, không rõ nó đã từng được chế tạo hay chưa.[7]
Đôi khi có ý kiến cho rằng (ví dụ trong cuốn The Machine Gun của George Morgan Chinn) vào năm 1663 đã có đề cập đầu tiên tới nguyên lý tự động của súng máy trong một bản thuyết trình trước Hội Vương thất Luân Đôn do Palmer (một người Anh) trình bày, mô tả một súng bắn loạt có thể vận hành nhờ lực giật hoặc khí thuốc.[8] Tuy nhiên, không ai tìm thấy bản thuyết trình này trong thời gian gần đây, và mọi tham chiếu tới một loại vũ khí bắn nhiều phát do một người tên Palmer thời kỳ đó dường như chỉ đang nói về các mẫu Kalthoff repeater hoặc súng hệ Lorenzoni vốn phổ biến hơn. Mặc dù vậy, cũng có một ghi chép năm 1663 nói tới ít nhất là khái niệm về một khẩu súng tự động đích thực được trình cho Hoàng thân Rupert; tuy nhiên, kiểu loại và cách thức hoạt động của nó không rõ.[9]
Thế kỷ 18
[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1708, từ Constantinople có báo cáo rằng một sĩ quan Pháp đã phát minh ra một loại đại bác rất nhẹ có thể bắn từ một nòng 30 phát trong 2 phút rưỡi, đạt tốc độ bắn tổng cộng 12 phát/phút.[10][11]
Năm 1711, một luật sư người Pháp tên Barbuot trình lên nghị viện Dijon một “cỗ máy chiến tranh” quay tay gồm 10 nòng carbine, nạp bằng “trống”, có thể bắn loạt. Người ta nói rằng nó chính xác ở khoảng 400–500 bước chân, và khi áp sát có thể xuyên qua 2–3 người một lúc. Cũng có tuyên bố rằng nó bắn được 5–6 loạt trước khi bộ binh vào tới tầm súng hỏa mai hoặc kỵ binh vào tới tầm súng lục, và khoảng cách thời gian giữa các loạt không nhiều hơn thời gian châm mồi, giương cò và thả búa của một khẩu súng lục; đồng thời tính cơ động gần tương đương kỵ binh. Một biến thể khác nặng hơn được cho là có thể phóng lựu, và còn có đề xuất lắp ống bễ để thổi sạch khói tích tụ trong quá trình bắn.[12][11]
Một khẩu súng ổ xoay đời rất sớm khác do James Puckle, một luật sư London chế tạo; ông được cấp bằng sáng chế cho thứ ông gọi là “Puckle Gun” vào 15/5/1718. Đây là thiết kế đại bác hỏa mai cỡ 1,25 inch (32 mm), vận hành thủ công, dùng ổ trống xoay có thể bắn 6–11 phát trước khi thay ổ để nạp lại, dự định trang bị trên tàu.[13] Đây là một trong những vũ khí đầu tiên từng được gọi là “súng máy” (năm 1722),[14] dù cách vận hành không trùng với nghĩa hiện đại của thuật ngữ. Tuy nhiên, nó thất bại thương mại và không được tiếp nhận hay sản xuất với số lượng đáng kể.
