Tài Liệu Thi Mầm Non | Xemtailieu

logo xemtailieu Xemtailieu Tải về Tài liệu thi mầm non
  • docx
  • 22 trang
Câu 1: Phân tích một trong những truyện dân gian sau: Thánh gióng, cây khế, tấm cám? Phân tích một trong những bài đồng giao sau: cái bống là cái bống bang, con chim chích choè? Trả lời TRUYỆN THÁNH GIÓNG 1. CHỦ ĐỀ VÀ KẾT CẤU CỐT TRUYỆN Chúng ta biết rằng, với chủ đề đánh giặc cứu nước , truyện Thánh Gióng nằm trong hệ thống truyện dân gian thời Hùng Vương dựng nước. Chủ đề chống ngoại xâm là một chủ đề quan trọng bên cạnh chủ đề chống thiên nhiên. Từ truyện Thánh Gióng mở đầu cho truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, toát lên tinh tinh thần chủ đạo của dân tộc ta, toát lên bản lĩnh của dân tộc ta ngay từ buổi đầu dựng nước, đó là ý thức mãnh liệt về đọc lập, tự do và truyền thống đấu tranh bất khuất. Kết cấu của câu chuyện cũng thể hiện ý thức mãnh liệt và truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc. Bố cục của truuyện có thể chia thành 3 phần: 1. Với ý thức cảnh giác cao, Hùng vương chuẩn bị chu đáo để đối phó với giặc 2. Với chủ trương cầu hiền và đoàn kết dân tộc, Hùng vương được Thánh Gióng giúp sức đã đánh giặc thắng lợi 3. Hùng vương và toàn dân ghi nhớ công ơn của Thánh Gióng 2. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TRUYỆN a. Truyện Thánh Gióng đánh dấu một mốc trưởng thành của dân tộc ta thời Hùng vương dựng nước Trong trận tuyết giao tranh, truyện chia ra hai phe: Quân giặc và quân ta Quân ta không chỉ đơn thuần có Gióng ra trận và có cả một tổ chức có tính hệ thống. Đứng đầu nhà nước là Hùng vương, rồi các quan, sứ giả làm nhiệm vụ thông tin... Thánh Gióng được cử làm tướng, đi theo ông có hàng trăm người khác (Vùng Bắc Ninh có hệ thống nhân vật anh hùng đi theo Gióng) Truyện đã thể hiện ý thức bảo vệ độc lập , tự do và bài học cảnh giác về đánh giặc giữ nước. Ngay phần mở đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó. Câu mở đầu: Hùng vương cậy nước mình giầu mạnh mà chểnh mảng việc chầu phương Bắc. Vua nhà Ân mượn có tuần thú, sang xâm lược nước ta...” Điều đó chứng tỏ thời đại Hùng vương, nước ta có một nền văn minh phát triển, giàu mạnh, có ý thức về độc lập dân tộc, muốn thoát khỏi sự lệ thuộc, thần phục vào phong kiến phương Bắc. Đó là sự khởi đầu cho truyền thống tự lực, tự cường của dân tộc trong các thời đại sau. Đến khi có sự xâm lược của quân giặc, Hùng vương hỏi ý kiến quần thần, có người phương sĩ bảo: nên lập đền thờ cầu Long quân giúp. Hiện thân của Long quân là cụ già xuất hiện bảo vua hãy chuẩn bị binh sĩm khí giới và tìm người tài giúp đỡ. Hùng vương đã có 3 năm sửa soạn binh khí: Truyền cho dã tượng các nơi Bễ than lò đắp, ngất trời lửa nung Ba năm cục chính dã công Một tuần luyện đúc ngựac cùng việt bay... (Thiên Nam ngữ lục) Truyện đã thể hiện sức mạnh phi thường và tinh thần quật khởi vô song của dân tộc Ba năm chuẩn bị sức người, sức của nói trên là ba năm hun đúc cho sự hùng mạnh và tinh thần quật khởi dân tộc ta tạo thành một lực lượng vô địch, có thể đập tan quân giặc trong một thời gian ngắn. Sức mạnh phi thường và khí thế tiến công thần tốc của dân tộc ta thể hiện qua nhân vật Gióng. Từ Gióng có nhiều cách hiểu và cách viết. Thông thường viết gi, trong truyện có liên quan đến việc Gióng nằm trên gióng sắt, cho nên dịch tên ông là Thiết đổng, Thiết xung thần tướng. Tên của Gióng có liên quan đến việc sử dụng vũ khí của ông: Ngựa, roi, mũ, áo sắt... Cho nên Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Thánh Gióng tiêu biểu cho sức mạnh đang lên của người dân lao động Việt Nam vào thời mới có sắt. Sức mạng ấy đã diễn ra một cách hùng vĩ nhất trong lịch sử nước ta, ở việc dùng vũ khí bằng sắt chống xâm lăng” Sự lớn mạnh phi thường của dân tộc ta biểu hiện qua hình tượng Gióng là tinh thần quật khởi của tổ tiên ta được hun đúc, tôi luyện qua hàng nghìn năm lịch sử. Sự hùng mạnh của Gióng cũng là sự hùng mạnh phi thường của toàn thể lực lượng nhân dân: Vẹn toàn sau trước hoàn thành Cắt quan đệ vệ đem binh hộ trì Mười muôn tượng, mã trẩy đi Kim tiền, thiết kị đem về Tiên Du... Nháy mắt, Gióng đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân theo sau, tiết sát đồn giặc”. Đó là cuộc tiến công thần tốc, tấn công áp đảo quân thù. “Gióng vươn vai đứng dậy cao hơn mười thước, hắt hơi liền mấy tiếng, rút gươm thét lớn: Ta là Thiên tướng đây! Rồi độ nón, cưỡi ngựa. Ngựa hí vang chồm lên phi như bay... Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào thì đều la hét, kêu lậy Thiên tướng, đến hàng phục... b/Gióng là một dạng anh hùng ca của Việt Nam Gióng là nhân vật trung tâm của truyện, mang tính cách anh hùng từ lúc sinh đến lúc hoá thân. Môtíp ra đời của Gióng là sự ra đời kì lạ. Bà mẹ Gióng ướm chân vào vết chân khổng lồ, về nhà mang thai sinh ra Gióng. Đó là hình thức giao tiếp kì lạ giữa thần linh và con người, phản ánh ngùôn gốc kì ảo của nhân vật. Chi tiết đó mang tính dự báo về cuộc đời và chiến công kì lạ của nhân vật ở chặng sau. Nguồn gốc kì ảo là tiền đền cho việc nhân vật có chiến công và kì tích phi thường. Môtíp sự hoá thân của Gióng: Cuối truyện Gióng cưới ngựa lên đỉnh núi Sóc, cởi áo giáp sắt vắt lên cây, rồi cả người và ngựa bay về trời. Trong ngôn ngữ dân gian “về trời” và chết nhưng nhân dân không để cho Gióng chết mà biến nhân vật thành bất tử. Gióng bay về trời, trở thành một trong những vị thánh bất tử (Một trong Tứ bất tử), được muôn đời thờ phụng. Như vậy, Gióng không chết mà sống mãi trong tâm thức dân gian. Hình tượng đẹp đẽ, lí tưởng và cao cả đó có sức giáo dục lan toả to lớn, giáo dục ý thức về lịch sử, ca ngợi một biểu tượng đẹp đẽ, động viên tinh thần đấu tranh của muôn thế hệ sau. Đi kắhp cùng trung châu đều có dấu vết của bước chân, vó ngựa Thánh Gióng: + Làng Mát: Kể chuyện Gióng dừng chân uống nước rồi đổi tên làng từ Kẻ Khó, sang Kẻ Mát + Làng Mã; Kể chuyện Gióng dừng ngựa nên làng có tên làng Mã + Làng Bàng, xã Ngọc Xá, Quế Võ: có bãi cát trắng tương truyền là bọt mép ngựa Thánh Gióng để lại + Làng Cháy: kể chuyện ngựa Gióng phun lửa làm cháy cây cối xung quanh... Như vậy, quan hệ giữa Gióng và nhân dân là quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Gióng là nhân vật anh hùng nhưng đại diện cho cả cộng đồng, mang sức mạnh của cộng đồng. Hình tượng đó có nét đẹp của cá nhân (3 tuổi chưa biết nói cười, ăn một bữa 7 nong cơm, 3 nong cà; mặc quần ào liền chật, vươn vai thành khổng lồ...) nhưng lại mang nét đẹp đẽ, tinh hoa của tập thể. Cho nên, hình tượng Gióng mang tính biểu trưng cao. Đó là biểu tượng đẹp đẽ cho truyền thống đấu tranh của dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước. TRUYỆN CÂY KHẾ TRUYỆN TẤM CÁM Trong truyền thống đạo đức của dân tộc ta ,cái thiện luôn được trân trọng,đề cao .Đó là "mặt trời chân lý" để mỗi hành động,việc làm của con người hướng tới.Ngược lại ,cái Ác luôn đươc lên án ,ghét bỏ kết tội.Trong cuộc chiến giữa cái Thiện và cái Ác,dân gian luôn để cái thiên chiến thắng vẻ vang.đó là ước mơ cũng là sự thật ở đời,Câu truyện cổ tích Tấm Cám sỡ dĩ được lưu truyền rộng rãi và có sức sống bền bỉ phần lớn vì đã phản ánh được sự chiến thắng của cái Thiện đối với caí Ác đúng như quan niệm của nhân dân:Một chiến thắng đi từ những phản ứng yếu ớt đến mạnh mẽ.từ bị động chịu áp lực đến chủ động phản kháng. Như ta đã biết , truyện cổ tích ra đời và phát triển khi xã hội đã phân chia giai cấp .Truyện cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp ấy.Yếu tố kì ảo được sử dụng để hỗ trợ cho cái Thiện , giúp cái Thiện chiến thắng. Trong truyên cổ tích Tấm Cám ,hai tuyến nhân vật Thiện -Ác phân ra rất rõ rệt .Cái Ác tiêu biểu là dì ghẻ và Cám.đây là hai nhân vật luôn có những hành động áp bức,bóc lột đối với nhân vật khác đồng thời chúng có những âm mưu thâm độc ,những hành động độc ác mất hết tính người .Nhân vật Tấm lại đại diện cho cái Thiện ,cô đẹp người đẹp nết nhưng phải chịu số phận hẩm hiu bất hạnh :mẹ mất sớm ,bố nhu nhược ,bị dì ghẻ và cô em cùng cha khác mẹ hiếp đáp. Khi xã hội đã phân giai cấp ,trong quan niệm của dân gian,cái Thiên đồng nghĩa với cái Đẹp ,chúng luôn bị chà đạp,ghen ghét .Hơn thế .Hơn thế cái Thiện ,cái Đẹp còn là những điều thuộc về nhân dân lao động -giai cấp bị áp bức trong xã hội .Ngược lại ,cái Ác cũng là cái Xấu ,ban đầu chúng rất mạnh ,có khả năng áp bức bóc lột cái Thiện ,cái Đẹp .Chúng thuộc về giai cấp trên,giai cấp bóc lột trong xã hội. Cái Thiện bị áp bức như thế nào? Bao giờ bánh đúc có xương Thì bà dì ghẻ mới thương kon chồng. Nó thật đúng với trường hợp của mối quan hệ của bà dì ghẻ và Tấm.Phận con chồng ,Tấm phải quần quật làm việc nhà từ sớm đến tối ,không chút ngơi nghỉ,trong khi đó ,Cám con đẻ của dì ghẻ nhởn nhơ rong chơi ,biếng nhác.Tấm bị nhiếc móc chửi bới, Cám được cưng nhiều dung túng .Sự bất công ấy được cụ thể trong tình huống hai chị em Tấm Cám đi bắt tép.Cám ham chơi ,lười biếng nhưng nhờ xảo trá quỷ quyệt lại được phần thưởng.Chưa hết ,mẹ con Cám còn luôn âm mưu triệt mọi nguồn vui sống,mọi mối giao lưu của cám đối với cuộc đời, cho dù đó là con cá bống !Sau đó ,chúng ngăn cản Tấm đi dự dạ hội bằng mọi chở ngại cũng chỉ vì độc ác,ích kỉ. Tấm, trước mọi hành hạ áp bức của mẹ con Cám .Cô chẳng biết làm gì ngoài việc ôm mặt khóc.Cô nhẫn nhúc nơi xó bếp chính nhà mình.Bị cướp mất cá .Khóc .Bị giết cá bống .Khóc.Không được đi dạ hội.Khóc .Kohng6 có quần áo đẹp .Khóc,.... Rõ ràng ,ban đầu cái Thiện luôn tỏ một vẻ nhẫn nhục đến nhu nhược .Tuy nhiên ,nhìn ở một góc độ nào đó,ta thấy được quan niệm "dĩ hòa vi quý"của dân gian.Không ai muốn ân oán chất chồng,chịu thiệ một phần để mong bình yên một thuở.Nhưng cậy muốn lặng mà gió chẳng dừng .vậy đến một ngưỡng nào đó,cái Thiện sẽ vùng lên chống trả. Ấy chính là cái Ác tàn nhẫn muốn độc chiếm sự sống,âm mưu sát hại cái Thiện.Cái thiện muốn sinh tồn phải chống trả.Và rất phù hợp với bản chất hiền hòa của cái Thiện,sự phản kháng đi từ yếu đến mạnh,từ bị động đến chủ dộng để rồi giành chiến thắng vẻ vang. Mụ dì ghẻ và đứa con đẻ ác ngiệt không chiếm được ngôi vị hoàng hậu thì âm mưu giết Tấm .Bốn lần chúng ra tay thì bốn lần đều thất bại:chặt cây cau, giết chim vành anh,chặt cây xoan đào,đốt khung cửi.Sau mỗi lần bị hại,Tấm