TAO ĐÀN CHIÊU ANH CÁC - Chào Mừng Bạn đến Với Website Của ...
Có thể bạn quan tâm
Rằm tháng Giêng năm Bính Thìn (1736), Hội Tao đàn Chiêu Anh Các ra đời tại Hà Tiên. Thời đó Hà Tiên là trấn lỵ của một vùng đất mới, người Đàng Ngoài muốn vào đến thì phải đi vòng đường biển, nên gọi là “hải ngoại”. Việc cai quản vùng đó được giao phó cho vị Tổng binh họ Mạc.
![]() |
| Chùa Phù Dung hiện nay được xây trên nền của tòa Chiêu Anh Các cũ (ảnh và chú thích trích trong quyển “Nhận thức mới về đất Hà Tiên” của Trương Minh Đạt, Tạp chí Xưa và Nay - NXB Trẻ, 2001, trang 158) |
Mạc Thiên Tích (Tứ) tên thật là Mạc Tông, tự Sĩ Lân, là con trưởng của Mạc Cửu. Ông sinh năm Bính Tuất (1706) tại Trũng Kè. Năm 1735, Mạc Cửu qua đời. Mạc Thiên Tích thay cha giữ chức Tổng trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tích rất có công trong việc mở mang, phát triển và bảo vệ vùng đất Hà Tiên. Từ sự nghiệp quốc phòng, nội chính đến kinh tế, văn hóa ngoại giao ở đất Hà Tiên xưa, Mạc Thiên Tích đều có công lao đáng kể. Riêng về mặt văn học, công lao và sự nghiệp nổi bật của Mạc Thiên Tích là sáng lập ra tao đàn Chiêu Anh Các và đứng ra làm chủ súy. Hoạt động của Chiêu Anh Các là một Hội quán Tao đàn, thờ đức Khổng Tử, vừa là chỗ huấn luyện nhân tài, rèn võ luyện văn, đã khắc in nhiều tác phẩm văn học.
Ngày nay, khi nhắc đến Tao đàn Chiêu Anh Các, mọi người đều chú ý đến thành phần nhân sự có tính đa dạng, thuộc nhiều quốc gia mà sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức đã ghi chi tiết: Văn nhân tỉnh Phúc Kiến 15 người, Quảng Đông 13 người, phủ Triệu Phong (Việt Nam) 4 người, phủ Gia Định 2 người, phủ Qui Nhơn 2 người. Cộng là 36 vị. Nhiều khách thơ mời từ các tỉnh phía nam Trung Quốc thông qua ông Trần Hoài Thủy, gởi bài họa vận về Hà Tiên để tham gia. Tao đàn Chiêu Anh Các sản sinh ra một khối lượng văn chương từ phú đồ sộ. Năm 1821, khi cho tái bản sách Minh bột di ngư, ông Trịnh Hoài Đức nhắc tới 6 tập sách từng được xuất bản và lưu hành là: Hà Tiên thập cảnh toàn tập, Minh bột di ngư thi thảo, Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu thị trinh liệt tặng ngâm, Thi truyện tạng lưu tiết phụ, Thi thảo cách ngôn vị tập. Năm Minh Mạng thứ 1 (1820), Trịnh Hoài Đức sưu tầm được một tập thơ nhan đề là “Minh bột di ngư”, trong đó gồm 30 bài thơ và một bài phú 100 câu, “Có bài phú 32 vận đều là của Mạc Công làm ra”.