Năm 1729, tại Pháp có một báo cáo về một cỗ máy có thể bắn 600 viên trong vài phút.[15]
Thế kỷ 19
[sửa | sửa mã nguồn]
Súng máy Gatling, được Richard Jordan Gatling đăng ký bằng sáng chế năm 1861, là vũ khí đầu tiên cung cấp hỏa lực tuần tự có kiểm soát với cơ chế nạp đạn cơ khí. Các đặc điểm then chốt của thiết kế là nạp bằng máy đối với đạn liền vỏ đã chuẩn bị sẵn và tay quay để bắn tuần tự tốc độ cao. Súng lần đầu tham chiến rất hạn chế trong Nội chiến Hoa Kỳ; sau đó được cải tiến và dùng trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nhiều khẩu được bán cho các quân đội nước ngoài vào cuối thế kỷ 19 và tiếp tục sử dụng tới đầu thế kỷ 20, cho đến khi dần bị súng máy Maxim thay thế. Các khẩu đa nòng đời đầu có kích thước và khối lượng xấp xỉ pháo binh cùng thời, thường được xem là thay thế cho đạn chùm hoặc đạn ống của pháo.[16] Bánh xe lớn cần để cơ động khẩu súng buộc phải đặt cao khi bắn, làm tăng độ dễ bị tổn thương của kíp chiến đấu.[16]Các loạt bắn dài với thuốc súng đen tạo đám khói dày, khiến không thể ngụy trang cho đến khi thuốc phóng không khói xuất hiện cuối thế kỷ 19.[17] Súng Gatling thường bị pháo binh bắn chế áp từ tầm với mà nó không vươn tới, và kíp súng bị lính bắn tỉa nhắm vào từ các vị trí không thấy được.[16]Súng máy Gatling hiệu quả nhất trong thời kì mở rộng đế quốc thuộc địa châu Âu, vì đối đầu với đội quân bản địa trang bị kém nên không gặp những mối đe dọa như trên.[16]
Năm 1864, sau Chiến tranh Schleswig lần thứ hai, Đan Mạch khởi động một chương trình nhằm phát triển khẩu súng tận dụng lực giật của phát bắn để tự nạp, dù mẫu hoạt động phải đến 1888 mới được chế tạo.[18]
Súng máy Maxim và Thế chiến thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Khẩu súng máy tự vận hành thực tiễn đầu tiên được Sir Hiram Maxim phát minh năm 1884. Súng máy Maxim dùng năng lượng giật của viên đạn vừa bắn để chu trình nạp–bắn–tống vỏ, thay vì quay tay, cho phép tốc độ bắn cao hơn nhiều so với các thiết kế trước như Nordenfelt và Gatling. Maxim cũng đưa vào làm mát bằng nước qua áo nước quanh nòng để giảm quá nhiệt. Súng của Maxim được tiếp nhận rộng rãi, và các thiết kế phái sinh được dùng ở cả hai phía trong Thế chiến I. Thiết kế này cần ít người hơn và nhẹ/dễ dùng hơn so với Nordenfelt và Gatling. Thực chiến trong Thế chiến I khẳng định tầm quan trọng quân sự của súng máy: Lục quân Hoa Kỳ cấp 4 khẩu/ trung đoàn vào năm 1912, nhưng đến 1919 con số đó đã tăng lên 336 khẩu/ trung đoàn.[19]

Những khẩu súng máy hạng nặng dựa trên Maxim như súng máy Vickers được bổ sung bởi nhiều loại vũ khí liên thanh khác, phần lớn ra đời từ đầu thế kỷ 20 như súng máy Hotchkiss. Tiểu liên (ví dụ MP 18 của Đức) cũng như súng máy hạng nhẹ (loại đầu tiên được triển khai với số lượng đáng kể là Madsen, tiếp theo là Chauchat và Súng máy Lewis) lần đầu được dùng quy mô lớn trong Thế chiến I, cùng với việc sử dụng rộng rãi súng máy cỡ lớn. Nguyên nhân gây thương vong lớn nhất trong Thế chiến I thực ra là pháo binh, nhưng khi kết hợp với hàng rào dây thép gai, súng máy đã tạo nên nỗi khiếp sợ trên chiến trường.
Một phát triển nền tảng khác trước và trong chiến tranh là việc các nhà thiết kế tích hợp cơ chế tự nạp của súng máy vào súng ngắn, làm xuất hiện súng ngắn bán tự động như Borchardt (1890s), các súng ngắn liên thanh và sau đó là tiểu liên như Beretta 1918.
