Tác Động Của Tứ Hóa Và Hóa Lộc Với Các Chủ Tinh

Lượt xem: 8.459

Nội dung bài viết

  • Tác động của bộ sao Tứ Hóa
  • Tác động của sao Hóa Lộc đối với các chủ tinh
    • Tác động của Hóa Lộc – Liêm Trinh
    • Tác động của Hóa Lộc – Thiên Cơ
    • Tác động của Hóa Lộc – Thiên Đồng
    • Tác động của Hóa Lộc – Tham Lang
    • Tác động của Hóa Lộc – Vũ Khúc
    • Tác động của Hóa Lộc – Thái Dương
    • Tác động của Hóa Lộc – Cự Môn
    • Tác động của Hóa Lộc – Thiên Lương
    • Tác động của Hóa Lộc – Phá Quân

Tác động của bộ sao Tứ Hóa

Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các Chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của Chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái Dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái Dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định.

Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng Can của năm tiểu hạn. Như vậy người Trung Quốc họ tính luôn cả lưu Tứ Hóa.

Hóa Lộc trong Tử Vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn có, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít.

Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ có Hóa Lộc không thôi thì chỉ là súc tích.

Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.

Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn hoặc Hóa Quyền ở Mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu theo tiểu hạn càng tốt.

Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực có tác dụng gây chí phấn đấu tạo tính tích cực và tính ổn định. Ví dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tính động trên giảm hẳn mà thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.

Hóa Quyền cũng đem đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kỵ dễ bị chiêu oán ganh ghét.

Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối thì dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được họ.

Hóa Khoa tính chất cơ bản là danh dự và thanh vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội chưa chuộng khoa bảng.

Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm – Hóa Khoa hay Vũ Khúc – Hóa Khoa hoặc Thiên Phủ – Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hóa Khoa đẹp hơn Xương Khúc.

Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh hoặc tự mãn thôi. Hóa Kỵ trong Tử Vi khoa tính chất khá phức tạp, Hóa Kỵ có hai mặt tốt và xấu, rõ rệt và khi gây tác dụng cũng ác liệt. Ví dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kỵ thì chuyện ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.

Tác động của sao Hóa Lộc đối với các chủ tinh

Tác động của Hóa Lộc – Liêm Trinh

Liêm Trinh mang sắc thái xung đột giữa cảm tình và lý trí. Liêm Trinh tình cảm hơn Phá Quân, Liêm Trinh lý trí hơn Tham Lang. Khi đoán về Liêm Trinh đứng cùng Hóa Lộc, cần phải coi các sao phụ làm tăng phần lý trí hay tình cảm của Liêm Trinh trước đã.

Nếu Liêm Trinh có Đào Hoa, Hóa Khoa kèm bên thì phần tình cảm nặng. Nếu Liêm Trinh gặp Hỏa Linh, Phụ Bật đồng bộ phần lý trí nặng.

Liêm Trinh – Hóa Lộc mà phần tình cảm nặng, thì việc tích tụ tài sản khó hơn. Liêm Trinh – Hóa Lộc mà phần lý trí nặng là con người duy lợi với nhiều thủ đoạn kiếm tiền.

Như vậy Liêm Trinh – Hóa Lộc hợp với các cung Mệnh, Tài, Quan. Đóng vào cung Phúc thành ra ý hướng chỉ ham hưởng thụ, phá của hơn làm ra của.

Trường hợp Liêm Trinh – Hóa Lộc đứng thế hãm mà gặp các sao Sát, Hỏa, Linh, Không, Kiếp lại khiến cho vì tiền bạc mà hệ lụy, như có bạn phản, đam mê cờ bạc thuốc sái, sắc tình dẫn đến bị phá sản.

Liêm – Lộc lạc hãm đóng cung Tật Ách. Liêm Trinh chủ phế bệnh và thận bệnh. Khi tâm thần bất giao còn gây ra thần kinh bệnh.

Liêm Trinh – Hóa Lộc vào cung Phụ Mẫu không nhất định là cha mẹ giàu có mà nhất định quan hệ tình cảm với bố mẹ đầy đặn.