“Hà Tiên thập vịnh” viết bằng chữ Hán, Mạc Thiên Tích sáng tác năm Bính Thìn (1736), khắc tại Hà Tiên năm Đinh Tị (1737) gồm có “Bài tự” của Mạc Thiên Tích nói về lai lịch “Chiêu Anh Các”, tập thơ “Bài bạt” của Dư Tích Thuần ca tụng cảnh Hà Tiên và người lãnh đạo tài giỏi, “Bài bạt” của Trần Trí Khải, nói về Mạc Thiên Tích và nguyên nhân có 10 bài thơ họa của mình, 10 bài xướng của Mạc Thiên Tích tả 10 cảnh đẹp nổi tiếng ở Hà Tiên, 310 bài thơ họa của 31 người có chân trong “Chiêu Anh Các”. Như vậy số thơ trong toàn tập là 320 bài, vịnh 10 cảnh. Ngoài phần văn chương chữ Hán rất uyên bác, Chiêu Anh Các còn có Khúc vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên một áng thơ Nôm đặc sắc.
Đáng tiếc là 4 tập sách Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu thị trinh liệt tặng ngâm, Thi truyện tạng lưu tiết phụ, Thi thảo cách ngôn vị tập chưa tìm thấy. Về Tao đàn Chiêu Anh Các, ông Lê Quí Đôn có đoạn viết như sau: “Đời Vĩnh Hưu năm Bính Thìn, Thiên Tứ kế tập, đón mười văn sĩ, ưa thích thi chương, tài vận phong lưu, một phương mến trọng. Tôi từng thấy bản khắc mươi bài vịnh Hà Tiên đều do Tứ đề mà các văn nhân Bắc quốc và Thuận Hóa (Huế), Quảng Nam cùng nhau họa vận, không thể bảo rằng hải ngoại không có văn chương vậy”.
Trong sách Doãn tướng công hoạn tích, của ông Doãn Uẩn có đoạn ghi: “...Tiệc khao quân cử ngay trước trận tiền, ngay bên gò đống xác giặc. Tướng sĩ nói:
- Rượu ngon. Giá có đồ nhắm thì tuyệt.
Sực nhớ, ta cười ha hả, rút bài thơ hay trong bao gươm lệnh ra, sang sảng nói:
- Thức nhắm đây ! Rồi sang sảng đọc bài “Trống đêm ở Giang Thành” của Mạc tướng công. Tướng sĩ ngồi im phăng phắc lắng nghe, quên cả rượu trước mắt và đồ nhắm ở đâu. Đọc xong ta nói :
- Thơ hay phải nói cái thực. Đã là thực thì thành thơ hay...”
“Trống đêm Giang Thành” quả như lời khen:
GIANG THÀNH DẠ CỔ Trống quân giang thú nổi uy phong Nghiêm gióng đòi canh ỏi núi sông Đánh phá mặt gian người biết tiếng Vang truyền lịnh sấm chúng nghiêng lòng Phao tuông đã thấy yên ba vạc Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông Thỏ lụng sớm hầu chờ bóng ác Tiếng xe sầm sạt mối nên công. (Bản dịch Đông Hồ)
“Khúc vịnh mười cảnh Hà Tiên”, tập thơ quốc âm 422 câu này có số phận khá đặc biệt. Nó nảy sinh từ tâm hồn người thi sĩ Việt Nam yêu tha thiết quê hương đất nước mình, yêu tha thiết nhân dân và tiếng nói dân tộc mình, nên sau khi trước tác nhiều từ chương chữ Hán đã làm thơ bằng tiếng nói của người dân cày ruộng, của người đánh cá. Và chính nhờ thoát khỏi gò bó của những khuôn sáo cũ, thơ đã thể hiện sâu sắc hơn tâm hồn ý chí của mình và cuộc sống của nhân dân.
“Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh” miêu tả 10 cảnh đẹp ở Hà Tiên. Đó là các cảnh: Kim Dự lan đào, Bình san điệp thúy, Tiêu Tự thần chung, Giang Thành dạ cổ, Châu Nham lạc lộ, Đông Hồ ấn nguyệt, Nam Phố trừng ba, Thạch Động thôn vân, Lộc Trĩ thôn cư , Lư Khê ngư bạc. Tập thơ “Hà Tiên thập vịnh cảnh” nói lên lòng tự hào, kiêu hãnh, chính đáng của tác giả đối với cảnh đẹp thiên nhiên của giang sơn đất nước nói chung và thắng cảnh của Hà Tiên, miền Nam nói riêng. Mạc Thiên Tích bộc lộ niềm kiêu hãnh vô biên của mình trước cảnh đẹp của thiên nhiên bằng những câu thơ rất giàu hình ảnh. Đây là cảnh những đàn cò trắng bay lả tả trên núi, dưới vực:
Cò đâu kể số muôn ngàn Tuôn mây vén núi mang mang bay về Đầy bốn bề kêu la tở mở Lộn ròng ròng như vỡ chòm ong Rơi ngân rớt phấn giữa không Sương ken đòi cụm tuyết phong khắp hàng (Châu nham lạc lộ –Đông Hồ dịch)
Xuất phát từ tình cảm dạt dào, Mạc Thiên Tích đã làm những bài thơ lời lẽ sâu sắc, thâm thúy, miêu tả những cảnh đẹp nổi tiếng và quen thuộc ở Hà Tiên - một vùng đất giàu có, đẹp đẽ và thanh tú, nên thơ đến mức kỳ lạ: đảo Kim Dự, núi Bình San núi Thạch Động, núi Châu Nham, Đông Hồ... Rồi cảnh tiếng chuông chùa buổi sớm mai nhắc người ta nghĩ tới con đường giải thoát, hoặc tiếng trống cầm canh ban đêm làm cho không khí miền biên ải thêm trang nghiêm, tĩnh mịch và cảnh sinh hoạt tấp nập, sầm uất, đông vui của dân cày, dân chài để từ đó nói lên sức sống thịnh vượng, giàu có của mảnh đất phương Nam của Tổ quốc sau khi được bàn tay con người khai phá, tạo dựng nên và bảo vệ lấy nó.
Ngoài việc mô tả cảnh đẹp thiên nhiên, “Hà Tiên thập cảnh”, Mạc Thiên Tích còn phản ánh hiện thực đời sống xã hội miền Hà Tiên ở thế kỷ XVIII. Đó là cảnh nhân dân ta anh dũng chống giặc ngoại xâm để bảo vệ bờ cõi, cảnh mọi người nô nức khai hoang để trồng trọt, cày cấy, cảnh dân chúng hăng hái ra sông đánh bắt, tìm kiếm những thức ăn phong phú để nuôi sống cho mình. Mặc dù ở nơi xa xôi, tận cùng của Tổ quốc, nhưng người dân Hà Tiên vẫn không cảm thấy cô đơn, trống trải và quạnh hiu. Trong cuộc sống lao động, sản xuất và chiến đấu, họ tìm thấy niềm vui, tự hào và niềm an ủi lớn lao. Hãy nghe người dân Hà Tiên nói lên niềm tự hào của mình qua những câu thơ của Mạc Thiên Tích :
Lưu loát hưởng dư ơn nước thạnh Ê hề sẵn có của trời dành Đâu no thì đó là an lạc Lọ phải chen chân chốn thị thành. (Lộc trĩ thôn cư – Đông Hồ dịch)
Không những đời sống đầy đủ, ấm no, hạnh phúc, người dân Hà Tiên còn có cuộc sống văn hóa, tinh thần văn minh, phong phú không kém gì ở chốn thị thành. Từ vùng đất hoang vu, vắng bóng người, nhờ bàn tay lao động tạo dựng và bảo vệ, Hà Tiên trở thành nơi phồn vinh, sầm uất và văn minh vào bậc nhất thời bấy giờ:
Biết phân ngôi, biết phân chủ khách Tuy giang thôn nào khác Trường An Trong ca nghe có tiếng vang Cũng lời mặc khách cũng trang Cao Bằng. (Lư Khê ngư bạc – Đông Hồ dịch)
Về mặt nghệ thuật, “Hà Tiên thập cảnh” đạt được trình độ khá điêu luyện. Người và cảnh được tác giả miêu tả hài hòa, với nhiều cảm xúc tự nhiên. Bức tranh thiên nhiên tươi tắn, bộn bề và thanh tú được hiện lên dưới ngòi bút nhạy cảm của Mạc Thiên Tích. Bút pháp của tác giả độc đáo, mới lạ và phóng khoáng, dễ gây cho người đọc những cảm xúc khó quên.
