Tài Liệu Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Ppt - 123doc
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Giáo Dục - Đào Tạo >>
- Cao đẳng - Đại học
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.31 KB, 17 trang )
Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCHA. TỔNG- “Việt Bắc” là tên gọi khu căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho tới chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Bắc là thủ đô của kháng chiến, của cách mạng được 15 năm. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miềnBắc được giải phóng, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ đã chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội (10/1954).- Bài thơ “Việt Bắc” được Tố Hữu sáng tác trong bối cảnh chia tay với Việt Bắc đầy lưu luyến như thế. Bài thơ dài 150 câu thơ lục bát. Những lời đối đáp mình – ta, ta – mình, kẻ ở - người đi, người dân căn cứ địa cách mạng –người kháng chiến trở về Hà Nội. Tình cảm chia tay ấy được diễn tả dưới hình thức đối đáp của nam nữ trong ca dao dân ca tình yêu, tạo nên chất trữtình đằm thắm. Cấu tứ của bài thơ dựa trên sự đối đáp này cho thấy rõ một đặc trưng của thơ Tố Hữu – thơ trữ tình chính trị. Nhà thơ viết về một đề tàicách mạng khô khan, rất khó cho thơ nhưng đã chọn cách chuyển tải bằng hình thức đối đáp nam nữ nên tác phẩm vẫn cứ hấp dẫn. Hình thức đối đáp qua thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, những cách nói của văn học dân gian tạoấn tượng tính dân tộc sâu đậm của bài thơ.B. PHÂN1. Tâm trạng chia li:- Bài thơ mở ra một cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, bịnrịn, lưu luyến của kẻ ở người đi – hai người đã từng gắn bó sâu nặng bền lâu qua 15 năm. (dẫn chứng: khổ 1). Người ra đi cũng một tâm trạng ấy( dẫn chứng: khổ 2). Đối đáp trở thành một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra hô ứng, đồng vọng trong tình cảm của người ở và người về.- Người ở lại gợi kỉ niệm gắn bó, đầy ân tình. Cũng vẫn dưới dạng câu hỏi nhưng đã gợi cụ thể hơn về thời gian, không gian của những của những kỉ niệm (dẫn chứng: khổ 3)-> Lời hỏi của Việt Bắc đã khơi dậy, làm tuôn trào cả một bầu kỉ niệm đầy tình nghĩa người ra đi, với bao nhiêu hình ảnh, sự việc chất chứa của một thời không thể quên. Nếu là lời hỏi chỉ nhằm khơi gợi, thì lời đáp lại dào dạt, dồn dập như một dòng cảm xúc tuôn trào. 2. Nỗi nhớ thiên nhiên, con người, cuộc sống Việt Bắc và những kỉ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.- Bao trùm là nỗi nhớ da diết, mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau (trong 90 câu có 35 từ “nhớ”).- Trong hoài niệm bao trùm có 3 mảng thống nhất, hòa nhập, không tách rời, đó là nỗi nhớ thiên nhiên, nỗi nhớ con người, cuộc sống Việt Bắc và những kỉ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian vàkhông gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều, trăng khuya, trong bốn mùa thay đổi và mùa nào cũng có những vẻ đẹp riêng.+ Thiên nhiên thơ mộng:“trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương,…bản khói cùng sương,…”+ Thiên nhiên hùng tráng, lớn lao, vững chai cùng với con người trong cuộcchiến đấu “ Núi giăng thành lũy….chiến khu một lòng”.- Nhớ thiên nhiên gắn liền với nỗi nhớ con người. Đó là hình ảnh con người với cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày, cũng như hoạt động trong kháng chiến đã làm cho thiên nhiên không còn vắng vẻ hiu quạnh, mà thêm tươi sáng, ấm áp, mạnh mẽ sức sống “Rừng xanh hoa chuối….ân tình thủy chung” (bình, phân tích cụ thể khổ thơ này).- Cuộc sống con người:+ Thanh bình êm ả (“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều…suối xa”)+ Nghèo khó cơ cực (“Bát cơm sẻ nửa…bắp ngô”)+ Nghĩa tình của con người, sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ.- Nỗi nhớ về căn cứ địa Việt Bắc:+ Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, là thủ đô kháng chiến. Ngày chia tay, người ở lại nhắc về những sự kiện nay đã thành kỉ niệm.“ Mình về có nhớ núi non…mái đình, cây đa”.- Người về, như để cam đoan lòng mình sẽ chẳng bao giờ phai mờ những kỉ niệm, cũng nhớ, đắm chìm vào mạch hồi tưởng về những tháng ngày chiến đấu gian khổ:“Nhớ khi giặc đến ….quân thù”. Đó còn là những chiến công hiển hách của quân dân ta trên vùng rừng núi Việt Bắc:“Những đường Việt Bắc ….muôn tàn lửa bay”.- Nỗi nhớ về Đảng, Chính phủ và Bác Hồ. Từ Việt Bắc, như từ trái tim, đầu não, các chủ trương đường lối của trung ương Đảng và Chính phủ tỏa đi khắp nước, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng:“ Điều quân chiến dịch thu đông…các khu”Việt Bắc là niềm hi vọng, niềm mong đợi của cả dân tộc vì nơi đây Bác Hồ và Chính phủ cách mạng đã sống, làm việc:“Ở đâu u ám … mà nuôi chí bền”.C. Hợp- Nội dung: bài thơ là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người Việt Bắc.- Nghệ thuật: thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian, cách sử dụng các địa danh, =>Tính dân tộc hết sức đậm đà, thuần nhụy.BÀI THAM KHẢOBài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân - tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc.Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồiức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đápquen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc vời vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc - tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệm : Nhớ gì như nhớ người yêu …………………. Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình :Ta về, mình có nhớ ta …………………… Nhớ ai Tiếng hất ân tình thuỷ chungCó thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phongphú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa.Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng, .Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “hắthiu lau xám, đậm đà lòng son”, là hình ảnh người mẹ trong cái “nắng cháy lưng- Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”, là những tháng ngày đồng cam cộng khổ : Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng, Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt độngtấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện dại, bởi vì chỉ cần phác hoạ khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do :Những đường Việt Bắc của ta ……………………………. Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.Dân tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kìtích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sôngLô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh của tình nghĩa thuỷchung: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạothành hình ảnh đất nước đứng lên :Nhớ khi giặc đến giặc lùng ………………………… Đất trời ta cả chiến khu một lòng.Đặc biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suốt lũ, những mây cùng mù )đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc :Mình về,còn nhờ núi non ……………………… Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giảndị mà thắm thiết nghĩa tình :Ở đâu đau đớn giống nòi ………………………. Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà . Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến.Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụngnhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư:Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng măng mai để già; …Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động giao thông mở đường, Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày;Nắng trưa rực rỡ sao tràng; và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu: Chày đêm nện cối đều đều suối xa; Đêm đêm rầm rập như là đất rung; Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian: Mình về, mình có nhớ ta; Mình về, có nhớ chiến khu; Nhớ sao lớp học i tờ; Nhớ sao ngày tháng cơ quan,; Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều, tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ chung.Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tựhào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu . Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ điều đó .I.Mở bài Tố Hữu ( 1920-2002) được đánh giá là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình - chính trị sâu sắc, đậm đà tính dân tộc. Rất tiêu biểu cho những tìm tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc. Bài thơ ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng, đồng thời thể hiện tình nghĩa thủy chung giữa người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc.II . Thân bài .1 . Giới thiệu chung hoàn cảnh, đặc điểm nội dung, hình thức bài thơ . - Việt Bắc được Tố hữu sáng tác vào tháng 10-1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũnglà một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó .- Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Đây là cuộc chia tay củanhững người từng sống gắn bó suốt “ mười lăm năm ấy”, có biết bao kỉ niệmân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng, ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.- Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.2. Phân tich đoạn trích Việt Bắc .a.Vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật tươiđẹp, thơ mộng:“ Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khua bếp lửa người thương đi vềNhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”Nỗi nhớ tha thiết của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa thơ mộng, thi vị, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Đó là mùa đông với “ rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, mùa xuân với “mơ nở trắng rừng”, mùa hè với “Ve kêu rừng phách đổ vàng”, mùa thu với “trăng rọi hoàbình”. Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng,phong phú sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa .Chỉ những người đã từng sống ở Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya , những núi rừng, sông suối mang những cái tên thân thuộc. Tất cả là khoảng thời gian, không gian lung linh kỉ niệm.Vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên ấy còn khắc sâu trong tâm trí người về xuôi bởi sự gắn bó, hoà quyện với sinh hoạt của con người. Xúc động biết mấy khi hồi tưởng lại cảnh “từng bản khói cùng sương – Sớm khuya bếp lửangười thương đi về”, hay cảnh “tiếng mõ rừng chiều – Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.