Súng máy gắn trên máy bay lần đầu được dùng trong chiến đấu ở Thế chiến I. Ngay lập tức nảy sinh một vấn đề cơ bản: vị trí hiệu quả nhất để ngắm bắn trên tiêm kích một chỗ ngồi rõ ràng là ngay trước mặt phi công; nhưng đặt như vậy thì đạn sẽ bắn trúng cánh quạt đang quay. Những giải pháp ban đầu ngoài việc đặt súng bắn thẳng trước mũi nhưng phó mặc “ăn may” — gồm: dùng máy bay cánh đẩy như Vickers F.B.5, Royal Aircraft Factory F.E.2 và Airco DH.2; gắn súng ở cánh như Nieuport 10 và Nieuport 11 để tránh cánh quạt hoàn toàn; hoặc bọc giáp cho cánh quạt như trên Morane-Saulnier L để hất lệch loạt đạn không đồng bộ. Đến giữa năm 1915, Quân đoàn Không quân Đế quốc Đức đưa vào sử dụng bộ đồng bộ súng đáng tin cậy, cho phép bắn súng máy khóa kín thẳng qua cánh quạt đang quay bằng cách canh thời điểm khai hỏa để tránh lưỡi quạt. Phe Hiệp ước chưa có hệ thống tương đương cho đến năm 1916, khiến máy bay của họ chịu tổn thất nặng; giai đoạn này được gọi là “Nỗi kinh hoàng Fokker” (Fokker Scourge), theo tên Fokker Eindecker, chiếc máy bay Đức đầu tiên tích hợp công nghệ mới này.
Interwar era and World War II
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi các vật liệu tốt hơn trở nên sẵn có sau Thế chiến thứ nhất, súng máy hạng nhẹ trở nên dễ mang vác hơn; các thiết kế như Bren đã thay thế những tiền nhiệm cồng kềnh như Lewis trong vai trò vũ khí yểm trợ cho tiểu đội, trong khi ranh giới hiện đại giữa súng máy hạng trung như Browning M1919 và súng máy hạng nặng như Browning M2 trở nên rõ ràng hơn. Các thiết kế mới phần lớn loại bỏ hệ thống làm mát bằng áo nước vì bị coi là không mong muốn do nhấn mạnh nhiều hơn vào chiến thuật cơ động và cũng không còn cần thiết, nhờ kỹ thuật thay nòng để ngăn quá nhiệt vốn thay thế và vượt trội hơn.
Những năm giữa hai cuộc chiến cũng sản sinh ra súng máy đa chức năng đầu tiên được sử dụng rộng rãi và thành công, MG 34 của Đức. Dù khẩu này có thể đảm nhiệm tốt cả vai trò hạng nhẹ lẫn hạng trung, nó tỏ ra khó sản xuất hàng loạt; các chuyên gia gia công kim loại công nghiệp đã được huy động để tái thiết kế vũ khí cho phù hợp với dụng cụ hiện đại, tạo ra MG 42. Loại này đơn giản hơn, rẻ hơn để chế tạo, tốc độ bắn cao hơn, và đã thay thế MG 34 trong mọi ứng dụng ngoại trừ lắp đặt trên phương tiện, vì cơ chế thay nòng của MG 42 không thể thao tác khi súng đang gắn cố định
Cold War
[sửa | sửa mã nguồn]
Kinh nghiệm với MG 42 dẫn tới việc Hoa Kỳ đưa ra yêu cầu thay thế Browning Automatic Rifle (BAR) đã lỗi thời bằng một vũ khí tương tự, đồng thời cũng thay thế M1919; việc dùng ngay MG 42 là không khả thi, vì bản yêu cầu thiết kế đòi hỏi một vũ khí có thể bắn từ hông hoặc từ vai như BAR. Thiết kế kết quả, súng máy M60, đã được trang bị cho binh sĩ trong Chiến tranh Việt Nam.
Khi trở nên rõ ràng rằng cần một vũ khí có mật độ hỏa lực rất cao cho máy bay phản lực tốc độ lớn để có thể bắn trúng đối phương một cách đáng tin cậy, công trình của Gatling về vũ khí vận hành bằng điện được nhớ lại và M61 Vulcan cỡ 20 mm được thiết kế; đồng thời một phiên bản thu nhỏ cỡ 7,62 mm, ban đầu gọi là “mini-Vulcan” và nhanh chóng rút gọn thành “minigun”, sớm được đưa vào sản xuất để sử dụng trên trực thăng, nơi mật độ hỏa lực có thể bù đắp cho sự bất ổn của trực thăng với tư cách bệ bắn.
