Tải 2 Mẫu Phân Tích Bình Ngô đại Cáo đoạn 4 Siêu Hay
Có thể bạn quan tâm
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.04 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Phân tích Bình Ngơ Đại Cáo đoạn 4 – mẫu 1</b>
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học ViệtNam, “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”,là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt ln uthích, tự hào.
“Bình Ngơ đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắnglợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo tồn được nềnđộc lập tự chủ, hịa bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, là người tồn tàihiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ơng có cơng lớn trong cuộckháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà vănchính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.
Tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn cónguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, cónội dung thơng báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dântộc, cơng báo trước tồn dân. Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyênbố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược.Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sửdụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến,đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân- Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước - Vốn xưng nềnvăn hiến đã lâu”.
</div><span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảovề nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh,khẳng định nền độc lập, hịa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tươnglai tươi sáng của dân tộc.
Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi đã không giấu được niềm vui chung củadân tộc, thay lời Lê Lợi trịnh trọng tuyên bố nền độc lập lâu dài:
<i>“Xã tắc từ đây vững bền</i><i>Giang sơn từ đây đổi mới</i>
<i>Kiền khôn bĩ rồi lại thái</i><i>Nhật nguyệt hối rồi lại minh”</i>
Từ đó, ta thấy được viễn cảnh huy hồng, tươi sáng của non sơng xã tắc. Hiện thựchơm nay chính là nhờ những ngày tháng đau thương của quá khứ “Mn thuở tháibình vững chắc”. Lời kết thúc “Xa gần bá cáo/ Ai nấy đều hay” đã sẻ chia sự vuimừng, niềm tự hào và niềm tin về ngày mai, về tương lai đất nước.
Bài cáo đã thể hiện thành cơng những đặc sắc về thể loại. Bên cạnh đó, giọng điệuthay đổi linh hoạt trong mỗi phần, khi cao tràn uất hận, khi hào hùng dữ dội, khi cuồncuộn như sóng triều dâng trên đề tài lịch sử – văn học đã để lại những ấn tượng sâusắc cho người đọc. Sự am hiểu hơn người của Nguyễn Trãi về lịch sử, về điển cố, điểntích đã mang lại tính thuyết phục, hấp dẫn hơn cho tác phẩm.
“Bình Ngơ đại cáo” từ khi ra đời đã được xem làm một bản tuyên ngôn độc lập củadân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc Minh vừa khẳng định được độc lập chủ quyền dântộc. Đã qua bao thăng trầm biến đổi nhưng giá trị của “Bình Ngơ đại cáo” vẫn tồn tạicho đến ngày hôm nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhàthơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.<b>2. Phân tích đoạn 4 Bình ngơ đại cáo – mẫu 2</b>
Nguyễn Trãi là một trong số những tác gia lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Namvới nhiều tác phẩm đặc sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc những tácphẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tấm lịng thương dân ái quốc,tình yêu thiên nhiên tha thiết và đặc biệt là tư tưởng thân dân. Và có thể nói “BìnhNgơ đại cáo” là tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc và trọn vẹn tư tưởng ấy củaNguyễn Trãi.
Tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo’’ ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Sau khi đánhtan giặc Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận giảng hòa và buộc quân Minhphải rút quân về nước, đất nước ta độc lập, sạch bóng quân thù. Trong hoàn cảnh lịchsử ấy, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo” hay cịn gọilà “Đại cáo Bình Ngơ” và chính thức cơng bố trước tồn thể nhân dân vào thángChạp, năm Đinh Mùi, tức là vào đầu năm 1428. Tác phẩm ra đời như một bản tuyênngôn độc lập của dân tộc ta.
