Tác ý - 一期一会

Bài viết này nói về tác ý, nhưng một phần nội dung quan trọng là cách sử dụng từ ngữ. Xin được nói về chuyện từ ngữ trước.

Có nhiều bạn trẻ quan tâm đến Phật giáo, nhưng khi tìm hiểu kinh sách thì vấp phải một rào cản lớn: ngôn ngữ. Dù các tài liệu được viết bằng tiếng Việt, đối với người mới bắt đầu chúng khó hiểu như sách ngoại văn.

Tại sao? Nguyên nhân thứ nhất có thể là vì bản thân các khái niệm đã khó hiểu. Rất nhiều khái niệm không có trong tiếng Việt mà chúng ta sử dụng hàng ngày; hầu hết các khái niệm là từ Hán Việt (như lý tác ý, tinh tấn, miên mật, v.v,..); một số khái niệm là phiên âm Hán của tiếng Phạn (mạt na, a lan nhã, đầu đà, v.v,…). Tiếng Việt không đủ, mà dù có học thêm chữ Hán cũng vẫn thấy khó hiểu. Chỉ là hiểu ý nghĩa câu chữ thôi chứ chưa nói đến thấm nhuần.

Nguyên nhân thứ hai là một hiện tượng tâm lý. Người ta thường có lấy mình làm thước đo để đánh giá người khác. Những người kém cỏi thường đánh giá thấp năng lực của người khác trong khi những người giỏi giang thường đánh giá người khác cao hơn thực tế. Các thầy biết trình độ người mới tiếp cận có hạn, nhưng thực ra vẫn đánh giá trình độ đó cao hơn trình độ thực. Tất nhiên, nếu bạn thật sự quan tâm tìm hiểu, chiêm nghiệm, thực hành, rồi bạn sẽ hiểu. Nhưng với khi mới bắt đầu, ngôn ngữ vẫn là một rào cản lớn.

Thực tế trên dẫn đến hai hiện tượng. Thứ nhất, người trẻ cảm thấy khó tự mình tiếp cận với giáo lý. Nếu không có thầy để trao đổi thì thật sự khó. Thứ hai, một số người tưởng là mình hiểu, và bắt đầu giải thích giáo lý như thể đã hiểu. Những người thích nói chữ dùng những từ ngữ trong Phật giáo như trong những gì họ được đọc và nghe, nhưng thực ra là dùng sai. Ví dụ tiêu biểu là từ “cứu cánh.” Rất nhiều người không hiểu nó vốn có nghĩa là “mục đích.”

Những điều Phật dạy có thể mang lại nhiều lợi ích cho đời sống, ngay cả khi mục tiêu của chúng ta không phải là giác ngộ hay giải thoát. Hiểu được giáo lý có thể giúp chúng ta sống một cuộc sống cân bằng hơn, thanh thản hơn, giúp cho chúng ta và những người xung quanh cảm thấy vui vẻ và thoải mái hơn. Vì thế, giáo lý nên được phổ biến. Trong các bài giảng pháp cho đại chúng, mọi người có thể hỏi thầy, nên không có nhiều vấn đề. Tuy vậy, nếu là tài liệu thì để có thể đến được với đông đảo mọi người, nên dùng ngôn ngữ đơn giản. Không thể thay đổi từ ngữ của kinh điển Phật giáo, nhưng trong các bài viết và sách giảng, hoàn toàn có thể làm điều đó. Những lời dạy của Phật có thể khó có thể thấu hiểu ngay, nhưng về cơ bản chúng đã luôn gần gũi, dễ hiểu, và nên tiếp tục như vậy.