Một số loại súng máy
[sửa | sửa mã nguồn]Súng máy tự động (1884)
[sửa | sửa mã nguồn]Hiram Stevens Maxim (1840-1916), người Anh gốc Mỹ, vào năm 1884 đã phát minh ra loại súng máy tự động đầu tiên bắn liên tục, hoạt động nhờ hiệu ứng giật lùi. Được sửa cho thích hợp với thuốc súng không khói vào năm 1884, nó đã tỏ ra có chất lượng tốt và nguyên lý nạp đạn tự động nhờ lực giật của Maxim vẫn được duy trì trong khá nhiều các loại súng máy ngày nay.
Xuất phát từ phát minh đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các phương án hoạt động khác thay cho nạp đạn nhờ lực giật. Vào năm 1892 thì John Browning cùng với một nhà thiết kế vũ khí người Mỹ khác tên Matthew S. Browning đã được chính quyền Hoa Kỳ cấp bằng sáng chế cho một khẩu súng máy có cơ chế bắn hoàn toàn liên thanh nhờ trích lại một phần khí thuốc trong việc nạp đạn khi súng đang bắn. Khẩu súng máy đó được sử dụng phổ biến bởi quân đội Hoa Kỳ từ năm 1896. Sau đó, nó còn được Hoa Kỳ bán cho các nước như: Canada, đế quốc Nga, Úc, Bỉ,... Năm 1893, đại úy Odkolek von Augeza, một sĩ quan cũ của quân đội Áo-Hung đã đăng ký một phát minh rất giống như vậy mà ông đã chuyển nhượng lại cho hãng Hotchkiss et Cie.. Hãng vũ khí này do một người Pháp gốc Mỹ tên Benjamin B. Hotchkiss (1828-1885) thành lập, đã trở nên nổi danh với loại pháo quay 37mm 6 nòng bắn nhanh của hãng. Từ đầu thế kỷ, hãng đã chế tạo ra ra một số các mẫu mà đỉnh cao là loại súng máy hạng nặng nổi tiếng Hotchkiss Model 1914 trang bị cho không chỉ quân đội Pháp mà cho cả quân đội của nhiều nước khác, trong đó có cả Mỹ. Mỹ dùng Hotchkiss 1914 cho tới tận năm 1919, khi mà khẩu M1919 Browning ra đời và thay thế.
Súng trung liên (1902)
[sửa | sửa mã nguồn]
Súng trung liên là một loại vũ khí có sức sát thương cao, được sử dụng rất phổ biến trong các đội quân với tầm xa khoảng 600 mét. Súng trung liên Degtyarev cỡ nòng 7.62 mm do Liên Xô thiết kế. Trung Quốc gọi là trung liên Type 56, Việt Nam gọi là trung liên RPD.
Súng trung liên RPD là loại vũ khí tự động có hỏa lực mạnh của tiểu đội bộ binh do một người sử dụng dùng để tiêu diệt sinh lực địch tập trung, những mục tiêu lẻ quan trọng hoặc những hỏa điểm của địch trong vòng 800m chi viện cho bộ binh xung phong.
Năm 1902, 2 vị thợ súng người Đan Mạch là Julius A. Ramussen và Theodor Schobue đã giới thiệu một loại súng máy mới có thể dễ dàng cơ động bởi 1 người lính. Súng được tướng Vilhem Herman Oluf Madsen thông qua vào cuối năm 1902 như là khẩu súng máy hạng nhẹ tiêu chuẩn của quân đội Đan Mạch. Nó được sản xuất liên tục bởi DISA Company của Đan Mạch từ năm 1903 cho đến tận những năm cuối thập niên 1950s. Những mẫu khác đã ra đời tiếp ở những hãng khác. Thực ra, rất nhanh sau đó đã có một sự khác nhau trong các loại súng máy nhỏ, dễ di chuyển nhưng cần nhiều người điều khiển như những loại nổi tiếng MG 34 và MG 42 trong Thế chiến thứ II, cũng tồn tại phương án "súng máy nặng" và khái niệm súng tập thể do một hoặc hai người sử dụng, nghĩa là súng trung liên (FM).