không khóc nức nở nhịn nhục.Bị bức hại .nàng hòa kiếp trở về. lần đầu nàng chỉ nhắc nhở: Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao. Đây chỉ là tiếng nói của một linh hồn còn vương vấn dân gian.Cụ thể là nhớ nghĩa cũ duyên xưa trở về thăm lại (chồng).Dù biết mình bị giết hại,Tấm không hề oán than,thù hận mẹ con Cám. Đến làn bị giết hại thứ hai sự tình đã khác.Tấm không nhắc nhở Cám nữa mà lặng lẽ giành lại hạnh phúc của mình.nàng hóa thân thành cây xoan đào,ngày ngày che mát cho vua,ở bên chồng về tình nghĩa cũ Rõ ràng là ở đây có một sự thay đổi về thái độ .Tấm đã ý thức sâu sắc về sự mất mát của mình ,nàng chủ động tìm lại nó. Tiến thêm một bước nữa ,cô còn chủ động tìm đến kẻ thù răn đe: Kẽo cà kẽo kẹt Lấy tranh chồng chị ,chị khoét mắt ra. Tư thế của Tấm bây giờ đã khác trước.Lần trước nàng xác định quan hệ ngang bằng với Cám "tao -mày";giờ đây nàng coi mình là người trên xưng "chị ".Không chỉ hiểu về nỗi mất mát náng còn thấm thía căn nguyên của nỗi đau đời mình.Nàng biết mình bị "tranh chồng"và sự đe dọa của Tấm thật quyết liệt "khoét mắt ra". Lần hóa thân cuối cùng của Tấm đã quyết tâm vùng dậy làm chủ cuộc đời.làm chủ hạnh phúc của mình .Quả thị thơm lừng như vẻ đẹp nơi cô Tấm nhát hương.nàng trở về kiếp con người để chủ động tận hưởng hương thơm và mật ngọt cuộc sống -thứ mà nàng đáng được hưởng và thật sự đã và đang dược hưởng.Đây là một kết thúc có hậu,là khúc khải hoàn viên mãn của cái Thiện trong cuôc đời này. Sự trờ về của cô tấm trong ngôi vị hoàng hậu,sự chiến thắng trọn vẹn của cái Thiện đã chứng minh cho quy luật"Ác giả ác báo","Ở hiền gặp lành .Song cái Thiên đã trãi qua bao áp bức,bất công ,muốn có kết quả tốt đẹp cuối cùng cái Thiện không thể mãi nhu nhược,nhún mình.Nó phải chủ động đứng dậy giành lại quyền sống quyền hạnh phúc. Ra đời từ thuở xa xưa trong lịch sử dân tộc,cho đến ngày nay và sẽ mãi mãi mai sau,câu chuyện Tấm Cám được người Việt giữ gìn,truyền lại cho nhau như người xưa giữ lửa và truyền lửa qua mỗi nếp nhà .Ấy là ngọn lửa cho truyền thống dân tộc,truyền thống yêu cái thiện ghét cái Ác.Quan trọng hơn đó là truyền thống đấu tranh với cái Ác để chiến thắng vẻ vang. CÁI BỐNG LÀ CÁI BỐNG BANG CON CHIM CHÍCH CHOÈ Câu 2: Nhận xét về thơ thiếu nhi việt nam viết những năm chống mỹ cứu nước? Cách đây 40 năm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã toàn thắng vào 30/4/1975 giang sơn Việt Nam từ đây quy về một khối, đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập thống nhất. Đi cùng chiến thắng lịch sử đó văn học nghệ thuật Việt Nam giai đoạn này cũng có được thành tựu riêng nổi bật như trong âm nhạc có những bài ca đi cùng năm tháng, trong hội họa điêu khắc tác phẩm tranh tượng cũng phản ánh sinh động những năm tháng Kháng chiến hào hùng này. Các sự kiện bi hùng của cuộc kháng chiến đã trở thành đề tài cho những mùa truyện ngắn, tiểu thuyết cả trong và sau chiến tranh. Đặc biệt thơ ca Kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trở thành điểm sáng của văn học nghệ thuật Việt Nam Điểm đặc sắc của thơ ca giai đoạn này là sự xuất hiện của thơ thiếu nhi, gam màu tương lai đang bừng sáng trong hiện thực, và đại diện tiêu biểu là nhà thơ Võ Quảng với bài Mời vào. Bài thơ kỳ lạ này gắn với thơ ca Kháng chiến chống Mỹ cứu nước vì nó được viết năm 1970 khi cả nước vẫn chìm trong khói lửa chiến tranh. Thi phẩm không có những từ liên quan đến chiến tranh nhưng vẫn mang hơi thở thời đại vì nó hồn nhiên như chính cuộc sống, và cho đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự. Bài thơ được trẻ yêu thích và người lớn mới hiểu hết nó. Bài thơ được in trong các tập thơ của Võ Quảng, được chọn vào sách giáo khoa, được phổ nhạc, được trình diễn... và nó còn được các cụ hưu trí đánh giá cao và trân trọng đăng ở báo tường. Họ phát hiện ra Võ Quảng là người sớm nhất nói đến mở cửa vì từ 1970 khi thi phẩm ra đời nó đã mang tên “Mở cửa”. Bài thơ là hoạt cảnh đồng thoại tươi mới với tiếng gõ cửa và lời thoại của các nhân vật là Thỏ, Nai, Vạc “Cốc, cốc, cốc!/-Ai gọi đó?/-Tôi là Thỏ/-Nếu là Thỏ/Cho xem tai/ Cốc, cốc, cốc!/-Ai gọi đó?/-Tôi là Nai/-Nếu là Nai/Cho xem gạc/ Cốc, cốc, cốc!/-Ai gọi đó?/-Tôi là Vạc/-Nếu là Vạc/Cho xem chân” mỗi nhân vật đều trung thực thể hiện đặc trưng của mình để được nhận diện. Bài thơ phản ánh tinh thần cảnh giác cao của thời chiến thuở đó. Và rồi bạn Gió, biểu tượng của độc lập tự do, ào đến “Cốc, cốc, cốc!/Ai gọi đó?