Một ví dụ tương tự cho điều này là phong trào Plain English. Thông thường, trong các văn bản thương mại hoặc luật, ngôn ngữ được dùng khá trúc trắc và cấu trúc câu thì phức tạp. Nó trở thành đặc trưng của ngôn ngữ trong những lĩnh vực này, khiến cho legal language and corporate language dường như là những thứ tiếng Anh khác với thứ tiếng Anh mà chúng ta biết. Đúng là trong những lĩnh vực đó người ta phải diễn đạt những điều phức tạp hơn ngôn ngữ thường ngày, nhưng không nhất thiết phải dùng những lối viết ấy, và người ta làm thế vì đó là thói quen hoặc là họ chỉ đang cố làm màu mà thôi. Những người khởi xướng Plain English nghĩ như vậy, và mình cũng nghĩ như vậy. Plain English chủ trương viết tiếng Anh một cách dễ hiểu, với văn phong trong sáng, đơn giản, loại bỏ những hiểu lầm mà cách diễn đạt kiểu cách có thể gây ra. Nhiều công ty đã mời chuyên gia về đào tạo Plain English cho nhân viên của họ, vì thực tế là nó làm cho giao tiếp và kéo theo đó là cả bộ máy các công ty hoạt động trơn tru hơn.

Xin giới thiệu cuốn “Plain English at work” cho bạn nào chưa đọc. Đây là một cuốn sách đã thay đổi cách mình viết tiếng Anh. Khi còn nhỏ dại hơn cả bây giờ, mình đã từng viết luận bằng những từ ngữ cao siêu chỉ để thể hiện vốn từ. Sau khi biết đến Plain English thì điều quan trọng nhất với mình là giao tiếp hiệu quả, để đối phương hiểu đúng ý mình. Không cần phải nổ làm gì vì thực lực của chúng ta sớm muộn cũng sẽ được biểu hiện ra trong những việc ta làm. Cái gì tốt thì dù ta không khoe nó vẫn cứ tốt, và ta không cần khoe ra nếu không phải đang đi bán hàng.

Nếu như cách dùng tiếng Anh có thể thay đổi theo hướng đơn giản hơn mà vẫn giữ nguyên được nội dung cần truyền tải, thì “tiếng Phật” cũng vậy. Cuối bài viết này mình sẽ dẫn ra các ví dụ. Phần tiếp theo xin được nói về tác ý, bằng tiếng Việt giản dị.

Chùa Trấn Quốc, Hà Nội 2019

Tác ý là một khái niệm liên quan đến ý muốn thực hiện hành động nào đó. Ví dụ, khi bạn đang đọc bài viết này, bạn dừng lại và đi uống nước. Trước khi bạn đứng lên để đi uống nước, tác ý đứng dậy và đi uống nước đã xuất hiện. Trước khi bạn làm một việc gì đó, tác ý thực hiện hành động đó đã khởi lên từ trước, và dù bạn có nhận ra hay không, nó đã xuất hiện và có ở đó. Mỗi hành động luôn theo sau tác ý của nó, dù tác ý khởi lên chỉ trong khoảnh khắc.

Trước khi bạn đánh một ai đó, có tác ý.

Trước khi bạn hút điếu thuốc đó, có tác ý.

Trước khi bạn uống cốc rượu đó, có tác ý.

Mỗi hành động dù nhỏ nhất đều có tác ý. Có tác ý cầm cốc rượu đó lên, có tác ý đưa cốc rượu đó lên miệng, có tác ý bắt đầu uống nó, v.v.

Khi hành động của bạn trở thành thói quen, nó diễn ra nhanh đến nỗi bạn không còn nhớ quá trình bạn thực hiện hành động đó nữa, nhưng tác ý vẫn luôn đến trước hành động. Nếu bạn chú ý quan sát, lắng nghe chính suy nghĩ của mình, bạn sẽ thấy tác ý. Khi bạn nhận ra tác ý, bạn có thể quyết định bạn có thực hiện nó hay không. Điều này giống như là bạn đọc suy nghĩ của mình, bạn nghe thấy: Tôi sắp cầm cốc rượu đó lên. Lúc ấy, bạn có thể quyết định có thật sự cầm nó lên hay không. Thông thường, người ta không bao giờ theo dõi suy nghĩ của bản thân kỹ như thế, và không nghe thấy câu đó. Họ chỉ đơn giản nhìn cốc rượu, và nửa giây sau nó đã ở trên miệng họ rồi. Đôi khi, họ say khướt và không nhớ mình đã uống bao nhiêu. Hành động uống rượu là một thói quen, nó quá nhanh và trơn tru.