Liêm – Lộc đóng Phối cung thì Phu Thê đắc lực cùng nhau gây cơ nghiệp. Liêm Trinh – Hóa lộc vào cung Bào hay cung Nô thì anh em hay bạn bè đắc lực nếu không ở thế hãm.

Liêm – Lộc phải nhất diện đảo không nên đứng với vừa cát tinh vừa hung tinh gây thành tình trạng xung đột giữa tình cảm với lý trí, cung cách xử thế vì vậy mà lắm khuyết điểm.

Liêm Trinh – Hóa Lộc không nên hội xung với Vũ Khúc, Hóa Kỵ (ví dụ nguyên cục Vũ – Kỵ gặp đại hạn Liêm – Lộc) gây ra hao tài tốn của vì tình cảm hoặc vì tranh chấp tiền bạc mà mất cảm tình.

Trái lại Liêm – Lộc sẽ tốt hơn nếu gặp Tham Lang, Hỏa Tinh, làm cho Tham – Hóa bạo phát. Nhưng phải coi chừng Không – Kiếp vì có cả Không – Kiếp tất bạo phát với bạo bại đi đôi. Bạo phát do may mắn rồi bạo bại lại do rủi ro. Trí tuệ và tài năng không tham dự bao nhiêu.

Liêm Trinh – Hóa Lộc hay hơn hết là gặp Lộc – Mã giao trì. Nguyên cục Liêm

– Lộc tới vận giao trì Lộc – Mã dễ làm giàu, với điều kiện không bị Dương – Đà, Linh

– Hỏa, Không – Kiếp nhảy vào.

Tác động của Hóa Lộc – Thiên Cơ

Thiên Cơ là sao mang tính phù động. Dù gặp Hóa Lộc, tính chất động ấy vẫn nguyên vẹn. Lộc là sao tiền bạc, tiền bạc cần chuyển động luân lưu. Cho nên Thiên Cơ được Lộc kể làm tốt.

Có Lộc đóng Mệnh hay Tài Bạch cho người Thiên Cơ, khả năng kinh thương cao. Ở thời đại này, Cơ – Lộc khả dĩ phục vụ trong những việc liên hệ đến kinh doanh tài chính, với bổng lộc cao không nhất thiết phải chính mình đứng chủ kinh doanh.

Điểm chú ý: Cơ – Lộc không phải là số cự phú, không thể tuyệt đối độc lập, cần dựa vào thế lực hậu trường, đầu cơ thế lực, nghe ngóng cơ hội.

Thiên Cơ bản sắc biến động, bởi vậy có những trường hợp Cơ – Lộc nói lên một sự thay đổi mới, nhờ cơ hội mới mà phấn phát hơn.

Cơ – Lộc gặp Tả Phù thường được kiêm chức. Lại thêm Quyền – Khoa thì chức vị mở đường cho sự hanh thông trong tương lai.

Thiên Cơ – Hóa Lộc tối kị gặp Hỏa – Linh. Hỏa – Linh tất làm tăng tính phù động của Thiên Cơ, nhờ Hóa Lộc khả dĩ phấn phát nhưng rất mau đi vào thất bại.

Cơ – Lộc bị Không – Kiếp cũng thế, càng trèo cao càng ngã đau. Mở ra năm bẩy tiệm đùng một cái vỡ nợ vì thiếu hoặc vì căng ra quá mà đứt, vỡ.

Cơ – Lộc cùng gặp một lúc cả hung lẫn sát tinh vây bọc thì nên giữ thái độ “bất cảm vì thiên hạ tiên” đứng xuống hàng hai để tránh xung sát đưa đến kết quả bất toàn.

Thiên Cơ – Hóa Lộc mà đi cùng Thái Âm bén nhậy hơn trong công chuyện làm ăn. Thiên Cơ – Hóa Lộc mà đi với Thiên Lương đễ gặt hái tín nhiệm khi vào kinh doanh. Thiên Cơ – Hóa Lộc mà Cơ đứng với Cự Môn không bị hung sát tinh có thể làm giàu nhưng thường không bền.

Tác động của Hóa Lộc – Thiên Đồng

Thiên Đồng là phúc tinh ngụp lặn trong lĩnh vực tinh thần. Thiên Đồng đứng cùng Hóa Lộc thường dễ được cuộc sống vật chất thoải mái với con người tri túc, Đồng – Lộc đi với nhau không đưa đến phú quý. Cái tri túc giống như một con người đã trải trăm cay ngàn đắng nay có cuộc sống đầy đủ bình ổn.

