Súng Phóng Lựu – Wikipedia Tiếng Việt

Súng phóng lựu tự động AGS-17
Vũ khí được thiết kế để bắn đạn cỡ lớn có đầu nổ, khói hoặc khí gaBản mẫu:SHORTDESC:Vũ khí được thiết kế để bắn đạn cỡ lớn có đầu nổ, khói hoặc khí ga

Súng phóng lựu[1][2][3] là loại vũ khí được thiết kế để bắn các loại đạn đặc biệt cỡ lớn, thường mang đầu đạn nổ, khói, hoặc khí ga. Thuật ngữ này ngày nay thường chỉ một nhóm các loại súng chuyên dụng sử dụng lựu đạn nguyên khối. Loại phổ biến nhất là các vũ khí cá nhân, nhưng cũng có những loại lớn hơn, sử dụng theo tổ đội, được quân đội phân bổ ở các cấp độ tổ chức cao hơn.[4]

Súng phóng lựu có thể được thiết kế dưới dạng vũ khí độc lập (bắn từng phát hoặc bắn liên tục) hoặc làm phụ kiện gắn trên súng chính, thường là súng trường tấn công. Những loại súng phóng lựu tự động lớn hơn, như súng phóng lựu Mk 19, thường được lắp trên giá ba chân hoặc phương tiện cơ giới.

Một số xe chiến đấu bọc thép cũng được lắp đặt các cụm súng phóng lựu cố định, tầm ngắn và bắn đơn, được sử dụng như một biện pháp phòng thủ trước các tên lửa chông tăng.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền thân

[sửa | sửa mã nguồn]
Một mẫu súng phóng lựu của Pháp từ năm 1747

Những loại vũ khí sớm nhất có thể gọi là súng phóng lựu chính là ná cao su, dùng để ném các lựu đạn có mồi cháy. Tuy nhiên, tiền thân trực tiếp của súng phóng lựu với quỹ đạo đạn đạo hiện đại là những vũ khí nạp đạn qua miệng súng rất đơn giản, thân súng giống cọc gỗ để gắn một nòng súng cỡ lớn, ngắn, trong đó nhét chất nổ hoặc chất cháy. Về sau chúng được cải tiến thành hỏa khí vác vai súng cối cầm tay.[5] Các vũ khí này không được đánh giá cao vì độ tin cậy rất kém, người bắn phải châm kíp trên quả đạn trước khi bắn, dễ dẫn tới việc chất nổ kẹt trong nòng; còn nếu cố dùng liều phóng trong nòng để mồi kíp thì lại hay đẩy kíp vào sâu trong quả lựu, khiến đạn nổ ngay trong nòng.

Thiết bị phóng lựu đạn

[sửa | sửa mã nguồn]
Binh lính Pháp với French soldiers nỏ Sauterelle, k. 1915

Trong Thế chiến I, nhiều loại vũ khí vận hành theo tổ đội mới ra đời nhằm tăng tầm cho lựu đạn thông thường như nỏ Sauterelle, West spring gun, Leach trench catapult. Các vũ khí này chủ yếu được đặt cố định trong chiến hào để ném lựu đạn sang chiến hào đối phương. Hiệu quả của chúng không cao và cuối cùng bị thay thế bởi súng cối hạng nhẹ như súng cối Stokes,[6] còn nhiệm vụ tăng tầm cho đạn nổ của bộ binh chủ yếu do lựu đạn bắn bằng từ súng trường đảm nhiệm.

Một vũ khí xuất hiện trong giai đoạn về sau là lựu đạn Type 91 của Nhật, có thể ném tay, hoặc gắn bộ chuyển đổi để bắn như lựu đạn súng trường, hoặc làm đạn cho súng cối hạng nhẹ bộ binh Type 89.

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]
Lính thủy đánh bộ Mỹ với súng phóng lựu M32

Súng phóng lựu độc lập

[sửa | sửa mã nguồn]
Cảnh sát Biên phòng Israel với khẩu súng phóng lựu hơi cay Federal M201-Z 37 mm

Những mẫu súng phóng lựu độc lập đầu tiên theo nghĩa hiện đại là các loại súng chống bạo động nạp đạn từ phía sau, được thiết kế để phóng lựu đạn hơi cay và đạn cao su, chẳng hạn như Federal Riot Gu ra đời vào những năm 1930. Một ví dụ ban đầu về súng phóng lựu chuyên dụng dùng đạn lựu nổ là súng phóng lựu M79, được phát triển trong khuôn khổ chương trình Vũ khí Cá nhân Mục đích Đặc biệt (Special Purpose Individual Weapon) của Mỹ (với loại đạn 40×46mm được thiết kế trong Project NIBLICK,[7]). Mục tiêu của M79 là tạo ra một loại vũ khí có tầm bắn xa hơn lựu đạn phóng từ đầu nòng súng trường nhưng lại dễ cơ động hơn so với súng cối.[8]

