Sưu Tầm, Vận Dụng Ca Dao, Tục Ngữ Vào Giảng Dạy Phần Triết Học ...
Có thể bạn quan tâm
Lấy ví dụ minh họa trong dạy phần Triết học trong môn GDCD đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc gắn kết chặt chẽ những quy luật triết học với những luận cứ thực tiễn. Thông qua các ví dụ minh họa làm cho bài giảng sinh động, có tính thuyết phục cao hơn. Qua đó, khơi dậy niềm say mê học tập cũng như rèn luyện cho người học khả năng liên hệ, phân tích, vận dụng tư tưởng triết học vào thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở đó, bài viết sưu tầm và vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy triết học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần Triết học trong môn giáo dục công dân hiện nay.
1. Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về quan điểm duy vật, quan điểm duy tâm trong triết học
Việt Nam cũng giống như các dân tộc phương Đông khác, về mặt triết học thường ít bàn về thế giới quan mà chủ yếu bàn về nhân sinh quan. Do đó, vấn đề duy vật và duy tâm khá mờ nhạt so với triết học phương Tây. Một số câu ca dao, tục ngữ đã chứng minh rằng, từ xa xưa, người Việt ta đã có những câu hỏi và lý giải mang tính triết học rất cao. Những câu hỏi mà người Việt đặt ra trong quá trình tác động vào thế giới khách quan thường là vũ trụ này do đâu mà có? Tại sao có mưa, nắng, lũ lụt, biển cả? Tại sao sinh ra được muôn loài?
Ví dụ như:
Ai là người sinh ra mặt đất? Ai là người tạo ra bầu trời?
Bà Chày sinh ra mặt đất Ông Chày sinh ra bầu trời
Từ xưa, ông cha ta đã có quan niệm mang tính duy vật sâu sắc, không viện dẫn đến thần linh khi cho rằng nguồn gốc của trời đất, muôn loài là do có sự hòa hợp, kết hợp giữa hai mặt đối lập khác biệt nam, nữ, âm, dương hợp thành.
Non cao ai đắp mà cao?
Sông kia ai bới, ai đào mà sâu?
Nước non là nước non trời
Ai ngăn được nước ai dời được sông?
Mặc dù người dân chưa lý giải được nguồn gốc của vũ trụ nhưng có quan điểm duy vật khi cho rằng thế giới vật chất tồn tại khách quan, không do thần linh nào tạo ra, độc lập với ý thức con người.
Mệnh do ngã lập, khúc do kỷ cầu.
(Khẳng định vai trò làm chủ bản thân, làm chủ vận mệnh của mình. Số mình do mình tự tạo ra, hạnh phúc do mình tự tìm đến).
Thức đêm mới biết đêm dài
Lội sông mới biết sông nào cạn sâu.
(Khuyên con người trong nhận thức và hoạt động cần phải bám sát thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách quan).
Bên cạnh những quan niệm mang tính duy vật chất phác, người Việt xưa cũng có quan niệm mang tính duy tâm rõ nét khi thần thánh hóa sức mạnh của Trời. Đối với họ, Trời là một lực lượng siêu tự nhiên có thể thông hiểu cuộc sống con người, có sức mạnh vạn năng, chi phối cuộc sống con người. Theo quan niệm của người Việt thì Trời không phải là “đấng sáng tạo” mà chỉ là “bao công” luôn trừng trị kẻ xấu. Trời đóng vai trò phân xử, chi phối cuộc sống con người mà thôi. Ai mà nói dối cùng ai,
Thì trời giáng họa cây khoai giữa đồng.
Từ chỗ cho rằng số phận con người không thể thay đổi được nên người dân nghèo có tư tưởng tự ti, an phận, thủ thường:
Cây khô thì lá cũng khô,
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo.
Hoặc là:
Người sang tại phận.
(Quan niệm duy tâm về số phận con người, xem con người có số phận).
Cha mẹ sinh con trời sinh tính.
(Phủ nhận môi trường giáo dục gia đình, cho rằng tính người do trời định).
2 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa tư tưởng biện chứng, tư tưởng siêu hình
Từ xưa người Việt Nam đã có cách nhìn tổng thể về bức tranh sinh động của thế giới vật chất. Đó là tính thống nhất trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của thế giới, đó là các sự vật luôn nằm trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Từ sự quan sát các hiện tượng tự nhiên trong đời sống thường ngày, người Việt Nam đã thấy được sự tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng, có sự ràng buộc nhất định giữa chúng. Đó chính là mối liên hệ phổ biến, tính nhân quả, sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới tự nhiên, xã hội:
Có cây mới có dây leo.
Có cột có kèo mới có đòn tay.
Hoặc là:
Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời.
(Tư tưởng biện chứng, thời cuộc thay đổi, cuộc sống con người cũng thay đổi không có cái gì là vĩnh viễn).
Nhập giang tuỳ khúc,
Nhập gia tuỳ tục.
(“Nhập giang” có nghĩa là lội xuống sông, “nhập gia” là vào nhà. Nghĩa là: Lội sông phải tuỳ khúc, vào nhà phải tuỳ tục. Hành động phải phù hợp với thực tế khách quan).
Một người làm nên cả họ được cậy,
Một người làm bậy cả họ mất nhờ.
