Tác Phẩm "Sự Lý Dung Thông" Của Thiền Sư Hương Hải Dưới Góc ...

1. DẪN NHẬP

Phê bình Văn hóa học cho đến nay đã và đang là một hoạt động tiếp nhận quan trọng và rất phổ biến trong đời sống văn chương. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong lĩnh vực sáng tác, xuất bản và tiếp nhận trong thời gian gần đây. Như thế, tiếp nhận văn học dưới góc nhìn văn hóa hiện vẫn là vấn đề cốt lõi được nhiều trí thức phê bình quan tâm. Trong các công trình giải mã Văn hóa Dân tộc, vấn đề dung hợp tư tưởng ở thời Trung đại trong thơ của các Thiền sư vẫn luôn dành được sự quan tâm của các học giả. Hơn nữa, chính các Thiền sư khi sáng tác những vần thơ lại thường đề cập và nhấn mạnh chủ trương dung hợp tôn giáo, biểu hiện cụ thể là dung hòa các hệ tư tưởng của Tam giáo Phật – Nho – Đạo. Đây là cách để quý Ngài khẳng định lập trường, thể hiện rõ ý thức về văn hóa tư tưởng của bản thân, đồng thời đó cũng là tiếng nói đại diện cho dân tộc.

Đọc những trang thơ của các danh Tăng thế kỷ XVII-XVIII ta thấy Thiền sư Hương Hải là trường hợp điển hình đã sử dụng thơ Nôm để trình bày những sự kiện Phật giáo và quan điểm dung hợp các hệ tư tưởng trong tác phẩm “Sự lý dung thông”. Qua những vần thơ đầy hình ảnh lịch sử – văn hóa mà nổi bật nhất là của Phật giáo cho thấy Thiền sư là người rất ý thức về vấn đề Văn hóa Dân tộc. Từ lý do này, chúng tôi lấy làm thú vị khi tiếp cận đề tài “Tác phẩm Sự lý dung thông của Thiền sư Hương Hải dưới góc nhìn văn hóa”. Bằng cách tiếp cận này, có thể giúp làm rõ những tầng nghĩa văn hóa đang ẩn ngầm trong lớp ngôn từ thơ Nôm để cho việc đọc trở nên sâu sắc và trọn vẹn hơn.

Tác phẩm “Sự lý dung thông” ra đời trong bối cảnh nước Đại Việt bị phân chia thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, do cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh. (Ảnh: sưu tầm)
Hương Hải Thiền sư (1628-1715) là một người vốn xuất thân từ nhà Nho, nhưng mộ Phật và có cơ duyên xuất gia nên lĩnh hội cả hai nền học thuật là Nho học và Phật học. Thiền sư không chỉ sáng tác bằng chữ Hán mà còn sử dụng chữ Nôm.

1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ QUÊ BÌNH VĂN HOÁ 

Định nghĩa và lịch sử ra đời

Phê bình văn hóa là hướng tiếp cận các hiện tượng văn học nghệ thuật trên nhãn quan văn hóa. Hay nói cách khác phê bình văn hóa là tiếp cận Văn hóa học đối với văn học. Đối tượng nghiên cứu ở đây là văn học, còn Văn hóa học chỉ là trên bình diện phương pháp. Phê bình văn hóa khởi đầu từ cuối thế kỷ XIX với Matthew Arnold (1822-1888), đến nửa đầu thế kỷ XX thì bị lấn át bởi chủ nghĩa hình thức và phê bình mới, nhưng đến giữa thế kỷ XX chuyển dần sang nghiên cứu văn hóa với F.R.Leavis (1895-1978). Đến những năm 70, R.Hoggart với Trung tâm nghiên cứu văn hóa đương đại, từ mối quan hệ đồng đại, có sự giao lưu tương tác và chịu hấp thu các yếu tố Văn hóa học của hai trào lưu: Chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa Marx phương Tây. Từ đó, đi đến một sự tích hợp tạo nên vai trò chủ đạo của khuynh hướng nghiên cứu văn hóa ngày nay.

Hiện nay, vì điều kiện khách quan và chủ quan về những khó khăn trong việc tiếp cận tài liệu, chúng tôi xin kế thừa khung lý thuyết nghiên cứu từ Bài giảng phê bình Văn hóa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân.