/Tôi là Gió/Nếu là Gió/Xin mời vào/Kiễng chân cao/Trèo qua cửa/Cùng soạn sửa/Đón trăng lên/Quạt mát thêm/Hơi biển cả/Reo hoa lá/Đẩy buồm thuyền /Đi khắp miền/Làm việc tốt.” Đây là các nhân vật đồng thoại trong thế giới trẻ thơ. Cái tên “Mở cửa” của bài thơ nhắc ta nhớ đến hiện thực đất nước thủa đó dù chiến tranh nhưng tấm lòng vẫn rộng mở, bạn bè thế giới sôi nổi ủng hộ Việt Nam. Thời chiến tranh bài thơ còn có nhân vật phản diện lúc là Sói khi là Cáo. Với Sói thì phải phản ứng mạnh mẽ “Mày đừng gọi/Hãy cút ngay/Mày là tay/Ăn trẻ nhỏ”, với Cáo thì “Mày đừng láo/Hãy cút ngay/Mày là tay/Trộm gà vịt”. Trong chiến tranh cái xấu cái ác đan xen và bài thơ như lời dặn dò các bé thơ hãy nêu cao cảnh giác với hiểm họa chiến tranh. Thuở đó bom mìn kẻ thù cũng đẹp như đồ chơi, không ít trẻ chết vì dại dột chơi với chúng. Nhân vật phản diện Sói và Cáo, sau chiến tranh, được tác giả bỏ đi như cầu mong đất nước từ nay chỉ đón tiếp những điều tốt lành. Tên bài thơ theo đó cũng đổi, không chi “Mở cửa” mà cao hơn là “Mời vào”. Bài thơ còn chỉ ra cách để những điều tốt lành luôn đến với chúng ta, đó là: Chọn bạn mà chơi và “Đi khắp miền làm việc tốt”. Thi phẩm đồng dao này thiêng như lới tiên tri: Năm năm sau khi bài thơ ra đời vào năm 1975 đất nước đón bạn “Gió” hòa bìnhđộc lập-tự do, mười năm sau là làn “Gió” đổi mới và hai mươi năm sau đất nước “Mở cửa” hội nhập. Bài thơ góp cho thơ ca giai đoạn này cái nhìn tươi mới của tương lai. Thi phẩm là hiện thực thời đại cũng như mãi mãi sau này. Bởi sự tự nhận diện luôn là công việc thời sự của cả nhân loại. Nổi bật ở thi phẩm đặc sắc này là tiếng gõ cửa minh triết gian dị của cuộc sống trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình vào tương lai. Câu 3: Trình bày cuộc đời của Võ Quảng, những tác phẩm tiêu biểu của Võ Quảng về thiếu nhi? Phân tích một trong các bài thơ sau: ai dậy sớm, 4 người, mời vào, con bê lông vàng. Trả Lời Võ Quảng (1920-2007) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu tập trung về đề tài thiếu nhi. Ông cũng là người đầu tiên dịch tác phẩm Don Quixote sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở quê nhà. Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, ông được chính quyền Việt Minh cử làm ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án quân sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi. Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Ủy viên Ban nhi đồng Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng, Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu. Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật Ông qua đời lúc 11 giờ 20 phút ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc Những tác phẩm tiêu biểu của Võ Quảng về thiếu nhi:  Ai dậy sớm  Bốn người  Mời vào  Con bê lông vàng  Cái Thăng (truyện 1961)  Thấy cái hoa nở (thơ 1962)  Chỗ cây đa làng (1964)  Nắng sớm (thơ, 1965)  Cái Mai (1967)  Những chiếc áo ấm (truyện 1970)  Anh Đom đóm (thơ, 1970)  Măng tre (thơ, 1972)  Quê nội (truyện 1974)  Tảng sáng (truyện 1976)  Bài học tốt (truyện, 1975)  Gà mái hoa (thơ 1975)  Quả đỏ (thơ 1980)  Vượn hú (truyện 1993)  Ánh nắng sớm (thơ 1993)  Kinh tuyến, vĩ tuyến (truyện 1995)  Sơn Tinh Thủy Tinh, Con 2 (kịch bản phim hoạt hình).  Vượt Thác Ngoài ra, ông còn có bài thơ đồng dao "Mời vào" cho trẻ em rất nổi tiếng. BÀI THƠ AI DẬY SỚM Nhà thơ Võ Quảng viết bài thơ Ai dậy sớm với một giọng văn đầy hình ảnh nhạc điệu. Xoay quyanh một vấn đề đơn gian nhất là đánh thức các bé. Nhà thơ đã vào bài thơ dành cho các em là cả thế giới cỏ cây, hoa lá, loài vật gần gũi mà lại rất ngộ nghĩnh song giá trị mô phạm cao mang tính nhân văn cao. Mở đầu bài thơ tác giả đã dùng các hình ảnh có tính mô phỏng cao bằng những hình ảnh đơn giản làm cho các bé thêm thích thú: Ai dậy sớm bước ra nhà cau ra hoa đang chờ đón. Tác giả sử dụng hình ảnh cau ra hoa như muốn gợi thêm cho các bé sự cào đón nhiệt tình, không những vậy mà bằng mùi hương hoa lại tạo cho bé thêm yêu thiên nhiên, yêu cuốc sống mới này. Ai dậy sớm đi ra đồng cả vừng đông đang chờ đón. Tiếp theo ở đoạn thơ kế tiếp tác giả còn đưa buổi sáng bình minh lấp ló vào, bên cạnh đó là màu sáng của bầu trời tạo cho bé có cảm giác thích tú hơn. Không chỉ vậy mà bình minh này còn che lấp đi cái bóng đêm, cái u tối của những giấc mơ lạ. Nói tiếp những cái niềm vui tươi sáng hơn qua những câu thơ cuối đây những ước mơ khát vộng của các bé. Tác giả sử dụng động từ chạy là muốn nhắn gởi đến các bé phải chạy đua cùng ước mơ của mình và không nên từ bỏ uocs mơ đó . Tác giả ở đây muốn đưa các bé tới một niềm vui tươi sáng cùng nhưng điều ước nhỏ nhoi và thành hiện thực. Ai dậy sớm chạy lên đồi cả đất trời đang chờ đón. Bên cạnh đó tác giả còn muốn các bé dậy để chào đón những điều kỳ lạ của cuộc sống mới Không những vậy mà còn là phần thưởng của người dậy sớm, của em bé dậy sớm là hương hoa, là ánh bình minh, là cả đất trời mênh mông buổi sáng đang chờ đón em. Chỉ có những người dậy sớm, những người yêu cuộc sống và trân trọng đời sống mới có được điều ấy. Tác giả đã dùng nhiều hình ảnh đẹp để tạo nên một bức tranh muôn màu hấp dẫn các bé. Và những hình ảnh đó về với tâm trí e tao cho bé thêm có động lực, sức sống mới với ngày mai tươi sáng. BỐN NGƯỜI MỜI VÀO CON BÊ LÔNG VÀNG Câu 4: Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Trần Đăng Khoa? Phân tích một trong các bài thơ sau: Cây dừa, trăng ơi từ đâu đến, tiếng chim chích choè, khi mẹ vắng nhà, hạt gạo làng ta, mưa, ảnh bác. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA Trần Đăng Khoa (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958), quê làng Trực Trì, xãQuốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông nguyên là Trưởng Ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam. Tiểu sử: Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông: Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ "Hạt gạo làng ta", sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971). Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" thành "Đường ta rộng thênh thang ta bước" trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu. Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10/10 tại trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường không còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về quân chủng hải quân. Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng Ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng Ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV, ông được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này. Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm. Hiện nay, ông là Phó Bí thư Đảng Ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Các tác phẩm: Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ tham gia nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời không là động lực cho xúc cảm khi tác giả đã cao tuổi. [cần dẫn nguồn] Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa: Từ góc sân nhà em, 1968. Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974. Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986. Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản. Bài "Thơ tình người lính biển" đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc. Đảo chìm, tập truyện - ký, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần. Giải thưởng Ông ba lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ(1982) và Giải thưởng Nhà nước (năm 2000). CÂY DỪA Trong kho tàng văn học thiếu nhi Việt Nam, không ít tác giả đã sáng tác ra những bài thơ, bài văn hay, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng các bạn nhỏ. Trần Đăng Khoa là một tác giả tiêu biểu trong số đó. Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, quê ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Năng khiếu thơ của Trần Đăng Khoa nảy nở rất sớm. Từ lúc là học sinh tiểu học, Khoa đã có nhiều bài thơ được đăng báo. Và bài thơ "Cây dừa" được Khoa sáng tác năm 1967 khi Khoa 9 tuổi. Được in trong tập thơ: "Góc sân và khoảng trời" năm 1968. Bài thơ "Cây dừa" của Trần Đăng Khoa chất chứa một nét đẹp văn hoá vùng miền, vẻ đẹp đó đã tạo nên bao niềm vui cho cuộc sống con người, một vẻ đẹp nên thơ đáng yêu của vườn quê của thiên nhiên. Cây dừa xanh toả nhiều tàu Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá để miêu tả cây dừa. Dưới con mắt nhà thơ, cây dừa đã được đặt vào một vị trí mới với hành động tựa như con người, nhìn cây dừa xanh trong vườn, nhà thơ tưởng như dừa đang "Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng", cây dừa được hoà với thiên nhiên gió, trăng tạo nên một khung cảnh hài, hoà nên thơ. Thân dừa bạc phếch tháng năm, Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao. Thân dừa được tác giả vẽ lên với màu sắc do thời gian, cho ta thấy sức sống trường tồn, mãnh liệt của cây dừa với hình ảnh "Thân dừa bạc phếch tháng năm" nhưng "Lá dừa vẫn xanh toả nhiều tàu". Dừa vẫn kết nhiều như "đàn lợn con". Tác giả đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật so sánh hóm hỉnh, độc đáo quả dừa như đàn lợn con, tạo nên hình ảnh quả dừa thật đẹp mắt và đáng yêu. Đêm hè hoa nở cùng sao, Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh. Trên bầu trời đêm hè đầy sao, hoa dừa được tác giả miêu tả hoà cùng ánh sao toả sáng lung linh, tạo nên một vẻ đẹp thơ mộng. Một lần nữa bằng sự tưởng tượng tinh tế "tàu dừa" được Trần Đăng Khoa so sánh như "chiếc lược chải vào mây xanh", tạo nên một cảm giác mượt mà êm ả. Đang say sưa miêu tả cây dừa bằng các biện pháp nghệ thuật tu từ tinh tế, như đột nhiên Khoa nhớ đến cái ngọt mát, trong lành của nước dừa. Bằng câu hỏi tu từ: Ai mang nước ngọt nước lành, Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa. Khoa cho ta thấy, cây dừa không chỉ gắn bó hoà quyện với thiên nhiên, tạo nên một khung cảnh hài hoà nên thơ mà cây dừa còn đem lại cho cuộc sống con người những giây phút tuyệt vời khi được thưởng thức vị ngọt của nước dừa. Không chỉ dừng lại ở đây bằng nghệ thuật nhân hoá, cây dừa của Trần Đăng Khoa còn làm dịu bớt đi cái nắng gay gắt, oi ả của trưa hè: Tiếng dừa làm dịu nắng trưa, Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo. Với động từ "gọi", "múa reo", cây dừa của Trần Đăng Khoa trở nên có hồn, tạo nên những ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Giữa trời trong, với đàn cò, tiếng dừa rì rào như hoà nhịp cùng cánh cò vỗ trên trời xanh: Trời xanh đầy tiếng rì rào, Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra. Câu thơ vừa có màu sắc của "trời trong", vừa có âm thanh "rì rào" của không gian, đàn cò trắng nổi giữa trời trong đang vỗ cánh, đang đánh nhịp "bay vào bay ra". Khi đọc các câu thơ, ta thấy hiện ra trước mắt người đọc hình ảnh cây dừa đang hoà với thiên nhiên, với lối suy nghĩ, tưởng tượng của tác giả tạo nên sự hút của bài thơ ngay từ đoạn đầu. Khép