Những loại súng bắn phát một này phần lớn đã được thay thế bởi các súng phóng lựu gắn dưới nòng, loại bỏ nhu cầu trang bị một lính phóng lựu với vũ khí chuyên biệt. Tuy nhiên, nhiều súng phóng lựu gắn dưới nòng hiện đại có thể được sử dụng độc lập với các phụ kiện phù hợp, đặc biệt phù hợp với các nhóm sử dụng súng tiểu liên làm vũ khí chính. Ngoài ra, súng phóng lựu đơn phát vẫn thường xuyên được dùng trong các chiến dịch kiểm soát bạo động.

Các súng phóng lựu nhiều phát như ARWEN 37 thường được sử dụng để phóng đạn hơi cay và tạo màn khói, trong khi các mẫu quân sự như Milkor MGL mang lại hỏa lực mạnh và liên tục cho bộ binh. Hầu hết các thiết bị này sử dụng cơ chế ổ xoay, trong khi một số súng sử dụng cơ chế bơm như GM-94, cũng được phát triển. Các thiết kế bán tự động, như XM25 CDTE, được tạo ra để sử dụng với mục đích quân sự, sử dụng đạn nhỏ hơn (20 và 25mm) để tăng khả năng mang theo và giảm thiệt hại phụ so với đạn 40mm.

Súng phóng lựu dưới nòng

[sửa | sửa mã nguồn]
Nạp đạn vào M203 được gắn dưới súng trường M16 với một quả đạn tập

Súng phóng lựu yêu cầu áp suất thấp và nòng ngắn, điều này cho phép thiết kế các thiết bị nhẹ gắn dưới nòng súng trường truyền thống, được gọi là "súng phóng lựu dưới nòng" hoặc "súng phóng lựu treo dưới nòng".[9][10] Loại súng này giảm trọng lượng mang theo cho người lính bằng cách loại bỏ báng súng và có thể sử dụng ngay khi cần thiết.

Súng phóng lựu gắn dưới nòng loại 40 mm thường có cụm cò riêng. Để bắn, người dùng chỉ cần thay đổi cách cầm, mở khóa an toàn và bóp cò. Trong thiết kế phương Tây, nòng súng thường trượt hoặc xoay để nạp đạn, sử dụng loại đạn lựu 40×46mm.[11] Ngược lại, súng phóng lựu của Liên Xô và Nga được nạp đạn từ đầu nòng, với vỏ đạn gắn liền đầu đạn, giống như đạn súng cối.

Hệ thống ngắm bắn của súng phóng lựu dưới nòng thường sử dụng thước ngắm rời, thang ngắm hoặc thước đo góc, được lắp trên súng phóng lựu hoặc súng trường, thường ở bên tay cầm hoặc phía trên giữa các điểm ngắm cơ khí. Các mẫu hiện đại thường được trang bị thêm các hệ thống ngắm tiên tiến như máy đo tầm xa đạn đạo hoặc thiết bị ngắm ngày và đêm.

Ý tưởng tích hợp súng phóng lựu vào súng trường quân dụng xuất phát từ chương trìnhVũ khí Cá nhân Mục đích Đặc biệt (Special Purpose Individual Weapon). Mẫu súng thử nghiệm Colt XM148 từng được chế tạo nhưng không được triển khai vì vấn đề kỹ thuật. Một thiết kế khác, là loại súng phóng lựu đơn phát nạp đạn từ phía sau, đã được tinh chỉnh và trở thành súng phóng lựu M203 vào năm 1968.[12]

Các thiết kế hiện đại như FN Herstal ELGM và Heckler & Koch AG36 khắc phục được một số hạn chế của M203, như nòng trượt hạn chế việc nạp đạn lớn và thiếu ngàm ngắm tích hợp. Các thiết kế này có nòng xoay để dễ nạp đạn, tích hợp sẵn ngàm ngắm và hỗ trợ sử dụng độc lập. Một biến thể của AG36, M320 , được phát triển từ chương trình thất bại XM8 và được Mỹ chấp nhận thay thế M203 vào năm 2008.[13]

Liên Xô cũng phát triển súng phóng lựu dưới nòng cho dòng AK từ năm 1966 và giới thiệu mẫu GP-25 vào năm 1978. Đây là loại vũ khí nạp đạn từ đầu nòng, sử dụng đạn phóng kiểu súng cối với khí đẩy được xả qua các lỗ ở đáy đạn. Thiết kế này ứng dụng biến thể của hệ thống áp suất cao-thấp, với đáy đầu đạn là buồng áp suất cao và nòng là buồng áp suất thấp. Dòng GP tiếp tục được cải tiến với nhiều phiên bản khác.