3. TÁC PHẨM SỰ LÝ DUNG THÔNG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ

Hương Hải Thiền sư (1628-1715) là một người vốn xuất thân từ nhà Nho, nhưng mộ Phật và có cơ duyên xuất gia nên lĩnh hội cả hai nền học thuật là Nho học và Phật học. Thiền sư không chỉ sáng tác bằng chữ Hán mà còn sử dụng chữ Nôm. Tác phẩm của Thiền sư Hương Hải giúp người đọc có thể cảm nhận được những nét đẹp văn hóa Phật giáo nói chung và văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng. Vì đây là dòng văn học tôn giáo có hương vị khu biệt với các thể loại văn học khác.

Tác phẩm “Sự lý dung thông” ra đời trong bối cảnh nước Đại Việt bị phân chia thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, do cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh. Tác giả đã vận dụng tinh thần tùy duyên, tùy tục để đem ánh sáng từ bi, giác ngộ, đem Phật pháp vào đời bằng việc kế thừa, vận dụng tư tưởng dung hợp và tư tưởng Phật giáo nhập thế của thời Trần. Theo Lê Mạnh Thát, Thiền sư Hương Hải viết tác phẩm khi Ngài đã có tuổi, có thể từ khoảng trước hoặc sau năm 1700 [1]. Thực tiễn thời đại có sự tác động lớn đến việc định hướng xiển dương tư tưởng “dung hợp”, nhằm góp phần xây dựng và ổn định xã hội.

Tác phẩm “Sự lý dung thông” đề cập nhiều về con người tu tập, thực nghiệm và giải thoát, vấn đề bản thể luận và giải thoát luận, các trải nghiệm sống mang chất liệu trữ tình.

Tất nhiên, việc làm rõ nhan đề “Sự lý dung thông” cũng là điều cần thiết để giúp hiểu tác phẩm rõ hơn từ những tầng nghĩa liên quan đến tư tưởng và văn hóa. Theo từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn: Sự và Lý: Pháp hữu vi do nhơn duyên sinh ra kêu là Sự. Pháp vô vi của nghĩa bất sanh bất diệt, kêu là Lý. Sự là cái tướng môn tượng; Lý là cái thể của chơn như vậy [2]. Còn theo Lê Mạnh Thát: Sự là thực tiễn; Lý là lý thuyết, nguyên tắc bao gồm cả lý thuyết và thực hành. Theo chúng tôi, từ nghĩa hẹp: Sự là sự vật, sự việc, sự thể, hiện tượng mang hình thức, nghĩa là có thể cảm nhận bằng các giác quan nhưng chú ý đến các đối tượng hữu hình. Còn Lý hiểu theo phương diện là cái vô hình, lý thuyết, là nguyên tắc mang nội dung. Từ nghĩa rộng: Sự là tất cả các pháp trong hiện thực, hết thảy mọi đối tượng trong cuộc sống cả tự nhiên và xã hội. Lý là nói đến bản thể, có tính quy luật tự nhiên và tất cả đều biểu hiện đặc tính: Vô thường, vô ngã và chịu sanh diệt, đó là điều bất biến và thường tại.

Tác phẩm “Sự lý dung thông” đề cập nhiều về con người tu tập, thực nghiệm và giải thoát, vấn đề Bản thể luận và Giải thoát luận, các trải nghiệm sống mang chất liệu trữ tình. Cụ thể đọc “Sự lý dung thông” của Thiền sư là thấy được việc đúc kết triết lý bằng lối diễn thơ Nôm nhằm truyền đạt giá trị nội dung như: Tư tưởng Thiền Phật, chủ trương hòa đồng Tam giáo, mô tả lý tưởng và thực tiễn đời sống tu hành của người Phật tử thời đó. Sau cùng là trải nghiệm phong phú cho việc sáng tác văn học và giữ gìn bản sắc ngôn ngữ Việt. Đặc biệt, nó thể hiện và chuyển tải đầy đủ cả nội dung lẫn nghệ thuật.

QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO TRONG TÁC PHẨM 

Thế kỷ XVIII, Thiền sư Hương Hải đã viết tác phẩm “Sự lý dung thông” để thể hiện quan niệm của mình về những vấn đề Phật pháp trên phạm trù tư tưởng và đời sống tu hành của những người Phật giáo thời đó. Thông qua tác phẩm, ta thấy rõ Thiền sư đã xác định lại vấn đề của Phật pháp chính là những gì diễn ra hằng ngày trong cuộc sống bấy giờ. Chúng ta biết rõ Ngài đã có những đóng góp lớn lao cho Phật giáo đương thời như: Định hướng tu tập, xây dựng chùa chiền, tự viện, đúc chuông, tiếp Tăng độ chúng, đào tạo Tăng tài, trước tác, sưu tầm khắc in, phục hưng Thiền phái Trúc Lâm… Như vậy, tư tưởng thiền cơ bản của ông đứng trên quan niệm “chuyển thế pháp đều nên Phật pháp”. Tư tưởng này là sự kế thừa, gìn giữ và phát huy từ chư Tổ qua bao đời. Nếu như khởi đầu từ Lục tổ Huệ Năng của Trung Quốc là tư tưởng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, hay với Trần Nhân Tông ở nước ta đó là tư tưởng “Cư trần lạc đạo”, thì với Thiền sư Hương Hải điều được quan tâm hơn hết là tinh thần dung hợp các pháp, điển hình nhất là sự hòa đồng, tương dung trong vai trò của Phật – Nho – Đạo.

Thời kỳ Trung đại là thời kỳ văn hóa Tam giáo đã trở thành một phần trong truyền thống văn hóa tư tưởng ở các nước Đông Á trong đó có Việt Nam. Rõ ràng, yếu tố văn hóa Tam giáo mang dấu ấn chính trị – xã hội của thời đại. Mối quan hệ Tam giáo được quan tâm ngay từ buổi đầu Phật giáo mới du nhập, từ thời Lý – Trần tư tưởng này được các Thiền sư phát huy dưới hình thức dung hòa các tôn giáo, đến thời Lê – Nguyễn tư tưởng này được định hướng theo cách “Cư Nho mộ Thích”. Như thế, văn hóa Tam giáo đã vận hành rất linh động theo bối cảnh từng thời kỳ, tất nhiên tự bản thân chúng phải học hỏi tinh hoa tôn giáo bạn và kết hợp điều chỉnh phù hợp với tâm lý địa phương.

Nhà phê bình văn học dưới góc nhìn văn hóa nhìn nhận rằng: “Phê bình một tác giả thường có khuynh hướng thiên về giai thoại hoặc văn học sử, chủ yếu tập trung vào cuộc đời, vào đề tài của một số tác phẩm và vào một số đặc điểm trong tư tưởng tác giả, đặc biệt trong quan hệ với biến cố chính trị và xã hội chung của một thời đại” [3]. Nhận thấy trong số những yếu tố này, biến cố chính trị và xã hội của thời đại là cái duyên mạnh nhất để Thiền sư Hương Hải có chất liệu sáng tác mang gam màu văn hóa của thời đại mình, cụ thể là việc thấy rõ các dòng tư tưởng được đề cập đến trong tác phẩm “Sự lý dung thông”. Tất nhiên, đó là sự kế thừa tư tưởng “Tam giáo đỉnh lập” có tính phân lập của thế kỷ thứ II, rồi tư tưởng “Tam giáo dung hợp” có tính tương trợ, xâm nhập và chung sống cùng nhau của thời Lý, Trần và Lê sơ, rồi đến thời đại của Thiền sư ở thế kỷ XVII-XVIII là tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” hay còn gọi là “Tam giáo nhất nguyên”, “Tam giáo hợp lưu”, “Tam giáo đồng quy”, “Tam giáo nhất trí”…

Một điểm chung dễ dàng nhận thấy là Thiền sư Hương Hải đã tiếp thu yếu tố tích cực của Nho giáo và Đạo giáo phù hợp với nước ta, hoàn toàn không y theo rập khuôn ý thức hệ Nho giáo Trung Quốc. Điều này phù hợp với sự quan tâm của các nhà văn hóa: “Phải có ý thức văn hóa thường xuyên, […] phải luôn luôn biết nhìn đời như một trạng thái nhân sinh trong một bối cảnh văn hóa nhất định” [4].