Một ứng dụng của việc quan sát và nhận ra tác ý là, nó đưa bạn về với hiện tại và tập trung vào việc bạn làm. Nếu bạn lắng nghe chính suy nghĩ của mình, bạn biết bạn không phải là người điều khiển suy nghĩ, và bạn biết chuyện gì sắp xảy ra, bạn là người quyết định. Rồi sẽ có một lúc nào đó, bạn không nghe thấy suy nghĩ nữa, chỉ có tác ý và việc bạn sắp làm, và bạn có thể toàn tâm toàn ý cho việc đó.

Buổi nói chuyện TED Talks này không hoàn toàn liên quan, nhưng rất gần với điều mình đang nói ở đây. Một cách có thể giúp người ta từ bỏ thói quen là đối mặt với nó, nhìn nó trực diện. Bình thường, khi ý nghĩ muốn hút thuốc nổi lên, người ta đơn giản là hút thuốc, đó là một hành động đã được tự động hóa, và người ta có thể chẳng cảm thấy gì cả. Chỉ ý nghĩ đó có thể đã sản sinh dopamine rồi. Nếu thay vào đó, người ta chú ý đến ý muốn đó (tác ý), chú tâm đến toàn bộ quá trình hút thuốc, người ta có thể thấy rõ từng giai đoạn, thấy rằng thuốc thực ra là một thứ rất ghê. Thay vì hút thuốc như một cái máy trong lúc nghĩ vẩn vơ những chuyện khác, nếu đọc tâm trí chính mình, phân biệt từng suy nghĩ và tác ý, người ta có một cái nhìn khác về hành động của mình. Nhiều người đã từ bỏ được thói quen xấu bằng cách đó.

Tóm lại tác ý là thứ luôn xuất hiện trong tâm thức trước khi bạn làm bất cứ việc gì. Nếu bạn chú ý “đọc” tâm trí mình với một sự tập trung nhất định, bạn sẽ thấy suy nghĩ đến và đi, bạn sẽ thấy tác ý nổi lên, bạn sẽ hiểu hơn quá trình bạn làm những việc mà bạn luôn làm nhưng không để ý. Quá trình đó có thể khiến bạn sống sâu hơn ở hiện tại, và quyết định liệu có thực hiện một hành động nhất định hay không.

Trên đây là một vài suy nghĩ nhỏ về tác ý. Nếu các bạn tìm kiếm trên mạng, các bạn có thể thấy những bài viết khác mà nhiều khả năng là khó hiểu hơn. Dưới đây mình trích hai ví dụ viết về tác ý để làm rõ hơn ý về ngôn ngữ ở trên. Ví dụ thứ nhất, “Như lý tác ý,” trích trong “Trái tim của Bụt,” tác giả là sư cụ chùa Từ Hiếu, một người mình ngưỡng mộ. Cách dùng từ của sư cụ đã dễ hiểu hơn những nguồn khác, nhưng mình nghĩ vẫn có phần khó khăn cho người mới bắt đầu. Ví dụ thứ hai là phần viết về tác ý trong “Ba mươi ngày thiền quán” của Joseph Goldstein, dịch giả Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Duy Nhiên. Mình mong muốn học hỏi được cách diễn đạt đơn giản mà mẫu mực như trong ví dụ này.

浅草寺 東京、令和元年

=============================

Như lý tác ý

Thích Nhất Hạnh

(Trích: Trái tim của Bụt)

Chữ niệm nghĩa là nhớ. Chữ Hán viết phần trên là chữ kim, nghĩa là nay, phần dưới chữ tâm, nghĩa là lòng mình. Niệm là điều ta đang nhớ tới, đang nghĩ tới. Mà điều ta nhớ và nghĩ có thể là tà, có thể là chính, vì vậy nên có tà niệm và chánh niệm. Chánh là thẳng, tà là nghiêng. Chánh niệm tức là đặt những điều ngay, thẳng và điều tốt đẹp vào trong tâm nhớ nghĩ của mình.