Bởi lẽ trên, Thiên Đồng – Hóa Lộc phát muộn, tuổi về già mới an định hoặc phấn phát lên, còn tuổi trẻ gian lao vất vả thành bại vô thường.

Thiên Đồng – Hóa Lộc bị Không – Kiếp hay các sát diệu khác thì gian lao vất vả hơn, lúc già sự an định hay phấn phát chỉ tương đối.

Vì Thiên Đồng chủ về tình tự, nên hay gặp cái vui đột nhiên, như đánh canh bạc được kha khá, mua sổ xố trúng vừa vừa.

Thiên Đồng – Hóa Lộc có được thêm Lộc Tồn xung chiếu hay tam hợp chiếu thì tài khí vượng hẳn, đột nhiên biến đổi từ nghịch sang thuận. Có cả Tả – Hữu, Khôi – Việt nữa càng hay, cơ hội trợ lực càng nhiều và phấn phát không nhỏ.

Thiên Đồng – Hóa Lộc cũng đừng nên hội với Đào Hoa, nhất là Đào Hoa rồi còn thấy cả Xương – Khúc nữa thì phiền, sớm muộn rồi sẽ thành phong lưu lãng tử. Không thiếu tiền nhưng tiền bao nhiêu rơi vào rượu chè, trai gái hết. Nói khác đi đây là số công tử con nhà giàu hoặc là người làm cái nghề “ăn chơi”. Có số này nên mở quán rượu nhà nhẩy, nhà tắm hơi hợp cách. Có điều là không bao giờ giữ được của.

Thiên Đồng, Hóa Lộc, Đào Hoa, Xương – Khúc vào cung Tật Ách, trai gái dễ mắc bệnh phong tình. Thiên Đồng, Hóa Lộc đóng Thê cung trước đằm thắm sau nhạt tình.

Thái Âm là tài tinh, Hóa Lộc chủ về tiền tài. Như vậy Thái Âm với Hóa Lộc kể là đồng chí, Hóa Lộc tăng cường lực lượng cho Thái Âm với điều kiện Thái Âm phải đứng ở miếu địa. Hóa Lộc được Thái Âm miếu khiến cho tiền bạc mạnh hơn.

Nếu Thái Âm đứng thế hãm thường chỉ mãn nguyện trên tinh thần chứ không trên thực chất nghĩa là phong lưu, vui sướng mà không có nhiều tiền.

Hóa Lộc – Thái Âm khác với Hóa lộc – Thiên Đồng ở điểm không bị đột biến rơi vào nghịch cảnh. Nói khác đi Đồng – Lộc thường gian truân hơn Âm – Lộc.

Hóa Lộc – Thái Âm lúc khá giả, tính trên con số thì không hơn thiên hạ nhưng tâm tình cung cách hưởng thụ hơn hẳn Đồng – Lộc, ngay cả lối kiếm tiền cũng ung dung thanh thản hơn.

Thái Âm là sao tiền bạc, Vũ Khúc cũng là sao tiền bạc, nhưng Thái Âm chủ tĩnh, thiên về tiềm tàng kiếm tiền bằng kế hoạch cho nên không sôi nổi bôn ba như Vũ Khúc.

Khi Thái Âm đóng hãm cung lại kèm bên sát diệu hoặc đứng với Không – Kiếp thì dù có Hóa Lộc, kế hoạch cũng thường bị hỏng, hoặc chỉ nói thôi mà chẳng làm, vẽ rồng vẽ rắn, thực tế chỉ là số không, tính giỏi mà không xong.

Thái Âm – Hóa Lộc đương nhiên cung Phúc có Cự Môn – Hóa Kỵ, bởi vậy Âm – Lộc không bao giờ được đặt vào tình thế đột biến từ nghịch sang thuận để hoạnh tài (được bạc hay trúng số).

Cũng như Đồng – Lộc, Âm – Lộc không nên đứng với Đào – Riêu, Xương –

Khúc sẽ vì mê đắm sắc tình bê trễ làm ăn. Âm – Lộc vào cung Tật Ách đứng thế hãm hay mắc bệnh ở bộ phận tiêu hóa (tì vị và ruột).