* Vẻ đẹp con người nghĩa tình Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh và người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân ViệtBắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:“Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐềo cao nắng ánh dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”Gắn bó với từng khung cảnh thiên nhiên là hình ảnh những con người bình dị: người đi làm rẫy , người đan nón, người hái măng … Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến.Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề,khó khăn, nghĩa tình chung thuỷ tất cả càng làm Việt Bắc ngời sáng trong tâm trí nhà thơ.Nhớ người dân Việt Bắc là nhớ những con người sống trong những mái nhà “hắt hiu lau xám” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”, nhớ người mẹ trong cái nắng cháy lưng “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, nhớ những tháng ngày đồng cam cộng khổ “Thương nhau chia củ sắn lùi-Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, “Nhớ khi giặc đến giặc lùng – Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” hay những người dân chiến khu cùng chung “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Người dân Việt Bắc là những người “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, là những người mà “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”.Âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, đất nước, yêu đờib .Khung cảnh Việt Bắc chiến đấu Theo dòng hồi tưởng của nhà thơ, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập náo nức.Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những con đường rừng Việt Bắc bỗng sống dậy với âm thanh rầm rập như là đất rung, với ấnh sáng chói rực của những đoàn xe vận tải, với ánh đuốc đỏ rực của từng đoàn dân công, với ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan của trùng trùng những đoàn quân hành quân ra trận.Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ của một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác hoạ khung cảnh hùng tráng ở Việt bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập tự do:“ Những đường Việt Bắc của ta…………………………….Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”Dân tộc ta đã vượt bao thiếu thốn, gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,…Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”, sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên:“Núi giăng thành luỹ sắt dàyRừng che bộ đội, rừng vây quân thù”Đặc biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin,hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.Trong những năm tháng đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “ Mưa nguồn sối lũ những mây cùng mù”, đến một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc:“Mình về còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”Trong những ngày kháng chiến, Việt Bắc có cụ Hồ sáng soi, có Trung ương,Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết tình nghĩa:“Ở đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt bắc mà nuôi chí bềnMười lăm năm ấy ai quênQuê hương cách mạng dựng lên Cộng hoà “c. Nghệ thuật đậm đà tính dân tộc Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm đậm đà tính dân tộc. Tính dân tộc thể hiện ở việc Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống:Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật mình-ta, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thơ uyển chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thấm sâu vào tâm tư :“Mình về rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng / măng mai để già”“Điều quân chiến dịch thu dôngNông thôn phát động / giao thông mở đường”Về ngôn ngữ, thơ Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa .Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày, Nắng trưa rực rỡ saovàng; đó còn là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu: “Chày đêm nện cối đều đều suối xa, đêm đêm rầm rập như là đất rung …Đặc biệt , thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian: Mình về, Mình có nhớ ta, Mình về mình nhớ chiến khu, Nhớ sao lớp học i tờ, Nhớ sao ngày tháng cơ quan, Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều …tất cả tạo nên một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ chungIII . KB“Việt Bắc” là khúc hùng ca và khúc tình ca về cách mạng , về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến . Thể thơ lục bát , kiểu kết cấu đối đáp , ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian , tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất , ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, của con người Việt nam.Bình giảng 20 dòng đầu của bài thơ "Việt Bắc"Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca hiện đại. “Ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tởng cộng sản”.Tập thơ “Việt Bắc”, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu hàng đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” đợc coi là kết tinh sở trờng nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu. Đó là khúc hát ân tình của ngời kháng chiến đối với quê hương, đất nước với nhân dân cáchmạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõilà truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc. Được coi là người sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị, thơ Tố Hữu luôn bám sát các sự kiện cách mạng. Men theo năm tháng những bài thơ của Tố Hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đường hào hùng của cách mạng Việt Nam. Thơ ông quả là “cuốn biên niên sử bằng thơ” như có nhà nghiên cứu đã đánh giá. “Việt Bắc” không phải là ngoại lệ. Tháng 7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoà bình được lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, một trang sử mới mở ra cho đất nước. Tháng 10/1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. Trong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “Việt Bắc” đã ra đời. “Việt Bắc” không còn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà còn tiêu biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách mạng, với đất nước, với nhân dân. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách “Tâm tình hoá, là một đặc trng của lối thơtrữ tình chính trị Tố Hữu. 20 câu thơ đầu tiên của “Việt Bắc” thể hiện rất rõ đặc trưng nghệ thuật này. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ ngọt ngào: Mình về mình có nhớ ta Mời năm năm ấy thiết tha mặn nồng. Câu thơ mở ra cảnh giã biệt, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ tình dạt dào. Cảnh giã biệt vẫn quen thuộc trong thơ ca dân gian và cổ điển truyền thống đã được Tố Hữu khéo vận dụng để diễn tả tâm trạng mang tínhthời đại. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng, Chính phủ với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái: người ở lại rừng núi chiến khu làcô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Chuyện chung đã hoá thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi, cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến giữa những người đã từng gắn bó sâu nặng dài lâu: “Mười lăm năm” “thiết tha mặn nồng” được Tố Hữu thể hiện bằng một thể thơ giàu tính dân tộc. Thể lục bát, cách kết cấu đối đáp, sử dụng đại từ nhânxưng “Mình”, “Ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, có khả năng “biểu hiện một cách thuận tiện, phù hợp với điệu hồn chung của cộng đồng người Việt” “Rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng Việt”. Tất cả những yếu tố đó đã diễn tả thật xúc động tình cảm quyến luyến thiết tha trong một cuộc chia tay đặc biệt: chưa xa đã nhớ, để chia mà không xa, cách mà không biệt. Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ, riêng tư. Nhưng đến: “Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”thì không còn là chuyện của tình yêu lứa đôi mà đã là chuyện ân nghĩa thủy chung của đạo lý dân tộc. Câu thơ lục bát điệp hai lần từ “mình” nghe như lối tâm tình thương mến mà day dứt. Băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay là ân tình thủy chung. Cái độc đáo ở chỗ: một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian. Chỉ một khổ thơ đã gói gọn một thời cách mạng, một trời cách mạng. Tác giả đã chọn tình yêu một đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc với “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” Từ thuở cách mạng còn trứng nước đến khi trưởng thành vững vàng đó là điểm nhìn nghệ thuật rất Tố Hữu- người thi sĩ luôn khơi nguồn cảm hứng từ những sự kiện lớn của cách mạng. Tiếp theo câu hỏi của ngời ở là tiếng lòng của người đi:Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nayNgười đi đã nghe câu hỏi, lòng tràn đầy bâng khuâng “bồn chồn” một tình cảm thương nhớ “thiết tha”. Tâm trạng lúc chia tay được diễn tả thật đắt qua sự luyến láy của ngôn từ và cả ở nhạc điệu của câu thơ: Hai câu đầu là nhịp 2/2 hối hoàn của lục bát đến đây đã vặn mình chuyển điệu 3/3: “Áo chàm đưa/ buổi phân ly Cầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay" Cái xao xuyến bồi hồi của lòng người đã cồn cào nổi sóng trên câu thơ thể hiện cách thần tình chút ngập ngừng chứa chan tình thương mến, tạo ra mộtkhoảng lặng đầy biểu cảm để chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập, tha thiết hơn. Mười hai câu lục bát còn lại là lời của người ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi như khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi câu hỏi đều gợi lại những gì tiêu biểu nhất của Việt Bắc qua những hình ảnh chọn lọc gợi cảm: Mưa nguồn, suối lũ, mây mù, Những hình ảnh chọn lọc vừa chân thực vừa thơ mộng; “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” Những câu thơ có khả năng diễn biến những kháiniệm trừu tợng thành hình ảnh đầy cảm giác