Trong 51 tâm hành có một tâm hành tên là tác ý (manaskara, Pali là manasikara). Tác ý tức là khởi tâm để ý tới một đối tượng nào đó. Trước đó chưa chú ý tới, bây giờ ta chú ý tới, gọi là tác ý. Tác ý là một trong năm tâm sở biến hành. Và tác ý mở đầu cho một niệm. Như khi ta xem một truyện phim hay nghe một bài hát thì hình ảnh hay câu hát khiến cho ta tác ý. Nếu ta biết tu tập thì ta sẽ tác ý tới một điều chính, và ta duy trì điều chính đó lại. Khi nghe chuyện hay nhìn hình ảnh ta cũng có thể tác ý tới một điều bất chánh. Khi ta tác ý tới một điều chánh đáng, phù hợp với tinh thần bốn sự thật, với kiến thức về bốn loại thực phẩm, với giáo lý bát chánh đạo thì đó gọi là như lý tác ý hoặc là như pháp tác ý (yoniso manaskara).

Ngược lại là bất như lý tác ý (ayoniso manaskara). Chữ như lý được dịch từ chữ yoniso. Yoni có nghĩa là tử cung, cái cung của đứa con, mọi người đều sinh ra từ đó. Và vì thế yoni ở đây có nghĩa là cội nguồn. Khi đưa về đúng cội nguồn, không lạc hướng, thì gọi là yoniso. Đưa đi lạc khỏi cội nguồn thì gọi là ayoniso, dịch là bất như lý hay là phi như lý tác ý.

Thí dụ ở Làng Mai khi nghe tiếng chuông đồng hồ, mọi người trở về với chánh niệm, thở và mỉm cười. Ta lấy chánh niệm để soi sáng và như thế ta thực tập như lý tác ý. Khi nghe một tiếng hát đưa lòng ta tới những thương nhớ vẩn vơ, quên rằng ta đang ở đây để thực tập chánh niệm cùng với tăng thân, thì đó là phi như lý tác ý. Cho nên trong đời sống tu học, chúng ta phải tổ chức như thế nào để có thể thực tập được như lý tác ý trong mỗi giây phút. Khi bước vào nhà bếp, thấy một vị thiền sinh đang xắt cà rốt, tôi hay hỏi: ‘‘Anh đang làm gì đó?’’ Câu hỏi giống như một tiếng chuông để giúp người đó như lý tác ý. Trong một tăng thân tu tập với nhau chúng ta phải giúp nhau gióng tiếng chuông như lý tác ý cho nhau. Cách đi, cách đứng, cách ngồi, cách nhìn, cách làm việc của ta đều có thể có tác dụng giúp người khác thực tập như lý tác ý. Trong tăng thân chúng ta có những người làm được như vậy. Khi nhìn thấy họ ta tự nhiên trở về được với chánh niệm. Sự có mặt của họ có tác dụng như tiếng chuông tỉnh thức. Xây dựng tăng thân cũng là thực tập để cho mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cái động tác của ta là một tiếng chuông cho chính ta và cho người khác. Trong thiền viện, từ cách trình bày bàn thờ, cắm một bình hoa, một góc chùa cong, một tiếng chuông thỉnh đều chủ ý giúp chúng ta thực tập như lý tác ý. Cái gì trong thiền viện cũng phải được sắp đặt để nhắc nhở chúng ta phải trở về như lý tác ý. Như lý tác ý là giây phút khai sanh của chánh niệm. Ngược lại, nếu chúng ta sống trong một môi trường mà mọi thứ đều khiến chúng ta quên lãng, ta sẽ bị kéo theo bởi những phi như lý tác ý. Ngồi trong một quán rượu, tất cả những điều chúng ta nghe, thấy và cảm bằng sáu giác quan đều có tác dụng đưa chúng ta đi lạc vào phi như lý tác ý.

Khi chúng ta nghĩ tới những danh, lợi, tài, sắc, nhớ tới thuốc hút ‘‘nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên’’, thì niệm đó là tà niệm. Nhớ một người nào đến nỗi không làm ăn gì được, không tu học gì nổi, đó là tà niệm. Có khi chúng ta quán tưởng một dòng nước trong hay là một bầu trời xanh để cho tâm hồn thư thái, để tự nuôi dưỡng trước khi trở về đối diện những khó khăn hiện tại, việc này có thể là như lý vì chúng ta biết mình đang làm gì. Nhưng thường thì chúng ta không biết là mình đang mơ mộng và đang trốn tránh. Mà người tu học không trốn tránh thực tại. Tu học tức là đem chánh niệm chiếu vào đối tượng khổ đau, để tìm ra những nguyên do đã đem tới đau khổ. Mà thấy được khổ đế và tập đế rồi, tự khắc ta thấy được đạo đế. Trốn tránh thì suốt đời ta không giải quyết vấn đề đau khổ của ta và của người.