Mặc dù xuất thân từ nhà Nho nhưng Thiền sư có cách nhìn nhận Tam giáo rất khác biệt, đó là coi Nho giáo chính là nguồn lực bổ khuyết cho Phật giáo về phương diện trị thế. Nhưng quan trọng hơn Thiền sư vẫn hướng đến lý tưởng hòa đồng và dung hợp văn hóa của Tam giáo: “Rừng Nho bể Thích dung thông, linh đài vằn vặc, vừng hồng sáng thanh” [5]. Như thế, Thiền sư đã kế thừa và phát huy truyền thống dung hợp Tam giáo của dân tộc, điều này được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong tác phẩm “Sự lý dung thông”, chẳng hạn: “Đường lên hiền Thánh Phật tiên/ Gồm no phúc tuệ vẹn tuyền chẳng sai” [6] hay “Dốc làm chí cả Trượng phu/ Đạo nên trung hiếu ân thù vẹn hai” [7]. Điều này thể hiện đúng yêu cầu của lý luận văn học trên bình diện văn hóa lịch sử: “Lý luận văn học cho rằng, là một hình thái ý thức xã hội nằm trong kiến trúc thượng tầng, văn học nghệ thuật cũng phát triển theo quy luật kế thừa và sáng tạo đối với di sản cũ” [8].

Vấn đề quan trọng khác mà tác phẩm hướng đến khẳng định lại giá trị đạo đức, xây dựng đời sống tu hành để trở thành con người lý tưởng của Trượng phu trung hiếu trên nền tảng dung hợp các dòng tư tưởng mà xưa nay ông cha ta đều quan tâm, đặc biệt là sự tương dung của Tam giáo. Cụ thể hơn, đó là mẫu người tài đức vẹn toàn, xuất nhập tự tại giữa đạo và đời với những phẩm chất đầy đủ của Tam giáo.

Xuất phát từ thực tiễn xã hội bị tha hóa, vấn đề đạo đức con người được quan tâm, cũng như nhu cầu thiết yếu của đời sống tâm linh – văn hóa, Thiền sư đã hướng đến vấn đề xây dựng mẫu người hoàn thiện, lý tưởng dựa trên nền tảng dung hợp Tam giáo. Con người lý tưởng gắn liền với cảm thức Văn hóa Tam giáo được thể hiện ở nhiều cấp độ, nhấn mạnh tầm quan trọng có sức nặng của Tam giáo trong đời sống con người, đây là một con người đức hạnh và trung hiếu vẹn toàn. Con người tuyệt vời ở chỗ không chỉ hướng đến giải thoát giác ngộ, phụng sự đạo pháp mà còn góp công vào phục vụ, giữ gìn phong cốt quê hương, bảo vệ đất nước. Như vậy, Thiền sư đã tiếp tục gầy dựng mẫu người lý tưởng đạo đức từ bao đời của các thế hệ tiền bối, nhưng Ông vẫn thể hiện nét riêng của mình như: “Ra nhân đức, nhuận ân oai” – một kiểu người có tài kinh bang tế thế và hiếu hạnh đầy đủ để tùy cơ mà sống, tùy duyên mà hành động. Đây là tư tưởng trung hiếu của Thiền sư vào thời đó, bằng tầm nhìn Phật giáo Thiền sư đã kết hợp tư tưởng trung hiếu với lý tưởng Bồ tát để tạo nên mẫu người năng động, vẹn toàn phù hợp với nhu cầu thời đại: “Dốc làm chí cả Trượng phu/ Đạo nên trung hiếu, ân thù vẹn hai” [9].