</div><span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần nhưng có lẽ phổ biến hơn cả là văn biền ngẫu.Cáo là thể văn thường được vua, chúa hoặc thủ lĩnh dùng để thông báo rộng rãi tớitoàn thể mọi người một sự việc hay một vấn đề trọng đại nào đó. Cũng như nhiều thểloại văn học thời cổ khác, cáo cũng đòi hỏi kết cấu chặt chẽ, mạch lạc, lập luận sắcbén và lí lẽ thuyết phục. Và có thể nói, với những đặc điểm của thể cáo nếu trên thì“Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét nhữngđặc điểm của thể loại văn học này.
Thêm vào đó, bài cáo được chia làm bốn phần, với bố cục mạch lạc, rõ ràng.
Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, các bài thơ Hạtiệp, Đề kiếm… đều có nói đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong Bình Ngơ đại cáo, Lê Lợimới được thể hiện một cách tuyệt đẹp, tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của ĐạiViệt. Là một anh hùng của nhân dân giàu lịng u nước, ni chí lớn phục thù, phụcquốc, đã từng nhiều năm mai danh ẩn tích đón đợi thời cơ:
<i>Ta đây</i>
<i>Núi Lam Sơn dấy nghĩa.</i>
Chốn hoang dã nương mình. Con người ấy đã gắn bó với nhân dân, đã đau trong nỗiđau lầm than của dân tộc, đã “nếm mật nằm gai”, đã “đau lịng nhức óc suốt mấy chụcnăm trời”, quyết khơng đội trời chung với giặc:
<i>Ngẫm thù lớn há đội trời chung,</i>
Căm giặc nước thề không cùng sống. Con người ấy tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam, cómột nhãn quan lịch sử nhìn suốt thời gian và nắm chắc vận mệnh dân tộc:
<i>Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,</i><i>Ngẫm trước đến nay: lẽ hưng phế đắn do càng kỹ.</i>
<i>Những trằn trọc trong cơn mộng mị,</i>
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Ngày đầu khởi nghĩa, quân khơng q 2.000 người, cólúc “cơm ăn thì sớm tối khơng được hai bữa, áo mặc thì đơng hè chỉ có một manh…khí giới thì thật tay khơng” (Qn trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc vôcùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khởi nghĩa dấy lên – Chính lúc qn thù đang mạnh”.Khó khăn, thử thách chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất là thiếu nhân tài hào kiệt:
<i>Tuấn kiệt như sao buổi sớm,</i><i>Nhân tài như lá mùa thu.</i><i>Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,</i>
Nơi duy ác thiếu người bàn bạc. Người anh hùng áo vải Lam Sơn, một mặt “Cỗ xecầu hiển, thường chăm chắm cịn dành phía tả”, mặt khác nêu cao quyết tâm “gắngchí phục thù gian nan”, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, đoàn kết toàn dân để đánhgiặc:
</div><span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>Tướng sĩ một lịng phụ tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào. Sức mạnh của nghĩaquân bắt nguồn từ sức mạnh vô tận của nhân dân, của lực lượng đơng đảo “manh lệchi đồ tứ tập”, của đồn nghĩa sĩ “phụ tử chi binh nhất tâm”. Điều đó cho thấy cuộckhởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân do người anh hùng áo vải lãnhđạo. Sức mạnh của nhân dân, tài năng xuất chúng của lãnh tụ là nguồn gốc của chiếnthắng. Người anh hùng ấy là một thiên tài quân sự “sách lược thao suy xét đã tinh…lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”. Người anh hùng ấy đã phát huy tinh hoa nền quân sựViệt Nam, để chỉ đạo chiến tranh, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của tướng sĩđể chiến đấu và chiến thắng:
<i>Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,</i>
Dùng qn mai phục, lấy ít địch nhiều. Có thể nói, cảm xúc trữ tình trong Bình Ngơđại cáo được thể hiện qua hình ảnh Lê Lợi, người anh hùng nghĩa quân Lam Sơn. LêLợi vừa bình dị, vừa vĩ đại, vị cứu tinh của đất nước xuất hiện và nếm trải bao cayđắng lầm than cùng nhân dân, từ máu đổ xương tan mà “nên công oanh liệt ngànnăm”. Nguyễn Trãi đã có sự nhập thân, hóa thân kì diệu khi thể hiện tài trí, khí pháchvà tầm vóc vĩ đại của Lê lợi, một mặt nêu cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền vănhiến Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện nhân cách, chí hướng, tài trí và tâm huyết củamình. Với cảm hứng anh hùng và cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câuvăn, đoạn văn đẹp nhất khi khắc họa hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn.
Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo nói về diễn biến cuộc đấu tranh vũ trang vàq trình phản cơng của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sựchiến trường mang giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, ấy là đạinghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát giặc Minh hung tàn, cường bạo. Lời vănsang sảng cất lên:
<i>Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,</i>
Lấy chí nhân để thay cường bạo. Có vượt qua những thử thách nặng nề “Khi LinhSơn lương hết mấy tuần – Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mớitrưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn.Chiến công nối tiếp chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, như “sấm vangchớp giật” giáng xuống đầu quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùngrợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc chất cao như núi:
<i>Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm,</i>
Tụy Đông thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Trên đà chiến thắng “Sĩ khí đã hăng –Quân thanh càng mạnh’’, nghĩa qn tiến cơng trên quy mơ rộng lớn, giải phóngnhững vùng chiến lược quan trọng: “Tây Kinh quân ta chiếm lại… Đông Đô đất cũthu về”. Giặc đã thảm bại “trí cùng lực kiệt”, lũ tướng Thiên triều, đứa thì “nghe hơimà mất vía”, thằng thì “nín thở cầu thốt thân”, Trần Hiệp “phải bêu đầu”, Lý Lượng“đành bỏ mạng”.
</div><span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>giặc vào tử địa. Liễu Thăng cụt đầu, Lương Minh đại bại tử vong, thượng thư LýKhánh cùng kế tự vẫn. Hành chục vạn giặc bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:
<i>Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,</i>
Xương Giang, Bình Than, máu trơi đỏ nước. Đạo qn Vân Nam bị quân ta chặn đánhở Lê Hoa “nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, quân Mộc Thạnh đại bại ở Cần Trạm “xéolên nhau chạy để thoát thân”. Sông suối bao la một vùng biên giới tây bắc ngập đầymáu giặc:
<i>Suối Lãnh Cáu, máu chảy trôi chày, nước sơng nghẹn ngào tiếng khóc</i>
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Đây là tướng sĩ củanghĩa quân Lam Sơn: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.“ Và đây là hìnhảnh bọn tướng tá Thiên triều trong tình hình “quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng”:
<i>Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,</i>
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Bình Ngơ đại cáo là một bản tổng kếtchiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơntừ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những chặng đường máu lửa,trưởng thành trong thử thách hy sinh, giành thế chủ động chiến lược, tiến lên đánh bạihoàn toàn quân xâm lược. Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biếnhố, lúc ghi lại hình ảnh thảm bại, thảm hoạ của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêutả cảnh chiến trường rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập được tác giả vận dụng sángtạo để làm nổi bật giữa ta và địch, chính nghĩa và phi nghĩa, đại thắng và đại bại…Cách dùng từ, sáng tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy mộtbút pháp nghệ thuật kỳ tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. Bình ngơ đại cáo là khúc cathắng trận vô cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:
<i>Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,</i><i>Voi uống nước, nước sông phải cạn.</i><i>Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,</i>
Đánh hai trận, tan tác chim mng… Qua Bình Ngơ đại cáo, ta thấy Lê Lợi là mộtnhà chiến lược vĩ đại đã biết phát động chiến tranh khi thời cơ đã chín mùi, khi mà tộiác quân cuồng Minh “Lẽ nào trời đất dung tha – Ai bảo thần dân chịu được? Trải quabao năm tháng! Lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”, “Sách lược thao suy xét đã tinh”, LêLợi mới phất cờ khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có tài chỉ đạo chiếntranh đánh cho lũ giặc Minh đại bại:
<i>Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,</i>
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng. Chính trong điều kiện chiến trườngđó, Lê Lợi đã kết thúc chiến tranh, đã “mở đường hiếu sinh” trao trả cho nhà Minhhàng chục vạn tù binh:
</div><span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Khởi nghĩa để “trừ bạo” và “yên dân”,kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ “toàn quân”, “để nhân dân nghỉsức”. Nguyễn Trãi với niềm tự hào chiến thắng đã ca ngợi “đại nghĩa” và “chí nhân”của dân tộc ta. Đại Việt là một nước văn hiến lâu đời, rất nhân đạo và u chuộng hồbình.
Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn vang lên hướng về ngày mai tươi sángcủa Đại Việt – một nước văn hiến:
<i>Xã tắc từ đây vững bền,</i><i>Giang sơn từ đây đổi mới</i>
<i>Càn khôn bĩ mà lại thái</i><i>Nhật nguyệt hối mà lại minh</i>
Muôn thuở nền thái bình vững chắc. Như một quy luật tất yếu: “bí mà lại thái”, “hốimà lại minh”, đất nước ta sau 20 năm trời bị quân cuồng Minh “dối trời, lừa dân…,gây binh kết ốn” nay đã sạch bóng qn xâm lược, “ngàn năm vết nhục nhã sạchlàu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập, hồ bình, thịnh vượngtrong “vững bền”, hướng về “đổi mới”, và “vững chắc” đến muôn đời. Giọng vănđĩnh đạc hào hùng, đầy tự hào tin tưởng, thể hiện khát vọng hịa bình, độc lập và hạnhphúc của nhân dân ta. Sự nghiệp ‘‘Bình Ngơ” mà đại thắng là nhờ sức mạnh chínhnghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là nguồngốc, là nguyên nhân sâu xa làm nên chiến thắng. Sự nghiệp “bình Ngơ“là trang sửvàng chói lọi, là “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm…”Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là một mưu sĩ “tâm công” cánh tay phải đắc lực củaLê Lợi, là người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” (Lê Quý Đôn). Thư từgửi tướng tá giặc Minh của ơng “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phan Huy Chú).Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “bình Ngơ” là người đã thảo ra BìnhNgơ đại cáo, bản tun ngơn độc lập, hịa bình của Đại Việt trong thế kỉ XV.
</div><!--links-->Từ khóa » Thuyết Minh đoạn 4 Bình Ngô đại Cáo Lớp 10
-
Thuyết Minh Bình Ngô Đại Cáo (11 Mẫu) - Văn 10
-
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 ❤️️12 Bài Văn Hay Nhất
-
2 Mẫu Phân Tích Bình Ngô đại Cáo đoạn 4 Siêu Hay
-
Phân Tích đoạn 4 Bình Ngô đại Cáo - Thủ Thuật
-
Thuyết Minh đoạn 4 Bài Bình Ngô Đại Cáo - Ngữ Văn Lớp 10
-
Phân Tích đoạn 4 Bình Ngô đại Cáo (10 Mẫu)
-
Tuyên Bố Kết Thúc Chiến Tranh, Rút Ra Bài Học Lịch Sử Trong "Bình Ngô ...
-
Phân Tích 4 đoạn Văn Của Bài Bình Ngô đại Cáo (mỗi đoạn Có 1 Kết Bài)
-
Viết đoạn Văn Thuyết Minh Về đoạn 4 Tác Phẩm Đại Cáo Bình Ngô ...
-
Phân Tích đoạn 4 Bình Ngô đại Cáo - Thư Viện Hỏi Đáp
-
Nội Dung đoạn 1 Bình Ngô đại Cáo Hay Nhất - TopLoigiai
-
Kết Bài Bình Ngô đại Cáo đoạn 1 Hay Nhất - TopLoigiai
-
Thuyết Minh Bình Ngô đại Cáo: Bài Văn Mẫu Và Dàn ý Chi Tiết- Văn 10
-
Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo (Dàn ý + 5 Mẫu)