Chánh niệm là một loại năng lượng để thắp sáng tâm ý. Chúng ta biết trong chiều sâu tàng thức của chúng ta có hạt giống chánh niệm. Không tu tập thì hạt giống bị vùi lấp qua nhiều lớp thất niệm, khổ đau phiền não. Tu tập là chạm vào hạt giống chánh niệm để nó nở thành hoa. Ta hãy tìm cách giữ nó lại trong phòng khách của tâm hành, vì đó là một người khách quý. Người khách đó là Bụt, vì chánh niệm chính là Bụt tương lai. Nuôi dưỡng chánh niệm là làm cho Bụt ở trong ta càng ngày càng sáng tỏ. Người tu tập giỏi có thể nuôi dưỡng ngọn đèn chánh niệm thường xuyên. Ngọn đèn đó sẽ đem chiếu sáng bốn lãnh vực, đối tượng của thiền quán.

Lãnh vực thứ nhất là thân. Thân, tức là uẩn đầu tiên trong ngũ uẩn, gọi là sắc uẩn. Có một kinh chuyên trình bày sự thực tập chánh niệm về thân, gọi là kinh Thân Hành Niệm. Kinh này có trong Trung Bộ (Majjima Nikaya), và cũng có trong bộ Trung A Hàm. Chánh niệm cũng soi sáng lãnh vực thứ hai gọi là lãnh vực cảm thọ. Thọ là những cảm giác của mình, những cảm giác vui, buồn. Những cảm thọ dễ chịu, khó chịu, hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu, gọi là cảm thọ trung tính. Chánh niệm soi sáng lãnh vực thứ ba là tâm ý hay tâm hành. Bất cứ một tâm hành nào phát hiện là chánh niệm nhận diện được. Thấy tầm thì biết là tầm, thấy từ thì biết là từ, thấy tham thì biết là tham, thấy sân thì biết là sân, thấy mạn thì biết là mạn. Chánh niệm nhận diện tất cả 51 thứ tâm hành mỗi khi chúng phát hiện. Sau cùng chánh niệm soi sáng đối tượng của tâm hành, tức là các pháp. Pháp ở đây là tất cả mọi hiện tượng tâm lý cũng như vật lý, và sinh lý. Trước hết pháp là đối tượng của tưởng, tức là tri giác. Ở đây các pháp là đối tượng của tâm hành. Chúng ta soi sáng vừa chủ thể vừa đối tượng của tâm hành.

Chúng ta thường nghĩ nhầm năm uẩn là của một người này hay người kia. Phải nhớ năm uẩn không phải là một cái gì biệt lập, năm uẩn gồm cả chủ thể lẫn đối tượng. Mà đối tượng của năm uẩn bao gồm cả vũ trụ.

Người tu học dùng chánh niệm soi chiếu bốn lãnh vực thân, thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Sự soi chiếu này đưa tới tuệ giác, có công năng tháo gỡ và giải thoát cho bản thân người tu học.

東大寺 奈良 平和30年

============================

Bài thực tập: Tác ý

Joseph Goldstein

Dịch giả: Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Duy Nhiên

(Trích: Ba mươi ngày thiền quán)

Ý muốn là một yếu tố thông thường, lúc nào cũng có mặt trong tâm ta. Khi nào nó khởi lên, ta phải ghi nhận nó. Ý muốn, hay còn gọi là tác ý, là một sự thúc dục trong tâm, một dấu hiệu đi trước bất cứ một hành động nào. Khi mà ta có chánh niệm nhận diện được ý muốn hay tác ý của mình, ta sẽ có sự tự do lựa chọn: hành động hay không hành động theo chúng. Còn nếu ta sống trong quên lãng không biết đến sự có mặt của tác ý, ta sẽ bị chúng sai xử một cách máy móc.