Có nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: “Dù biến đổi không ngừng qua các môi trường xã hội và lịch sử khác nhau, văn chương nghệ thuật từ xưa đến nay vẫn đi sâu khai thác hai mặt cơ bản nhất là sự thật và tư tưởng nhân văn trong cuộc sống con người và xã hội, luôn có một cách nhìn kết hợp thực tế và lý tưởng, cái hiện có và cái nên có, khiến con người nhận chân được thực trạng nhân thế, sống có ước mơ, có khát vọng về chân, thiện, mỹ” [10]. Nhưng không chỉ dừng lại ở cái đẹp của đời thường, tác phẩm còn hướng đến khai phóng tiềm năng vô tận và giải phóng con người hoàn toàn trên phương diện tâm linh và dĩ nhiên là cân bằng cả đời sống tâm linh xuất thế lẫn những trọng trách nhập thế.

Biểu hiện của việc giải phóng con người trước tiên được Thiền sư nhấn mạnh thông qua việc thấm nhuần và thực hành Tam giáo: Trong nơi danh giáo có ba/ Nho hay giúp nước sửa nhà trị dân/ Đạo thì dưỡng khí an thần/ Thuốc trừ tà bệnh chuyên cần luyện đan/ Thích độ nhân miễn tam đồ khổ/ Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương/ Nho dùng tam cương ngũ thường/ Đạo gìn ngũ khí, giữ giàng ba nguyên/ Thích giáo nhân tam quy ngũ giới/ Thể một đường, xe phải dùng ba [11]. Đặc biệt, Thiền sư vẫn dành sự quan tâm và đề cao Phật giáo hơn, nhưng Nho và Đạo giáo vẫn quan trọng theo cách đóng góp phương tiện để truyền bá Phật giáo:

Luận chưng Thánh tổ Nho gia

Trong đời trị thế người là Nhân sư

Sao bằng Đâu suất vị cư

Lão quân Tiên chủ đại từ dược phương

Phật là vạn pháp trung vương

Làm Thầy ba cõi đạo trường nhân Thiên [12].

Lý tưởng tu hành và giải thoát cá nhân được gia cố niềm tin khi Thiền sư lật lại những giá trị của văn hóa và lịch sử của Thiền tông từ Tây thiên (Ấn Độ) nơi đức Thích Ca ra đời cho đến Đông độ (Trung Quốc) nơi khai sinh dòng thiền của các Tổ như: Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng: “Tỏ lòng Đông độ Tây thiên/ Gần xa đầm ấm hương thiền nức xông” [13]. Đó là cái đẹp, là nét văn hóa trong sự giữ gìn và truyền thừa qua bao đời trong lịch sử Thiền tông, khẳng định rằng việc gieo trồng nhân giác ngộ và đạt được quả giác ngộ chính là bằng chứng thuyết phục trong việc tu tập. Lịch sử cũng đã minh chứng cho việc: “Đường lên Hiền thánh Phật tiên/ Gồm no phúc tuệ vẹn tuyền chẳng sai” bằng cách Thiền sư đã giới thiệu một không gian văn hóa tâm linh Thiền tông kế tục và nối dài trong lãnh thổ Trung Quốc: “Hãy nhìn sáu Tổ năm Tôn/ Thiên hà muôn phái một dòng Tào Khê/ Bể từ rạt sạch nguồn mê/ Máy thiêng mở khép đuề huề độ sanh” [14]. Với một bề dày lịch sử thành tựu của Thiền tông như vậy đã cho thấy khả năng tu tập và giác ngộ của con người là rất lớn và vô hạn. Cho nên, dù là bất cứ ai hay họ có xuất thân bất cứ nơi nào đều không quan trọng, hễ có tâm hướng đến ý thức tự độ và độ tha thì người đó ắt sẽ thành tựu như nguyện, đó là một cái nhìn bình đẳng của tánh giác mà lịch sử đã ghi nhận:

Tuy rằng nam có Thiên Thai

Bắc có ngũ Đài một pháp Năng nhân

Dốc bốn ân đức nhờ Tam bảo

Tiếp tứ hoằng một đạo nguyên xưa [15].

Lịch sử truyền thừa của Phật pháp còn thành tựu qua việc sưu tầm, lưu giữ và bảo tồn Thánh điển của Phật giáo:

Tam tạng mười hai bộ kinh

Tùng tâm lưu xuất, tượng hình thật không [16].