lại bài thơ, tác giả dùng biện pháp ẩn dụ để miêu tả cây dừa như một người lính. Hình ảnh cây dừa thật đáng yêu như một con người ung dung, thanh cao nơi làng quê: Đứng canh trời đất bao la, Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi. Qua việc miêu tả cây dừa, tác giả Trần Đăng Khoa ca ngợi vẻ đẹp nên thơ, đáng yêu của vườn quê, của thiên nhiên, của con người Việt Nam. TRĂNG ƠI TỪ ĐÂU ĐẾN Sức mạnh của thơ Trần Đăng Khoa, nói như Xuân Diệu: “chính tâm hồn bên trong của con người qui tụ cảnh vật bên ngoài vào quanh một cái trục, biến vật vô tri thành ra xúc cảm, tình cảm”. Cần phải nói thêm rằng, cái hay của thơ Khoa nằm ở khả năng trực giác đến kỳ lạ được biểu đạt qua một thế giới ngôn từ lung linh, sống động và nhạc điệu đa âm, đa sắc. Trần Đăng Khoa thuộc số hiếm những trẻ thơ làm thơ biết trọng chữ. Trừ đôi lúc ứng khẩu theo cảm tính, Khoa ý thức rất đầy đủ khả năng biểu đạt của ngôn từ Ấn tượng nhất ở thơ Khoa là nghệ thuật sử dụng và sáng tạo từ láy. Thơ cho thiếu nhi nói chung, từ láy xuất hiện nhiều làm cho thế giới thơ trở nên lung linh sống động. Nhưng dùng từ láy đến đậm đặc, phong phú và đầy sáng tạo có lẽ Khoa được xếp vào hàng số một. Trong tập Góc sân và khoảng trời, có tới 306 từ /105 bài (so với cả tập Những bài thơ em yêu của những nhà thơ lớn tuổi chỉ có 159 từ/100 bài). Điều đáng lưu ý là số lượng từ láy ấy không hề lặp lại. Từ láy trong thơ Khoa có khả năng tượng hình, tượng thanh sống động, ấn tượng. Các từ láy ấy không chỉ diễn tả chính xác đặc điểm tự nhiên của từng loài vật, hiện tượng mà còn bộc lộ cái hồn của chúng. Vạn vật đang nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ huyền bí mà Khoa nghe được bằng trực giác hồn nhiên của mình. Thơ Khoa đi tìm cái linh hồn ảo diệu của thiên nhiên, tạo vật qua sự sống của chính con người. Cho nên, ngôn ngữ thơ bao giờ cũng có một độ mở liên tưởng với các hình thức tu từ: nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, tượng trưng… rất bất ngờ. Vạn vật được nhìn qua con mắt tinh tế của sinh hoạt làng quê, tâm lý đời thường, Giữa người và vật cứ như có một sợi dây vô hình trong mối tương giao xúc cảm. Cây dừa không còn là dừa nữa mà mang vóc dáng người lính canh giữ cho đất trời bình yên. Mưa đâu chỉ là mưa mà là huyền thoại về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Chú dế mèn bên bờ tre vuốt râu biểu đạt đúng cái thần thái ung dung đĩnh đạc của con người Việt Nam trong chiến tranh... So sánh trong thơ Trần Đăng Khoa khá đặc sắc làm nhiều nhà thơ lớn phải thán phục. Xuân Diệu rất cảm khái với hình ảnh này: Trăng ơi từ đâu đến/ Hay biển xanh diệu kỳ/ Trăng tròn như mắt cá/ Không bao giờ chớp mi. Nhà thơ từng viết về biển và trăng rất hay này phải thừa nhận rằng Khoa đã chạm đến tận cùng cái huyền bí của tự nhiên. Nói đến thơ Khoa không thể không nói đến đặc sắc của nhạc điệu. Nhà thơ Phạm Hổ có nhận xét, thơ Trần Đăng Khoa với tập Góc sân và khoảng trời “có sự phong phú trong nhạc điệu, mỗi bài thơ, có một nhạc điệu riêng, âm sắc riêng”. Nhạc điệu là cấp độ siêu ngôn ngữ, thế giới âm thanh của ký hiệu ngôn từ. Nhạc điệu góp phần tạo hình, tạo nghĩa cho tác phẩm thơ. Nhạc điệu có cơ sở từ cấu trúc của thể thơ. Ấn tượng nhất là thể thơ nhịp ngắn 2, 3 hoặc 4, 5 chữ. Âm điệu réo rắt, rộn ràng của lối thơ ấy như ảnh hưởng từ những khúc đồng dao trong trò chơi tuổi nhỏ của Khoa. Nhạc điệu trong thơ Khoa không chỉ là giai điệu của tâm hồn mà còn có khả năng tạo hình, tạo nghĩa tinh tế. Âm hưởng chung của bài thơ vừa mang cái hồn nhiên, khoẻ khoắn của đồng dao, vừa có tiết tấu khác hẳn. Nó phá vỡ mọi cấu trúc đơn điệu của đồng dao, mở ra một thế giới thanh âm phức hợp nhiều bè, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan, lúc mạnh lúc nhẹ, khi tắt khi vang. Việt Nam là đất nước sản sinh không ít những đứa trẻ biết làm thơ. Tương truyền, thời xưa đã từng có những thần đồng thi ca như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hiền, Lê Quý Đôn… Gần đây là Nguyễn Hồng Kiên, Nguyễn Bá Dậu, Phan Thị Vàng Anh… Nhưng để thành một nhà thơ thực sự với những thành công xuất sắc ngay từ thời thơ ấu, có lẽ chỉ có mỗi mình Trần Đăng Khoa. Góc sân và khoảng trời là tập thơ nhỏ nhắn nhưng trong đó chứa đựng bao nhiêu vẻ đẹp lớn lao của nghệ thuật. Cả đời làm văn chương của mình, đến lúc, ông Trần Đăng Khoa hiện tại phải nghiêng mình kính phục em bé Khoa ở góc sân và khoảng trời ngày trước. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến, gắn bó của nhà thơ với trăng, và thiên nhiên đất nước. TRĂNG ƠI … TỪ ĐÂU ĐẾN? Trần Đăng Khoa TIẾNG CHIM CHÍCH CHOÈ KHI MẸ VẮNG NHÀ HẠT GẠO LÀNG TA Bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa viết năm 1969 khi nhà thơ còn là một cậu bé 11 tuổi. Thế mà bài thơ lại có tầm suy nghĩ của người lớn: chín chắn, chững chạc làm sao. Tứ thơ của bài thơ được phát triển bắt đầu từ ý khái quát: hạt gạo được kết tinh từ những hương vị ngọt ngào của quê hương. Đó là hương đồng gió nội, là bài ca lao động, là lời ru của mẹ, là vị phù sa màu mỡ của đất đai quê nhà. Nhưng hạt gạo cũng còn được làm ra từ trong khó khăn của thiên tai, từ trong khói lửa của chiến tranh. Hạt gạo không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá: "Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay" Các khổ 2 và 3 của bài thơ tập trung thể hiện những "đắng cay"mới có được hạt gạo dẻo thơm. Trong một bài ca dao ông cha đã từng nhắc nhở: "Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo ngon một hạt đắng cay muôn phần". Vị đắng cay mà Trần Đăng Khoa muốn nói đến là nỗi vất vả trong khắc phục thiên tai để sản xuất của người nông dân. Những bão lụt, hạn hán dồn dập… Điệp từ "có" kết hợp với số từ "bảy", "ba", "sáu", nhà thơ đã thể hiện được sự tàn phá ghê gớm của thiên nhiên: "Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy" Bài thơ ca ngợi ý chí vượt khó của mẹ, của bà con nông dân trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Những năm 60, 70, giặc Mĩ leo thang bắn phá miền Bắc. Chúng hòng phá hoại những thành quả xây dựng ta, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Những trai làng phải lên đường đánh giặc: Những năm khẩu súng "Những năm bom Mĩ Trút lên mái nhà Theo người đi xa" Ở quê nhà là các bà, các chị. Họ vừa phải sản xuất vừa phải chiến đấu để bảo vệ thành quả lao động của mình, bảo vệ quê hương bình yên với đồng lúa thẳng cánh cò bay. Ngày ấy, hình ảnh các cô gái súng quàng vai, lưng đeo băng đạn cả khi cày khi cấy trở thành một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam. Đó là sự kết hợp đẹp giữa chiến đấu và sản xuất: "Những năm băng đạn Vàng như lúa đồng Bát cơm mùa gặt Thơm hào giao thông" Những năm tháng gian khổ ấy, các em thiếu nhi cũng muốn đóng góp một phần nhỏbé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước: "Hạt gạo làng ta Có công các bạn Sớm nào chống hạn Vục mẻ miệng gàu Trưa nào bắt sâu Lúa cao rát mặt Chiều nào gánh phân Quang trành quết đất" Các em tham gia một cách tự giác, chăm chỉ. Sự chăm chỉ ấy được bài thơ thể qua các từ: sớm, trưa, chiều. Sự đối lập giữa sức vóc bé nhỏ với công việc người lớn mà các em tham gia được tác giả khắc họa một cách khá ngộ nghĩnh và xúc động. Khổ cuối, tác giả nâng giá trị của hạt gạo thành: "Hạt vàng làng ta". Hạt gạo quý như hạt vàng. Điệp khúc "Hạt gạo làng ta" ở mỗi khổ thơ thể hiện được sự trân trọng tự hào của nhà thơ đối với quê hương. Ta có thể nhận ra những"hạt vàng" lấp lánh trong bài thơ. MƯA Sinh ra và lớn lên tại một làng quê thuộc huyện Nam Sách, năng khiếu thơ của Trần Đăng Khoa nảy nở rất sớm. Nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời được tác giả viết khi còn học tiểu học. Bài thơ Mưa được chàng thi sĩ tí hon này viết năm lên 9 tuổi, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Từ lúc sắp mưa đến khi mưa rơi, cảnh bầu trời mặt đất từ sấm chớp mây mưa, từ cây cỏ đến những con vật như chó, gà con, lũ kiến,... đều được cảm nhận qua tâm hồn tuổi thơ rất hồn nhiên ngộ nghĩnh. Bài thơ viết theo cách nói lối đồng dao, có 63 câu thơ rất ngắn, có 10 câu chỉ có 1 chữ, có 37 câu thơ 2 chữ. 6 câu thơ 3 chữ, 9 câu thơ 4 chữ, và chỉ có 1 câu thơ 5 chữ. Qua sự khảo sát ấy, ta thấy cách viết của Khoa rất tự nhiên, hồn nhiên, câu thơ nối tiếp xuất hiện theo cảm nhận và cảm xúc từ sắp mưa đến mưa rồi, và sau cùng là hình ảnh người bố của Khoa đi cày về trong cơn mưa dữ dội, tầm tã. Mở đầu bài thơ như một tiếng reo của trẻ thơ cất lên: Sắp mưa / sắp mưa. Mẫn cảm nhất là loài mối bay ra để đón mưa. Tài thật, sao mà bé Khoa phân loại được, nhận diện được tuổi tác những con mối: Mối trẻ / Bay cao / Mối già / Bay thấp. Tiếp theo là bầy gà con Rối rít tìm nơi / ẩn nấp. Ông trời, cây mía, kiến, lá khô, cỏ gà, bụi tre, hàng bưởi, chớp, sấm, cây dừa, ngọn mùng tơi... được chú bé nói tới, nhắc tới. Tác giả sử dụng nhân hoá khá hay, tạo nên những liên tưởng thú vị, thể hiện sự tưởng tượng phong phú. Mây đen kéo phủ đầy trời, tưởng như Ông trời / mặc áo giáp đen / Ra trận. Lá mía dài, nhọn sắc. Gió thổi, lá mía xào xạc bay, khác nào Muôn nghìn cây mía / Múa gươm. Kiến chạy mưa, như vỡ tổ, nhà thơ tưởng như Kiến / Hành quân / Đầy đường. Không khí hùng tráng của lịch sử dân tộc thời chống Mĩ đã phản chiếu vào thơ Khoa. Từ ông trời đến nghìn cây mía, đàn kiến, tất cả đều ra trận, đều múa gươm đều hành quân, tất cả đều tham gia vào cuộc diễu binh hùng vĩ (thơ của Tố Hữu). Cả một không gian rộng lớn chuyển động vì sắp mưa: Lá khô / Gió cuốn Bụi bay / Cuồn cuộn, cỏ gà, bụi tre, hàng bưởi, cây dừa, ngọn mùng tơi - thế giới cây cỏ này được nhân hoá. Cách nhận xét của chú bé 9 tuổi khá tinh tế, hóm hỉnh, cỏ gà rung tai nghe. Bụi tre Tần ngần – Gỡ tóc. Hàng bưởi trĩu quả, trong gió, như một người hiền đang đu đưa - bế lũ con - Đầu tròn - trọc lốc. Gió thổi mỗi lúc một mạnh. Cây dừa Sải tay – Bế, ngọn mùng tơi nhảy múa. Một không gian nghệ thuật, một thế giới tạo vật cựa quậy, sống động, chuyển động khi trời sắp mưa. Tất cả đều có linh hồn, có cảm giác, có hành động... được thể hiện qua các hình ảnh nhân hoá rất ngộ nghĩnh, đáng yêu. Sắp mưa, sấm chớp rung chuyển, rạch xé trời đất. Chớp rạch trời ngang trời... Sấm như một tên hề Ghé xuống sân - Khanh khách - Cười. Đó là