Tác động của Hóa Lộc – Tham Lang

Tham Lang giỏi về giao thế thù ứng, thủ đoạn tròn trặn, đối với người thường sẵn sàng giúp đỡ những ân huệ nhỏ. Tham Lang không có tài lãnh đạo nhưng có tài quy tụ. Tham Lang đi với Hóa Lộc khả năng giao tế càng tốt hơn, nhất là giao tế để tìm ra cơ hội kiếm tiền.

Tham Lang – Hóa Lộc có Đào Hoa, Thiên Riêu, Đại Hao, Mộc Dục kèm bên, chuyển ra con người đam mê tửu sắc, khách quen của vũ trường, hoan trường, thường do rượu chè trai gái mà mắc thị phi.

Tham Lang – Hóa Lộc đứng với Tả – Hữu, bạn bè đông mà toàn bạn bè được việc. Nhưng Tham Lang – Hóa Lộc đứng với Kiếp Sát, Thiên Hư, (Tai Sát, Chi Bối, Ân Sát) thì chỉ gặp toàn tiểu nhân phản bội, kéo bè kết đảng.

Tham Lang không có Hóa Lộc gặp những sao trên, thị phi phản bội nhẹ hơn. Tham Lang được Hỏa – Linh đồng cư hay xung chiếu gọi là Tham – Hỏa, Tham – Linh, thêm Hóa Lộc thì hoạnh tài, tiền bạc vào tay bất ngờ và được mất đều mau chóng. Tham – Hỏa hay Tham – Linh gặp Không – Kiếp phải đề phòng đột nhiên phá hoại, phú quý chỉ như đóa hoa đàm mà thôi.

Bản chất Tham Lang ưu cạnh tranh (đánh bạc cũng là một tâm tính ưa cạnh tranh). Tham Lang – Hóa Lộc vào cạnh tranh dễ có lợi. Thêm sát tinh thì cạnh tranh gian khổ hơn. Công việc sắp thành gặp đột biến phải gắng công một lần nữa rồi mới được như ý nguyện. Sát thì Đà La mạnh nhất, rồi đến Kình Dương, Không – Kiếp,

Tham Lang – Hóa Lộc đứng với sát tinh đang thắng chuyển bại, nhưng mặt khác lại đang bại chuyển thắng. Bởi vậy ở tình trạng thất cơ lỡ vận nên liều, đã ăn nên làm ra rồi phải hết sức thận trọng.

Tham Lang – Hóa Lộc ở Mệnh, ở Tài Bạch tốt đẹp hơn Quan Lộc. Vào Quan Lộc chức nghiệp thăng giáng luôn.

Tham Lang – Hóa Lộc đóng cung Phu Thê không mấy hay, nếu gặp cả Đào Hoa, Xương Khúc ở đấy, thì người phối ngẫu không trung trinh. Nhưng lại thấy cả sao Thiên Hình hay Tuần – Triệt thì phải đoán là người phối ngẫu ở trong giới nghệ sĩ, hoặc có công việc dính líu đến hoan trường chứ không nhất định là bất trung bất trinh.

Tham Lang – Hóa Lộc vào Tật Ách về già hay suy kiệt, số nữ thường mắc bạch đới đường kinh lộn xộn.

Tác động của Hóa Lộc – Vũ Khúc

Vũ Khúc là tài tinh, gặp tài tinh Hóa Lộc thì xông xáo, nhiệt tâm phấn đấu kết quả đắc tài. Đồng – Lộc, Âm – Lộc, thường có may mắn thừa hưởng, riêng Vũ – Lộc phải đổ mồ hôi của chính mình.

Vũ Khúc – Hóa Lộc không bị Sát, Kỵ, Hình, Hao lại có Tả – Hữu, Khôi – Việt,

Thai – Tọa, Quang – Quý thông qua chức quyền mà có tiền.

Vũ Khúc gặp Sát, Kỵ, Hình, Hao thì sự thành công trên tiền bạc phải kinh qua vất vả gian truân, nhất là đối với nữ mạng.