Qua đó chứng minh rằng, Kinh điển là những lời dạy từ kim khẩu của Đức Phật, là cả kho tàng trí tuệ và từ bi được đúc kết từ những phương pháp thực nghiệm, những chứng nghiệm sâu sắc về tâm, nên giá trị của nó là bất biến. Qua đó, khẳng định tâm cũng là tiền đề lớn của mỗi con người tu tập, vì tâm là đầu mối của tất cả, tâm dẫn đầu các pháp.

Trên đây là những thành tựu và di tích văn hóa Phật giáo của khu vực nói chung, đã trở thành những nét văn hóa mang tính tôn giáo phổ quát và Phật giáo Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng bởi sự thừa hưởng này. Qua đó, hình thành tính dân tộc từ ảnh hưởng của những sự kiện mang tính lịch sử – tôn giáo. Rõ ràng, ngoài các đặc điểm về tự nhiên, về phong tục và quan niệm hình thành trong lao động, trong sinh hoạt, tính độc đáo dân tộc của văn học còn gắn liền với các đặc điểm của đời sống xã hội và của tính cách dân tộc [17]. Với trường hợp của “Sự lý dung thông”, điều này lại được thấy rõ:

Hằng rèn giới hạnh công phu

Lên đường tinh tiến những phù yên tâm […]

Dốc làm chí cả Trượng phu

Đạo nên trung hiếu ân thù vẹn hai [18].

Thông qua lời của Thiền sư ta thấy quan niệm tư tưởng trong đời sống thực tiễn tu hành của Phật tử Việt Nam thời bấy giờ đề cao giới hạnh công phu, nhưng trên hết là đức tính trung hiếu của Đấng Trượng phu, đây có thể là lối sống biểu trưng cho tinh thần dân tộc ta thời đó.

Nói đến lý tưởng hay lý thuyết của con người Phật giáo ở thời kỳ này được Thiền sư Hương Hải mở ra bằng việc nhấn mạnh đến tư tưởng thiền, nổi bật nhất là vấn đề “tâm truyền” đó là “Pháp nhẫn vô sanh”. Điều đáng quan tâm là tư tưởng thiền của Ngài mang đậm tính dân tộc đó là sự dung hợp hài hòa giữa các hệ tư tưởng, nên dù xã hội ổn định hay phức tạp thì sự dung hòa các hệ tư tưởng cũng phản ánh tư duy của con người Việt Nam xưa nay. Do đó, ngoài sự dung hòa Phật – Nho – Đạo, Thiền sư còn hướng đến dung hòa các hệ tư tưởng Thiền tông và Tịnh độ, đốn ngộ – tiệm ngộ, Thiền giáo đồng hành để phù hợp với mọi căn cơ, tùy thuận mọi sự việc và hoàn cảnh xã hội. Sau cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là quan niệm “chuyển thế pháp thành Phật pháp” trong tư tưởng thiền của Thiền sư Hương Hải, mà Phật pháp chính là sự sống xảy ra bây giờ và ở đây.

“Sự lý dung thông” đã đóng góp những giá trị mới đó là sự dung hợp các hệ tư tưởng nhất là sự dung hợp Tam giáo, làm tăng thêm lợi ích và làm dồi dào thêm cho nền văn hóa, văn minh của nước ta. Tư tưởng thiền không rời quan niệm “chuyển thế pháp đều nên Phật pháp”, vì tất cả đều phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của nhân sinh. Nhưng mục đích cao quý nhất đó là hướng đến đời sống tu tập và giải thoát, cho nên phương tiện quyền xảo trong đời đó là thấy rõ điểm “gặp gỡ” giữa thiền của Phật giáo với vô vi của Lão – Trang, phương thức tu thân dưỡng tánh của Phật giáo đã hòa với quan niệm “dụng thế” tu thân, trị quốc, tề gia, bình thiên hạ của Khổng Tử. Như vậy, cho thấy bất cứ học thuyết tôn giáo nào cũng đều hướng con người đến một đời sống hạnh phúc, an lành.