cảm nhận vũ trụ của tuổi thơ. Cảnh trời mưa được diễn tả bằng 14 câu thơ. Mưa rơi trong tiếng gió ù ù như xay lúa. Giọt mưa lộp bộp Lộp bộp rơi! Trong màn mưa, đất trời trở nên mù trắng nước. Và mưa chéo mặt sân sủi bọt. Bé Khoa đã dàn dựng một hoạt cảnh mưa có cóc, chó và cây lá thật hóm hỉnh: Cóc nhảy lồm chồm Chó sủa Cây lá hả hê. Mưa làm mát dịu trời đất mùa hè. Mưa làm cho cây lá xanh tươi, tốt tươi. Cây lá hả hê vui sướng đón cơn mưa nhân hoá thoát sáo và rất gợi cảm. Ở đây mưa là nguồn gốc sự sống, mưa là niềm vui đợi chờ. Cuối bài thơ mới xuất hiện hình ảnh con người. Một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê xưa nay: Bố em đi cày về Đội sấm Đội chớp Đội cả trời mưa... Mọi thứ của vũ trụ như sấm chớp, mưa đều đội trên đầu bố em. Chữ đội được điệp lại 3 lần, không chỉ cực tả sự vất vả dãi nắng dầm mưa của bố em, của người dân cày Việt Nam xưa nay mà còn mang hàm nghĩa, người nông dân cày cấy trong bom đạn chiến tranh, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Sau vần thơ là lòng biết ơn, kính yêu của Khoa. Mưa là một bài thơ hay. Thế giới thiên nhiên trong cơn mưa rào ở làng quê được cảm nhận và miêu tả tinh tế. Các câu thơ ngắn 1, 2, 3... chữ đan cài vào nhau, kết hợp với vần chân đã tạo nên nhạc điệu thơ, gợi tả tiếng mưa rơi, nghe rất vui. Phép nhân hoá và nghệ thuật sử dụng các từ láy (rối rít, cuồn cuộn, tần ngần, đu đưa, trọc lốc, khô khốc, khanh khách, ù ù, lộp bộp, chồm chồm, hả hê) đã tạo nên những vần thơ, những hình ảnh hồn nhiên, ngộ nghĩnh, thi vị. Mưa là một bài thơ đặc sắc của tuổi thơ và tâm hồn tuổi thơ. ẢNH BÁC Câu 5: Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Andecxen I/ Thời niên thiếu và con đường đến với văn học của Andersen Andersen sinh ra ở Odense, Đan Mạch vào ngày 2 tháng 4 năm 1805. Cha của ông là một thợ đóng giày và mẹ ông là một người nghiện rượu Cha của Andersen luôn tin rằng ông có thể có mối quan hệ với dòng dõi quý tộc và theo như một nhà thông thái ở Hans Christian Andersen Center, bà nội của ông từng nói rằng gia đình của họ từng là thuộc giai cấp trên trong xã hội. Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu chứng tỏ rằng những câu chuyện trên là vô căn cứ. Gia đình ông có những mối liên hệ với quý tộc Đan Mạch, nhưng đó chỉ là quan hệ về công việc. Tuy nhiên, có thuyết cho rằng Andersen là một đứa con bất hợp pháp của người trong hoàng tộc còn lại ở Đan Mạch, một sự thật ủng hộ cho thuyết này là vua Đan Mạch đã ưu ái Andersen khi ông còn trẻ tuổi và đã trả các khoản tiền học phí cho ông. Nhà văn Rolf Dorset khẳng định rằng diều đó cũng không chứng minh được đó là khoản thừa kế của Andersen. Andersen đã biểu lộ trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời của mình khi còn là một cậu bé, tính cách đó được nuôi dưỡng bởi sự nuông chiều của cha mẹ và sự mê tín của mẹ ông. Ông thường tự làm cho mình các món đồ chơi, may áo cho các con rối và đọc tất cả các vở kịch, hầu hết là những vở kịch của William Shakespeare và của Ludvig Holberg. Trong suốt thời thơ ấu, ông có một tình yêu nồng nhiệt đối với văn học. Ông được biết đến vì thuộc làu các vở kịch của Shakespeare và tự trình diễn các vở kịch bằng những con rối gỗ. Ông cũng có hứng thú với nghệ thuật nói đùa, và hỗ trợ trong việc đề xướng ra hội những người thích đùa giữa những người bạn của ông. Năm 1816, cha ông qua đời và cậu bé phải tự đi kiếm sống. Ông làm thợ học dệt vải và cả thợ may, sau đó thì vào làm trong nhà máy thuốc lá.Năm 14 tuổi, Andersen chuyển tới Copenhagen (tiếng Đan Mạch: København) tìm việc làm diễn viên trong các nhà hát. Ông có chất giọng cao và đã được kết nạp vào Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Sự nghiệp này kết thúc nhanh chóng khi ông vỡ giọng. Một người bạn đã khuyên ông làm thơ. Từ đó, Andersen chuyển hẳn sang viết văn. May mắn ông đã vô tình gặp được vua Frederik VI của Đan Mạch. Nhà vua rất thích cậu bé kỳ lạ này và đã gửi ông vào một trường học La tinh ở Slagelse. Trước khi được nhận vào trường học, Andersen đã thành công trong việc xuất bản câu chuyện đầu tiên của ông - The Ghost at Palnatoke's Grave (Bóng ma ở ngôi mộ Palnatoke) vào năm 1822. Mặc dù là một học sinh chậm tiến (có lẽ là không học được) và không thích thú với việc học, Andersen học ở cả Slagelse và ở một trường ở Helsingør cho tới năm 1827. Andersen sau này đã tả những năm tại Slagelse và Helsingør là những năm đen tối nhất trong cuộc đời vì bị hành hạ khi sống trọ tại nhà người thầy và vì các bạn cùng lớp lớn tuổi hơn. II/ Sự nghiệp văn học Năm 1829, nhà hát kịch hoàng gia đã diễn vở nhạc kịch Kjærlighed paa Nicolai Taarn eller Hvad siger Parterret (Tình yêu ở tháp nhà thờ thánh Nicolas) của Andersen. Những năm tiếp theo, ông lại tiếp tục thành công với các vở diễn và câu chuyện của mình. Ông đã đi chu du khắp châu Âu, qua Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Ý... nhưng vẫn giữ được niềm đam mê văn học trong suốt cuộc đời mình. Năm 1831, nhiều tác phẩm tiểu thuyết của ông đã được phát hành. Khi đi chu du, Andersen đã gặp được rất Tải về bản full

Từ khóa » Con Bê Lông Vàng