Tài tinh rất ngại Không – Kiếp. Vũ Khúc – Hóa Lộc cũng thế. Vũ Khúc – Hóa

Lộc bị Không – Kiếp đồng hội, quá trình làm ăn tiền bạc bất ngờ hao tán làm mất luôn

thăng bằng dự đoán của mình, gặp Văn Khúc, Hóa Kỵ cũng vậy.

Văn Khúc Vũ Khúc rất hay

Gặp Khoa – Quyền – Lộc là tay anh tài.

Câu này có lẽ là Văn Xương chứ không phải Văn Khúc. Vì Vũ Khúc không hợp với Văn Khúc, nhất là Văn Khúc đi cùng Hóa Kỵ.

Văn Khúc gặp Vũ Khúc biến Vũ Khúc thành hư phù hữu danh vô thực có chức nhưng không có quyền, có tiền lương cao, lộc to lời lớn nhưng không bền lâu. Với Văn Xương thì không vậy.

Vũ Khúc không sợ Hỏa – Linh, Dương – Đà, trái lại những sao này còn trợ lực cho ý chí phấn đấu của Vũ Khúc, tất nhiên phải gặp nghịch cảnh khó khăn thì mới cần trợ lực, nhưng kết quả là thành, chỉ mất nhiều công sức thôi, không bị phá hao như Văn Khúc, Hóa Kỵ gây ra.

Vũ Khúc, Hóa Lộc, Tham Lang đứng chung tuy không được Hóa – Linh vẫn phát đạt (như đã nói ở chương trên). Trường hợp gặp Hỏa – Linh thì bạo phát bạo bại khi đối đầu Sát – Kỵ, Hình – Hao kể cả gặp trên vận hạn.

Vũ Khúc – Hóa Lộc đóng cung Tật Ách làm giảm đi những hung hiểm của bệnh tật. Vũ Khúc – Hóa Lộc đóng cung Phối, nhất là Vũ – Tham đưa đến tình trạng cuộc sống vợ chồng đột nhiên sinh biến, nếu thấy luôn những tinh diệu đào hoa ắt hẳn có kẻ thứ ba xâm nhập.

Tác động của Hóa Lộc – Thái Dương

Thái Dương chủ quý không chủ phú, nên dù gặp Hóa Lộc thì tiền bạc không đến từ cuộc phấn đấu kinh doanh mà đến từ địa vị xã hội như người xưa nói tiền quý hậu phú. Tính chất Thái Dương là phát tán tựa ánh dương quang chiếu tỏa chứ không thâu liễm góp mặt. Hóa Lộc đứng bên càng khiến cho phát tán tăng cường.

Thái Dương – Hóa Lộc cùng một lúc phải được cả Khôi – Việt, Phụ – Bật, Xương – Khúc thì mới toàn hảo, cục diện mới lớn lao. Chỉ độc Thái Dương – Hóa Lộc thôi dễ bị ganh ghét đố kị, để trở thành cô lập tứ diện thọ địch khó bề phát triển mạnh.

Trường hợp Thái Dương – Hóa Lộc gặp Không – Kiếp thì tình trạng cô lập trở nên tuyệt đối lại phát sinh ý đồ lỗi lạc vượt hẳn thiên hạ trong tình cảm nhiễu nhương tao loạn, nhất là Thái Dương hãm địa (Hợi, Tuất) với điều kiện không gặp Hóa Kỵ.

Vì tính chất Thái Dương phát tán nếu đứng vào cung làm cho sự phán tán rực rỡ quá, ví dụ Tỵ hay Ngọ. Địa vị rõ ràng khiến người chói mắt mà sinh bực bội. Cách “Nhật lệ trung thiên, hữu chuyên quyền chi quý”mang khuyết điểm này, đôi khi rực rỡ bên ngoài quá mức lại chỉ là hữu danh mà vô thực.

Mặt Trời ban mai, Mặt Trời hoàng hôn quang huy phát tán không quá mạnh khiến con mắt người đời thoải mái hơn mà không bị đố kị cô lập, quyền chức vẫn cao, tiền vẫn đến chẳng ai hay. Trường hợp này Thái Dương không cần Tả – Hữu, Xương – Khúc, Khôi – Việt nữa.