Thí dụ, khi bạn đang ngồi thiền, trước khi bạn đứng dậy, bao giờ cũng có một tác ý muốn đứng lên. Nếu bạn ghi nhận được tác ý này, nó sanh lên rồi diệt đi, có lẽ bạn vẫn còn tiếp tục ngồi thiền. Bởi vì bạn đã có chánh niệm, ý thức được nó, chứ không cho nó là mình. Còn nếu tác ý khởi lên, nhưng vì thiếu chánh niệm, bạn sẽ thấy mình đứng lên mà chẳng nhớ vì sao. Mọi hành động khác của ta cũng vậy. Thế cho nên mỗi khi có một một tác ý nào khởi lên, như khi đổi oai nghi của thân thể giữa đi, đứng, nằm, ngồi, ta phải nhớ có chánh niệm về chúng. Trong khi đi, bao giờ ta cũng có tác ý muốn dừng lại trước khi thật sự dừng. Ta có tác ý đổi hướng trước khi quay người lại.

Chúng ta không cần phải niệm tác ý của từng bước chân một, nhưng mỗi khi đi kinh hành đến cuối đoạn đường, ta nên ghi nhận tác ý muốn đổi hướng, trước khi bắt đầu quay người lại. Bàn chân tự nó không thể cử động quay lại được. Nó quay lại bởi vì có một tác ý đi trước.

Chúng ta có thể đạt được một sự hiểu biết về lý nhân quả, giữa sự liên hệ của thân và tâm, bằng những quan sát như thế này. Ðôi khi thân là nhân mà một trạng thái của tâm là quả. Và đôi khi tâm là nhân, một cử động của thân là quả.

Một tác ý muốn quay người lại khởi lên, rồi bàn chân đưa qua. Không có một cá nhân nào ở đó hết, không có ai làm công việc quay người lại cả. Sự liên hệ giữa nhân và quả hoàn toàn có tính cách vô ngã. Nhưng bởi vì chúng ta thường không có chánh niệm về hành động của mình, không thấy rõ tiến trình của mỗi cử động, nên chúng ta sẽ dàng bị đồng hóa với nó, cho rằng có một cái “ta” làm chuyện đó.

Giả sử như bạn cảm thấy lạnh, bạn đi khoác thêm một chiếc áo ấm. Cảm giác ở thân làm khởi lên một ý muốn làm cho thân được ấm. Ý muốn này làm khởi lên một tác ý đi lấy thêm chiếc áo. Tác ý đó làm cho thân cử động. Chánh niệm được những tác ý này, sẽ giúp cho ta phát triển thêm sự hiểu biết về những liên hệ giữa các tiến trình hoạt động của thân và tâm.

Trong khi ngồi thiền bạn có thể ghi nhận được sự có mặt của tác ý trước mỗi hành động. Nếu bạn đổi thế ngồi, sẽ có một tác ý khởi lên để làm chuyện đó. Nếu bạn nuốt nước miếng, cũng sẽ có một tác ý đi trước. Nếu bạn mở mắt ra, thì cũng sẽ có tác ý muốn mở mắt xảy ra trước đó. Tất cả những tác ý này đều phải đưọc ghi nhận. Nhưng tác ý không phải bao giờ cũng là những ý nghĩ trong đầu, không phải luôn luôn là câu nói. Tác ý có nhiều khi là một sự thúc dục, một dấu hiệu báo cho ta biết có một chuyện gì sắp sửa xảy ra. Bạn không cần phải tìm kiếm tư tưởng, lời nói trong đầu. Hãy ý thức được những động lực thúc đẩy ta làm những chuyện ấy. Và một khi bạn bắt đầu ghi nhận được mối liên hệ giữa nhân và quả xảy ra trong thân và tâm, ý niệm về một cái tôi sẽ dần dà hòa tan vào dòng biến hóa giản dị và tự nhiên của các yếu tố.

参考になれば嬉しいです。

Share this:

  • X
  • LinkedIn
  • Facebook
  • More
  • Email
  • Pocket
  • Threads
  • Print
Like Loading...

Related

Từ khóa » Công Tác ý Nghĩa Là Gì