(Tư tưởng biện chứng, ý nói mối liên hệ lẫn nhau giữa các thành viên trong dòng họ).
Gần lửa rát mặt.
(Tư tưởng biện chứng cho rằng, con người luôn chịu ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh).
Người có lúc vinh lúc nhục,
Nước có lúc đục lúc trong.
(Sự vật hiện tượng luôn thay đổi, không có cái gì là bất biến).
Nhờ có phương pháp tư duy biện chứng và khả năng quan sát tinh tế mà người Việt Nam đã đúc rút được kinh nghiệm, dự đoán về thời tiết, khí hậu khá chính xác nhằm phục vụ cho lao động sản xuất và cuộc sống của mình. Mặt khác, tư duy biện chứng giúp cho họ thích nghi với hoàn cảnh, hạn chế đến một mức độ nhất định thiệt hại do hiện tượng tự nhiên gây ra.
Trong vốn ca dao, tục ngữ dân tộc, còn có rất nhiều câu thể hiện tư tưởng duy tâm, siêu hình, nó phản ánh đời sống thực tiễn của xã hội thối nát, bất công trong chế độ phong kiến.
Ngắn tay với chẳng tới trời.
(Quan hệ xã hội phong kiến thối nát, bất bình đẳng. Thân phận những người nghèo khổ bị oan ức không thể bày tỏ được với người có quyền lực).
Hoặc là:
Thân ai nấy lo, phận ai nấy giữ.
Đèn nhà ai nấy rạng.
(Tư tưởng siêu hình, sống chỉ biết bản thân mình, không có mối liên hệ, quan tâm tới người khác).
3. Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về nhận thức và thực tiễn
Anh tưởng giếng nước sâu,
Anh nối sợi gầu dài,
Ai ngờ giếng nước cạn,
Anh tiếc hoài sợi dây.
(Nhận thức phải là một quá trình, đôi khi con người mắc phải sai lầm trong nhận thức).
Học khôn học đến chết, học nết học đến già; Ông bảy mươi học ông bảy mốt.
(Người Việt quan niệm học là để làm người nên việc học tập phải xảy ra suốt đời).
Dốt đến đâu học lâu cũng biết.
(Quan niệm tiến bộ về nhận thức cho rằng, nếu chúng ta cần cù chịu khó, miệt mài học tập sẽ hiểu biết được nhiều kiến thức).
Thánh cũng có khi nhầm.
(Người Việt quan niệm nhận thức của con người mang tính tương đối, do đó không nên đánh giá con người một cách toàn bích).
Non cao cũng có người trèo,
Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi.
(Không có cái gì là con người không làm được).
Ai ơi đã quyết thi hành,
Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây.
(Khi đã làm thì kiên quyết không dao động, quyết làm cho bằng được).
Lên non mới biết non cao,
Lội sống mới biết sông nào cạn sâu.
(Trong nhận thức phải lấy thực tiễn làm thước đo chân lý).
Có thực mới vực được đạo;
Có bột mới gột nên hồ.
(Quan niệm duy vật, tôn trọng thực tiễn, nhận thức phải dựa vào thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo chân lý).
Trăm hay không bằng tay quen;
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
(Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức, trong mối quan hệ đó, thực tiễn đóng vai trò quyết định).
Học hay cày giỏi
(Mục đích của nhận thức là để phục vụ thực tiễn, trong nền nông nghiệp lúa nước, học tập là để có tri thức ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động).
Như vậy sưu tầm và vận dụng ca dao, tục ngữ là một phương pháp, cách thức liên hệ thực tiễn hết sức sống động, dễ đi vào lòng người trong dạy học Triết học nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học Triết học hiện nay.
Từ khóa » Ví Dụ Về Phương Pháp Luận Biện Chứng Ca Dao
-
Sưu Tầm Một Số Câu Ca Dao, Tục Ngữ Về Phương Pháp Luận Biện ...
-
Sưu Tầm 5 Câu Ca Dao, Tục Ngữ Về Phương Pháp Luận Biện Chứng ...
-
Top 10 Ví Dụ Về Phương Pháp Luận Biện Chứng Và ... - Thả Rông
-
Ca Dao Nói Về Phương Pháp Luận Biện Chứng - 123doc
-
Câu Tục Ngữ Về Phương Pháp Luận Biện Chứng - 123doc
-
Góp Phần Tìm Hiểu Tính Biện Chứng Trong Tư Duy Người Việt Qua Tục ...
-
Lấy Ví Dụ Chính Xác Về Phương Pháp Luận Biện Chứng Và ... - Hoc24
-
Top #10 Ca Dao Tục Ngữ Về Phương Pháp Luận Biện Chứng Xem ...
-
Sưu Tầm Các Câu Ca Dao Tục Ngữ Câu Chuyện Nói Về Biện ...
-
[PDF] Minh Họa “phép Biện Chứng Duy Vật” Qua Một Số Câu Tục Ngữ, Thành
-
Giáo án Gdcd Lớp 10 Chuẩn Ktkn_bộ 6 | Xemtailieu
-
Phương Pháp Luận Siêu Hình Là Gì ? Dấu Hiệu Cơ Bản Của Phương ...
-
Câu Cá đạo Tục Ngữ Nào Dưới đây Thể Hiện Phương Pháp Luận Siêu ...