Thơ Mạc Thiên Tích miêu tả tư tưởng tình cảm và chí khí tài năng của ông. Với giọng thơ trôi chảy, dạt dào, nhiều cảm xúc, âm hưởng thanh tao, Mạc Thiên Tích xứng đáng là một nhà thơ xuất sắc của thế kỷ XVIII. Vai trò, địa vị của ông đối với nhóm Chiêu Anh Các chẳng khác nào vai trò, địa vị văn học của Lê Thánh Tông trong nhóm Tao đàn Nhị Thập Bát Tú ngày trước.
Sản phẩm Tao đàn Chiêu Anh Các là lời ca ngợi thiên nhiên giàu đẹp, ca ngợi cuộc sống lao động lành mạnh phóng khoáng của nhân dân và là tiếng nói quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Vì vậy mà nó tồn tại trong quần chúng. Tuy trước đây chưa hề được khắc in nhưng lại được chép tay, được truyền miệng phổ biến rộng rãi trong nhân dân nên thơ Nôm Chiêu Anh Các bất chấp thời gian và lửa đạn chiến tranh, còn mãi với chúng ta. Người dân vùng Hà Tiên hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng đều đặn tổ chức lễ kỷ niệm ngày lập Tao đàn Chiêu Anh Các. Họ luôn truyền lại cho con cháu đời sau ý thức giữ gìn, bảo tồn truyền thống văn học quí báu của vùng đất tận cùng Tây Nam Tổ quốc. Lần đầu tiên Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức “Ngày Thơ Việt Nam” trên toàn quốc, Hà Tiên được chọn là một trong hai điểm tổ chức “Ngày Thơ Việt Nam” ở Đồng bằng sông Cửu Long. Và ngày rằm tháng Giêng năm 2005 là năm tỉnh Kiên Giang quyết định nâng cấp lễ kỷ niệm ngày thành lập tao đàn trở thành lễ hội cấp tỉnh nhằm phát huy hơn nữa giá trị văn hóa truyền thống, kho tàng văn học một thời rực rỡ.
N.T.D.M (theo Cần Thơ onlineTừ khóa » Chiêu Anh Các Là Gì
-
Tao đàn Chiêu Anh Các Và Truyền Thống Lễ Hội Nguyên Tiêu ở Hà Tiên
-
Chiêu Anh Các - Tao đàn đầu Tiên ở Phương Nam
-
Theo Dấu Người Xưa - Kỳ 27: Chùa Phù Dung Trên Nền Chiêu Anh Các
-
Lễ Hội Tao Đàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên - Nơi Tôn Vinh Thi Ca Và ...
-
Nội Dung Của Lễ Hội Tao đàn Chiêu Anh Các? | Hiệp Sĩ Top
-
Hà Tiên Lung Linh Lễ Hội Tao đàn Chiêu Anh Các - .vn
-
Kiên Giang: Tao đàn Chiêu Anh Các Một Di Sản Của Văn Học Nam Bộ
-
Di Sản Chiêu Anh Các (Trương Thanh Hùng) - Phật Giáo Bạc Liêu
-
Chiêu Anh Các - Home | Facebook
-
Theo Dấu Văn Thơ - Kỳ 3: Bí ẩn Chiêu Anh Các - Báo Thanh Niên
-
Kỳ 27: Chùa Phù Dung Trên Nền Chiêu Anh Các - Báo Thanh Niên
-
TAO ĐÀN CHIÊU ANH CÁC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN ...