sống động cụ thể “mối thù nặng vai”. Nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên sự sống động cho hình ảnh thơ: “Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già” Tình cảm của ngời ở đối với ngời đi xem ra đợc thể hiện sâu kín hơn cả trong câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa đựng biết bao quyến luyến nhớ thương: Người đi rồi cả một miền rừng trở nên hoang vắng, trám không người nhặt, măng không ai hái, cả núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. Như một thông lệ trong cuộc chia tay giữa những người thân thiết, người ta thường đẩy thời gian về quá khứ để chưa xa đã nhớ, chưa biệt đã thương. Để trên nền xúc cảm này, dòng hồi tởng những kỉ niệm thân thương ùa về mãnh liệt. “Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” Nhìn thoáng qua, tổ chức các câu thơ đều lặp lại ở phép láy đầu 6 câu: Mình đi, mình về. “Đi”, “Về” vốn ngợc chiều trái hướng, song ở đây lại đồng nhất một phương . Phải chăng niềm tin giản dị mà rất thực của cả người đi và người ở đã thổi vào câu chữ, làm nên chút choáng ngợp bối rối của ngôn từ, thể hiện mạch ngầm văn bản trong chiều sâu thơ ca: Ra đi để hẹn về. Việt Bắc đã trở thành quê hương thứ hai của ngời cán bộ kháng chiến. Những kỷ niệm được gợi nhớ đều là những kỷ niệm của cuộc sống chung, tình cán bộ với nhân dân chia ngọt sẻ bùi, chung gian lao, chung mối thù Nếu không khéo rất dễ sa vào cái gọi là “liệt kê kỉ niệm” câu thơ sẽ trôi tuộtđi, không thể lưu đọng lại trong lòng người đọc. Cái làm nên chất thơ của bài “Việt Bắc” cũng như của đoạn thơ này chính là nhạc điệu. Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù Miếng cơm / mối thùTrám / măng Hắt / sonNhớ / mình Tân / đaNhững hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thểtách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc: “Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ ngời về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son. “Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “Mình” trong tiếng Việt. “Mình” vừa là bản thân vừa là ta, “Mình” cũng là ngời thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến “Việt Bắc” cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn củakẻ ở người đi. Sự đổi chỗ trong tổ chức câu thơ: “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được viết thành: “Tân trào Hồng Thái mái đình cây đa” chứng tỏ tên riêng và danh từ chung đều đã đồng nhất hoàn toàn về ý nghĩa -Việt Bắc quê hương cách mạng. Nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc “Tân Trào, Hồng Thái”, đã chuyển hoá thành nỗi nhớ quê hương “Mái đình cây đa” những hình ảnhđã đi vào tâm thức người Việt từ ngàn đời. “Trong thơ Tố Hữu, cái riêng, cái chung như không còn ranh giới, cái cũ cái mới lồng vào nhau, (Nguyễn Văn Hạnh) mà đây là một trờng hợp điển hình.“Việt Bắc” là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách thơ của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp Tố Hữu tâm sự rằng: “mình phải lòng đất nước và nhân dân của mình. Và đã nói về đất nước về nhân dân như nói về người mình yêu”. Cho nên tình yêu biến thành tình nghĩa “Việt Bắc” đã trở thành tiếng hát ân tình chung của những ngườikháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ. Có thể khẳng định rằng đoạn thơ trên là những câu thơ hay nhất của bài thơ“Việt Bắc”.
Tài liệu liên quan
- Tài liệu Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu docx
- 8
- 16
- 299
- Tài liệu Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ppt
- 17
- 18
- 173
- Tài liệu Phân tích bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu pot
- 9
- 17
- 277
- Tài liệu Phân tích bài thơ Việt Bắc pdf
- 7
- 4
- 136
- Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu VIỆT BẮC (Trích) pptx
- 8
- 5
- 91
- Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - văn mẫu
- 4
- 10
- 109
- Phân tích bài thơ việt bắc của tố hữu
- 4
- 2
- 14
- Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu_bài 1
- 3
- 498
- 0
- Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
- 28
- 1
- 0
- Phân tích bài thơ việt bắc của tố hữu (theo từng đoạn)
- 9
- 1
- 18
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(130 KB - 17 trang) - Tài liệu Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ppt Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Việt Bắc Ppt
-
Tuần 9. Việt Bắc (trích - Tiếp Theo) - - Thư Viện Bài Giảng điện Tử
-
Tuần 8. Việt Bắc (trích) - Ngữ Văn 12 - Nguyễn Thị Vân
-
Bài Giảng Ngữ Văn 12 Tuần 9: Việt Bắc (Phần Hai: Tác Phẩm)
-
Bài Giảng Môn Ngữ Văn 12 - Việt Bắc Của Tố Hữu
-
Việt Bắc (Tác Giả).ppt (Bài Giảng Ngữ Văn 12 Tuần 8) | Tải Miễn Phí
-
NGỮ VĂN 12: VIỆT BẮC (PHẦN TÁC PHẨM) | Facebook
-
Bài Giảng Môn Ngữ Văn 12 - Việt Bắc (Tố Hữu)
-
Chiến Dịch Việt Bắc By Anh Duong Tran - Prezi
-
VIỆT BẮC - SlideShare
-
Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Ppt - Tài Liệu Text - 123doc
-
Việt Bắc - Tố Hữu Phần 2: Tác Phẩm - Ngữ Văn 12 - HOC247
-
Bài Giảng Ngữ Văn Lớp 12 - Tuần 8: Đọc Văn: Việt Bắc (Tố Hữu)