Loại súng trung liên đầu tiên xứng với tên gọi đó đã được đưa vào sử dụng chắc chắn là loại FM 15 của quân đội Pháp, cũng còn được gọi là CSRG theo tên của những người phát minh (Louis Chauchat, Charles Sutter và Paul Ribeyrolles) cũng như của cơ sở đã chế tạo các nguyên mẫu (hãng Gladiator). Đó là loại súng thô và khả năng vận hành kém nhưng được chế tạo với số lượng lớn và cũng được chấp nhận, do không có điều kiện hơn nữa, bởi quân đội Mỹ từ năm 1917.
Ngoài ra, còn các loại súng trung liên M1918 BAR của John Browning, ZB 26 Tiệp của anh em Holek (Vaclav, Emanuel và Frantisek Holek) và loại dẫn xuất từ nó của Anh, loại Bren nổi tiếng, loại Lewis Anh bộ lắp đạn tròn, cuối cùng là loại FM Pháp Model 1924 M.29, được một nhóm dưới sự chỉ đạo của đại tá Reibel thiết kế ra.
Xuất xứ của một vài loại súng máy
[sửa | sửa mã nguồn]Tiệp Khắc / Cộng hòa Séc
- ZB vz. 26
- ZB vz. 37
Đức
- Maschinengewehr 08
- Maschinengewehr 13
- Maschinengewehr 34
- Maschinengewehr 42
- Maschinengewehr 131
- Rheinmetall MG3
- Heckler & Koch MG4
Hàn Quốc
- Daewoo K3
Hoa Kỳ
- M60
- Browning M2
- M61 Vulcan
- M134
- M240
- M249
- M312
Israel
- IMI Negev
Nga / Liên Xô
- PM M1910
- Degtyarov DP
- RP-46
- Berezin UB
- DShK
- Degtyarov DS-39
- SG-43 Goryunov
- RPD
- KPV
- RPK
- RPK-74
- PK
- PKP Pecheneg
- NSV
- Kord
Nhật Bản
- Ho-103
- Súng máy hạng nặng Kiểu 1
- Súng máy hạng nặng Kiểu 3
- Súng máy hạng nhẹ Kiểu 11
- Súng máy hạng nhẹ Kiểu 92
- Súng máy hạng nặng Kiểu 92
- Trung liên Kiểu 96
- Súng máy hạng nhẹ Kiểu 97
- Súng máy hạng nhẹ Kiểu 99
- Sumitomo NTK-62
Phần Lan
- Lahti-Saloranta M/26
Pháp
- Saint-Étienne modèle 1907
- Hotchkiss modèle 1914
- Chauchat
- Hotchkiss modèle 1922
- Súng máy Darne
- MAC 24/29
- Súng máy Reibel
- MAC 1934
- AA-52
Singapore
- CIS 50MG
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
- Súng máy hạng nặng Kiểu 77
- Súng máy hạng nhẹ Kiểu 81
- QBB-95
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
- Súng máy Vickers
- Bren
- L86A1
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b "SAAMI.org terminology glossary". Sporting Arms and Ammunition Manufacturers' Institute. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2015.
- ^ "Letters and papers described in the published Calendar of State Papers, Domestic: Edward VI, Mary, and Elizabeth". Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022.
- ^ Henry Dircks (2021). Inventors and Inventions: In Three Parts. BoD – Books on Demand. tr. 203. ISBN 9783752531671. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022.
- ^ Pauly, Roger (2004). Firearms: The Life Story of a Technology. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-32796-4.