Trong “Sự lý dung thông”, tác giả đã trình bày có chủ đích những sự kiện văn hóa nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc kết hợp với những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, lạ hóa, nghịch ngữ phi logic đã tạo ra cảm giác thú vị khi được nghe kể về con người và văn hóa Phật giáo bằng thể thơ song thất lục bát của dân tộc, đó là một đặc sắc của ngôn ngữ. Qua lối kể bằng giọng thơ với cách diễn trình nội dung tư tưởng dung hợp Tam giáo, chủ trương tư tưởng thiền mang xu hướng nhập thế nhưng tùy thuận mọi nhân duyên, lẽ sống và đời sống thực tiễn của những người tu hành cho thấy Thiền sư rất có ý thức về Văn hóa Dân tộc, con người và đời sống Thiền môn thời đó.

Qua tác phẩm ta thấy, phần lớn Thiền sư sử dụng nhuần nhuyễn và sinh động ngôn ngữ Phật học, Thiền học trong đó có cả phần ít từ ngữ của Nho giáo, Đạo giáo và một số từ trong sử sách Trung Quốc và Ấn Độ. Tất nhiên không thiếu ngôn từ bản địa để tạo nên sự kết hợp hài hòa của ngôn ngữ giúp mang lại những dụng ý nơi hình tượng văn học, chuyển tải trực tiếp những thông điệp Phật học, Thiền học đến với đối tượng tiếp nhận. Cho thấy, Thiền sư có tri thức Tam giáo uyên thâm, trực giác cảm nhận nhạy bén và khả năng sử dụng ngôn ngữ thành thạo, sử dụng nhiều hình tượng ẩn dụ rất đắt, kết quả của sự sáng tạo cao tạo ấn tượng mạnh mẽ, kích hoạt chiều sâu tâm linh của Thiền giả. Thông qua việc vận dụng linh hoạt giữa ngôn ngữ tâm linh và ngôn ngữ hàm ẩn, sự kết hợp lý thú giữa văn học thế tục và thi ca tôn giáo, giữa tư duy nghệ thuật và tư duy tôn giáo, cách bố trí câu cú tinh tế, hình thức thi ca hài hòa giữa bác học và bình dân, cho thấy sức tái tạo của niềm tin Thiền giáo, hồi sinh thêm sức mạnh của nội tâm, tăng khả năng chuyển hóa căn cơ và thấu ngộ giải thoát. Chúng tôi thấy cách trình bày của tác giả có quan tâm đến việc tác động người đọc qua những sự kiện văn hóa, lịch sử, tư tưởng của Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Đó cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo và khám phá văn chương.

4. KẾT LUẬN

Bao nhiêu lời thơ bàn về đời sống tu hành và quan niệm về con người, lý tưởng của thời đó là bấy nhiêu lần gợi nhớ đến lịch sử tiếp nhận Nho, Phật, Đạo trong văn hóa và văn học dân tộc, một hiện tượng có lịch sử gắn bó với nước ta hơn hai ngàn năm. Rõ ràng, việc trình bày nhiều sự kiện lịch sử của văn hóa Phật giáo đã gián tiếp nhấn mạnh tầm quan trọng của Phật giáo đối với con người và đất nước ta từ xưa đến nay. Nói chung, không đơn thuần là sự thể hiện chủ trương, tư tưởng của Thiền sư mà đó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm đề cao tinh thần dân tộc, bảo vệ những nếp sống tốt đẹp để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

ĐĐ. Thích Nhuận Tâm

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Lê Mạnh Thát, Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr.383.

[2] Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2011, tr.1018.

[3] ] Nguyễn Hưng Quốc, Từ phê bình văn học đến phê bình văn hoá, nguồn từ Internet, 2011.

[4] ] Phương Lựu chủ biên, Lí luận văn học, Nxb. Đại học Sư phạm, 2021, tr.137.

[5] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.402.

[6] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.388.

[7], [9] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.404.

[8] Phương Lựu, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb. Đại học Sư phạm, 2005, tr.182.

[10] Nguyễn Văn Hạnh, Lý luận phê bình văn học: Thực trạng và khuynh hướng, Nxb. Khoa học xã hội, 2009, tr.111.

[11] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.63.

[12] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.392-393.

[13] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.388.

[14] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.395.

[15] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.397.

[16] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.402-403.

[17] G.N.Poxpelop chủ biên, Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.442.

[16] Lê Mạnh Thát, Sđd, 2000, tr.403-404.

Download QR 🡻

Từ khóa » Sự Lý