Thái Dương Hợi, Tuất là Thái Dương phản mục, thất huy nhưng vẫn có trong nó ánh sáng tiềm ẩn khả dĩ âm thầm xây dựng quyền lực, địa vị bằng tựa vào địa vị, nói nôm na là số cận quý để gây cơ dựng nghiệp.

Chuyên quyền chi quý của cách Nhật lệ trung thiên đưa đến kết quả chức lớn quyền trọng rút cục không tiền. Thái Dương – Hóa Lộc vào cung Tật Ách nếu ở Tỵ Ngọ, Thìn hay bị chứng nhức đầu.

Tác động của Hóa Lộc – Cự Môn

Cự Môn là ám diệu, nếu hung thành lao lực, cát thành lao tâm. Có Hóa Lộc đứng bên tính chất “ám” diệu không thay đổi.

Bởi thế Cự Môn – Hóa Lộc mới cần Tả – Hữu, Khôi – Việt để làm giảm bớt gian lao. Xương – Khúc chỉ làm tăng tài trí chứ không làm giảm gian lao.

Cách Ngọc ẩn trong đá càng rất cần Hóa Lộc để làm giàu. Cự Môn – Hóa Lộc khi thành công phải khiêm tốn thì mới bớt tai họa do người đời ghét mà đánh giá.

Cự – Lộc hội được với Thái Dương – Hóa Quyền ví như gấm thêm hoa, làm ăn với người nước ngoài thành công. Đời nay giao thương quốc tế phồn thịnh nên số Cự – Lộc, Thái Dương – Hóa Quyền rất hợp thời.

Cự Môn – Hóa Lộc mang một nhược điểm: Hay bị suy hao do thiếu lì lợm gan góc trong chuyện làm ăn. Ví dụ: Mua cổ phiếu chưa cao giá mấy đã bán, bán xong giá lên mạnh lại hối hận mua vào lúc giá cao, mua rồi giá lại xuống dốc.

Cự Môn – Hóa Lộc có một sở trường: “Khẩu thiệt sinh tài” ăn nói ra tiền, giỏi thương thuyết. Nhưng nếu Cự Môn – Hóa Lộc mà gặp Văn Xương, Hóa Kỵ lại thành phản cách, tính tình bất lương và dễ bị phá hoại, không thể kinh doanh và cẩu thả trong giao tế.

Cự – Lộc nhất là Cự – Nhật – Lộc ở miếu vượng vào các cung Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Tử Tức rất hợp, đưa đến sự thân ái với lục thân, đồng thời được trợ lực của họ, có thêm ba sao Đức hay Tả – Hữu càng hay; trường hợp bị Sát, Kỵ cái tốt của Cự – Nhật – Lộc giảm hẳn.

Cự – Lộc vào cung Tật Ách thường gây khó cho cơ quan hô hấp, phổi hoặc khí quản, bị bệnh thận hay bệnh dạ dày thì không nặng.

Tác động của Hóa Lộc – Thiên Lương

Thiên Lương hóa khí là “ấm”, ấm có nghĩa là được bóng che của Phúc Đức. Ấm đặt trên hai nghĩa: Phúc ấm cha mẹ, che chở của quý quyền.

Che chở của quý quyền là khi gặp nạn được thầy được thợ mà thoát, được quý nhân giúp đỡ. Phúc ấm cha mẹ là được thừa hưởng cơ, sự nghiệp ông cha.

Thiên Lương có Lộc chủ yếu thường là phúc ấm mẹ cha không phải che chở quyền quý. Bởi vậy Lương – Lộc lợi nhất là nên theo đuổi tổ nghiệp hoặc làm cho cơ sở kinh doanh đã có tiếng tăm.

Lương – Lộc không bao giờ tự mình sáng cơ lập nghiệp, chỉ nên rào cây táo ăn trái táo và hưởng bóng mát của cây táo.

Ý nghĩa của “ấm” là nương vào thế lực, phục vụ xã hội để có địa vị danh dự rồi tài lộc do đó mà nên. Các cung Mệnh, Tài, Quan xuất hiện Lương – Lộc vào ngành hành chính xí nghiệp hay chính quyền khả dĩ có một địa vị cao. Ý nghĩa “ấm” là phục vụ đến địa vị rồi tài lộc từ đấy mà tới.