- ^ Song, Yingxing; Sun, E-tu Zen; Sun, Shiou-Chuan (1997). Chinese Technology in the Seventeenth Century. Courier Corporation. tr. 271. ISBN 978-0-486-29593-0. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
- ^ Needham, Joseph (1987). Science and Civilisation in China: Volume 5, Chemistry and Chemical Technology, Part 7, Military Technology: The Gunpowder Epic. Cambridge University Press. tr. 408. ISBN 978-0-521-30358-3. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
- ^ Edward SOMERSET (2nd Marquis of Worcester.) (ngày 3 tháng 4 năm 1825). "A Century of the Names and Scantlings of Such Inventions, as at Present I Can Call to Mind to Have Tried and Perfected, Etc. With Historical and Explanatory Notes, and a Biographical Memoir by C.F. Partington". Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021 – qua Google Books.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ Willbanks, James H. (2004). Machine Guns: An Illustrated History of Their Impact. ABC-CLIO. ISBN 9781851094806. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2020 – qua Google Books.
- ^ Birch, Thomas (1756). "The History of the Royal Society of London for Improving of Natural Knowledge, from Its First Rise: In which the Most Considerable of Those Papers Communicated to the Society, which Have Hitherto Not Been Published, are Inserted in Their Proper Order, as a Supplement to the Philosophical Transactions". Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2020.
- ^ "Inventaire sommaire des archives historiques (Archives anciennes. Correspondance)". Paris, Imprimerie nationale. 1898.
- ^ a b "Le Chasseur Français N°595 Janvier 1940 p. 60". Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2022.
- ^ "Inventaire sommaire des archives historiques (Archives anciennes. Correspondance)". Paris, Imprimerie nationale. 1898.
- ^ "The Armoury of His Grace the Duke of Buccleuch and Queensberry" (PDF). University of Huddersfield. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2015.
- ^ "Mémoires, rapports, correspondance concernant diverses inventions et propositions, 1729–1784 : Machine pour tirer 600 balles en quelques minutes; moulins à bras pour le service des vivres; « pompes et agrès servant à remédier aux accidents... | Service historique de la Défense". Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2023.
- ^ a b c d Emmott, N.W. "The Devil's Watering Pot", United States Naval Institute Proceedings, September 1972, p. 70
- ^ Emmott, N.W. "The Devil's Watering Pot", United States Naval Institute Proceedings, September 1972, p. 72
- ^ "Sidste skud fra det danske maskingevær Madsen". www.avisen.dk. ngày 3 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2021.
- ^ Ayres, Leonard P. (1919). The War with Germany (ấn bản thứ 2). Washington, D.C.: United States Government Printing Office. tr. 65.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- GunTrustLawyer.com – US site with information on the legality of owning a machine gun in each state under the National Firearms Act and individual state regulations.
- How Stuff Works – Article on the operation of Machine Guns, animated diagrams are included.
- Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 15.315 – A patent for an early automatic cannon
- Vickers machine gun site
- The REME Museum of Technology – machine guns Lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2012 tại Wayback Machine
- Discover Military Machine Guns Lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2017 tại Wayback Machine
- From Gatling to Browning Lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2016 tại Wayback Machine September 1945 article Popular Science
Từ khóa » Súng Liên Thanh đầu Tiên
-
Súng Máy Hạng Nặng – Wikipedia Tiếng Việt
-
10 Khẩu Súng Nổi Danh Nhất Trong Lịch Sử Chiến Tranh - Zing News
-
Lịch Sử Súng_máy - Tieng Wiki
-
Súng Trường Tiến Công L85A1 - Cuộc Cách Mạnh Trong Chế Tạo Vũ ...
-
Câu Chuyện Của Người Việt Nam đầu Tiên Chế Tạo Ra Súng Không ...
-
Hiram Maxim – “Cha Đẻ” Của Chiếc Súng Máy Tự Động Đầu Tiên ...
-
1001 Thắc Mắc: Súng Máy Và Súng Trường Khác Nhau Như Thế Nào?
-
Súng Máy - Wiki Là Gì
-
10 Khẩu Súng Tiểu Liên Uy Lực Hàng đầu Trên Thế Giới - Hànộimới
-
Lịch Sử Phát Triển Súng đạn - Buổi Sớm Mai
-
Tổng Hợp Tất Cả 6 Loại Súng Và Vũ Khí Khác Trong Pubg Mobile
-
Soi Uy Lực Của Súng Trường Nga: AK-47 Và AK-74 | VOV.VN
-
Nhà Thiết Kế Súng Cối Kiệt Xuất - Báo Nhân Dân