Nhiều hệ thống vũ khí thử nghiệm đã cố gắng tích hợp súng phóng lựu cố định với súng trường tấn công, thường với súng trường gắn bên dưới súng phóng lựu. Một ví dụ đáng chú ý là XM29 OICW,[14] nhưng chỉ có S&T Daewoo K11 được sản xuất đại trà và sử dụng hạn chế bởi quân đội Hàn Quốc.[15]

Súng phóng lựu tự động

[sửa | sửa mã nguồn]
Súng phóng lựu Mk 19
Bài chi tiết: Súng phóng lựu tự động

Súng phóng lựu tự động hoặc súng máy phóng lựu[16] là loại vũ khí hỗ trợ tổ đội, có khả năng bắn liên tục các loại đạn nổ từ băng đạn hoặc hộp tiếp đạn dung lượng lớn. Do trọng lượng nặng, chúng thường được gắn trên giá ba chân hoặc phương tiện cơ giới.

Cụm phóng cố định

[sửa | sửa mã nguồn]
Dàn phóng lựu đạn khói 76mm trên xe phòng không Flakpanzer Gepard của Đức

Một số xe chiến đấu bọc thép cũng được trang bị các cụm phóng lựu đạn cố định, tầm ngắn, đơn phát như một phương tiện phòng thủ.[17] Các thiết bị này thường phóng lựu đạn khói để che giấu phương tiện sau một màn khói, nhưng cũng có thể được nạp bằng các loại chaff, pháo sáng, hoặc lựu đạn chống bộ binh để đẩy lùi các cuộc tấn công của bộ binh. Các ống phóng lựu đạn khói gắn trên xe cũng được gọi là smoke (grenade) dischargers. Một số ví dụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai về các thiết bị này bao gồm Nebelkerzenabwurfvorrichtung, '[Nebelwurfgerät, MinenabwurfvorrichtungNahverteidigungswaffe của Đức.

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lựu đạn

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Grenade Launchers and their Ammunition: International Developments". Small Arms Defense Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2017.
  2. ^ "Archived copy" (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2017.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  3. ^ "Weapons: Semi-Automatic Grenade Launchers".
  4. ^ Stuart Casey-Maslen, Sarah Parker, Gilles Giacca The Arms Trade Treaty: A Commentary, Oxford University Press 2016, p. 115-116
  5. ^ Claude Blair, Pollards History of Firearms Ed. 1983, pp 56-58, 92
  6. ^ Hugh Chisholm (1922). The Encyclopædia Britannica: The New Volumes, Constituting, in Combination with the Twenty-nine Volumes of the Eleventh Edition, the Twelfth Edition of that Work, and Also Supplying a New, Distinctive, and Independent Library of Reference Dealing with Events and Developments of the Period 1910 to 1921 Inclusive, Volume 1. Encyclopædia Britannica Company Limited. tr. 470.
  7. ^ R. Blake Stevens, Edward Clinton Ezell, The SPIW: The Deadliest Weapon that Never was, Collector Grade Publications 1985, p.43
  8. ^ Rottman, Gordon (ngày 18 tháng 9 năm 2012). US Army Infantryman in Vietnam 1965-73. Osprey Publishing. tr. 57. ISBN 978-1-78200-468-4.
  9. ^ Acronym finder - UBGL, TheFreeDictionary Lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2016 tại Wayback Machine
  10. ^ 40 mm ARSENAL Underbarrel Grenade Launcher UBGL-1 Lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2016 tại Wayback Machine, ARSENAL Ltd, Kazanlak, Bulgaria
  11. ^ Clancy, Tom (1996). Marine: A Guided Tour of a Marine Expeditionary Unit. Berkley Books. tr. 86–87. ISBN 978-0-425-15454-0.
  12. ^ R. Blake Stevens, Edward Clinton Ezell, The SPIW: The Deadliest Weapon that Never was, Collector Grade Publications 1985, p.99
  13. ^ M320 Lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2007 tại Wayback Machine, Globalsecurity.org
  14. ^ XM29 OICW Lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2016 tại Wayback Machine, Globalsecurity.org
  15. ^ "숨은 적 공격하는 K11 소총, 국내 본격 공급". Yonhap. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2016.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  16. ^ N. R. Jenzen-Jones, Jonathan Ferguson, Graeme Rice, Research Notes, Weapons & Markets - Automatic Grenade Launchers Lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2015 tại Wayback Machine, Small Arms Survey, February 2015
  17. ^ Gary W. Cooke, "U.S. Vehicle Grenade Launchers," Lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2013 tại Wayback Machine Gary's Combat Vehicle Reference Guide

Từ khóa » Súng Phóng Lựu In English