Thiên Lương – Hóa Lộc không nên xoay sở về mặt tài lợi sẽ gặp phiền, chỉ nên hưởng bổng lộc do phục vụ xã hội, cơ quan thôi.

Thái độ tròn trịa ôn hòa là thái độ của Lương – Lộc. Trường hợp Thiên Lương – Hóa Lộc đóng cung Thiên Di mà gặp Thiên Mã lại khác, đó là số buôn bán với nước ngoài, có thêm Lộc Tồn thì làm giàu.

Các cung về lục thân như cung Huynh Đệ, Phụ Mẫu, Tử Tức, Phu Thê, Nô Bộc không nên thấy Thiên Lương – Hóa Lộc vì sẽ đưa đến phân tranh tiền bạc, càng gay gắt hơn nếu có cả Thiên Hình.

Thiên Lương – Hóa Lộc đóng cung Tật Ách thì bị trọng bệnh rồi được giải cứu nhưng hao tán tiền của.

Tác động của Hóa Lộc – Phá Quân

Phá Quân sao của biến hóa đột ngột. Phá Quân đứng một mình vấn đề biến hóa không đáng ngại. Phá Quân đứng cùng Hóa Lộc bất cứ biến hóa nào cũng khởi từ tình trạng đang bị đẩy vào thế bí, rồi vượt qua mọi nỗi khó khăn để mà bước sang một cảnh ngộ tốt đẹp hơn.

Phá Quân – Hóa Lộc thấy luôn cả Địa Không, Địa Kiếp sự biến đổi còn gian nan hơn nhưng cuối cùng cũng đạt thành quả.

Phá Quân đứng với Hóa Lộc tại Mệnh hoặc gặp Hóa Lộc theo thể tam hợp khi làm ăn hãy hợp tác với những người khác thì có thể giảm trừ được biến hóa. Bởi vậy Phá Quân – Hóa Lộc có Tả Phù, Hữu Bật sẽ hay đẹp hơn.

Phá Quân – Hóa Lộc cũng cần phối hợp với Nô Bộc và Huynh Đệ để đoán định sự hơn kém của thành công. Lý do: Trợ lực từ những người cộng tác vững mạnh ắt kết quả sáng sủa hoặc ngược lại.

Phá Quân – Hóa Lộc cần làm nhiều việc khác nhau cùng một lúc hoặc kiêm nhiệm chức vụ hay hơn là ôm lấy một nghề, một việc, một chức.

Phá Quân vào số nữ vì những lý do trên không tốt bằng vào nam mạng. Phá Quân – Hóa Lộc của người nữ thường vất vả hơn.

Trường hợp Phá Quân – Hóa Lộc đóng cung Huynh Đệ phải luận đoán theo hai ý nghĩa tương phản: Hợp tác với người để kiếm tiền; Đồng thời từ hợp tác ấy mình phải chịu một sự khống chế nào đó.

Trường hợp Phá Quân – Hóa Lộc đóng ở Nô Bộc cung, cổ nhân gọi đây là hiện tượng “ác nô khi chủ” thì phải cẩn thận dễ bị phản bội vì tiền bạc.

Trường hợp Phá Quân – Hóa Lộc đóng cung Tật Ách thì phải đề phòng lúc vào đại vận ấy bị một chứng bệnh nguy hiểm đột nhiên xuất hiện.

---Bài viết tham khảo thêm---

  • Sự Liên Hệ Của Thập Nhị Cung Và Ngũ Hành Sinh Khắc Chế Hóa
  • Những Cách Cục Cơ Bản Trong Tử Vi
  • Quan Phương Thập Du
  • Những Câu Phú Tử Vi Về Bộ Sao Tứ Hóa Khoa – Quyền – Lộc – Kỵ
  • Tác Động Của Sao Hóa Kỵ Tới Các Chủ Tinh
---Thầy Phúc Hùng Tử Vi---

  • Điện thoại: 0913 563 536
  • Địa chỉ: Phan Trọng Tuệ - Thanh Trì - Hà Nội
  • Đặt lịch luận giải lá số tử vi chuyên sâu

Từ khóa » Hoá Lộc ở Mệnh