Tập Trung Xây Dựng Hệ Thống Chính Trị Xã, Phường, Thị Trấn ở Các Tỉnh ...
Có thể bạn quan tâm
Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước; là vùng đất giàu tiềm năng và có lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội của cả khu vực miền trung và Tây Nguyên; là nơi có nền văn hóa dân tộc vừa đa dạng, phong phú, vừa có nhiều nét đặc thù, góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, một lòng đi theo Đảng, nêu cao tinh thần đoàn kết, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đối với các tỉnh Tây Nguyên, thôn, làng có vị trí đặc biệt quan trọng ở cơ sở. Thôn, làng là nơi cộng đồng dân cư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để cùng tồn tại và phát triển lâu đời, bền vững. Đây là nơi diễn ra mọi sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào địa phương. Nó vừa là đặc điểm, vừa là nét văn hóa riêng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Xây dựng thôn, làng vững mạnh, xây dựng tình đoàn kết, hòa hợp giữa các dân tộc anh em, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội và giữ vững an ninh, quốc phòng ở Tây Nguyên. Từ sau ngày giải phóng miền nam (30-4-1975), Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm lãnh đạo, chăm lo đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng Tây Nguyên. Vì vậy, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng ở Tây Nguyên đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế - xã hội các tỉnh Tây Nguyên có bước phát triển khá, bước đầu phát huy có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, mở rộng sản xuất hàng hóa, tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi, đời sống của đại bộ phận nhân dân có bước cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên còn bộc lộ những mặt yếu kém, bất cập là: phát triển kinh tế chưa kết hợp tốt với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội và đoàn kết các dân tộc, củng cố quốc phòng, an ninh; để xảy ra tình trạng phân hóa giàu nghèo nhanh giữa đồng bào nơi khác đến định cư với đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ; đời sống của số đông đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; tỷ lệ đói nghèo và trẻ em suy dinh dưỡng cao, trình độ dân trí còn thấp và chậm được cải thiện. Tình hình trên đã trở thành vấn đề chính trị - xã hội bức xúc, dẫn đến sự kiện mất ổn định chính trị - xã hội ở Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên tháng 2-2001. Để xảy ra tình hình mất ổn định chính trị - xã hội ở Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có trách nhiệm của cả Trung ương và địa phương, trong đó nổi lên một số nguyên nhân chủ quan chủ yếu sau:
Trong một thời gian khá dài, chúng ta đã buông lỏng công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở đã chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chưa thấy hết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, nhất là vấn đề quản lý, sử dụng và mua bán đất đai; chưa thật sự quan tâm và chăm lo đến đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo nhanh giữa đồng bào địa phương với đồng bào ở nơi khác di cư đến.
Không làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền giải thích một cách tỉ mỉ những vấn đề khúc mắc trong tư tưởng, trong cuộc sống hằng ngày, xử lý những vấn đề nảy sinh không thấu lý đạt tình; cán bộ từ cấp ủy đến chính quyền, các đoàn thể làm việc theo kiểu hành chính quan liêu, nói nhiều hơn làm, không quan tâm đến lợi ích thiết thực của người dân, không chú ý đến đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán, nhất là không chú ý nâng cấp, xây dựng nhà rông, nhà văn hóa ở các thôn, làng để duy trì các hình thức văn hóa cộng đồng, cũng là nơi tuyên truyền giải thích mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên là đúng đắn, nhưng chúng ta chưa quán triệt sâu sắc và trong quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Cụ thể là: chậm cụ thể hóa đường lối của Đảng thành các chương trình, kế hoạch, quy hoạch để phát triển kinh tế - xã hội đối với toàn vùng và từng địa phương, chưa có những quy định, thiết chế cụ thể của Nhà nước trên từng lĩnh vực; nhận thức của một bộ phận cán bộ chưa đúng đắn và trên thực tế chưa tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số thực sự bình đẳng giữa các dân tộc; việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đánh giá đối với cán bộ, nhất là đối với thanh niên là người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mức và thiếu những chính sách, giải pháp phù hợp. Những thiếu sót, khuyết điểm trên làm cho một bộ phận cán bộ, thanh niên và nhân dân các dân tộc thiểu số băn khoăn, tâm tư trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Trong khi đó, các thế lực thù địch luôn lợi dụng triệt để các vấn đề về dân tộc, tôn giáo và khoét sâu vào những khuyết điểm, yếu kém của ta để kích động, lôi kéo đồng bào, hình thành hệ thống chấp sự ở các cấp mà thực chất là tổ chức chính trị phản động nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là ở các thôn, làng yếu kém nên khi xảy ra tình hình phức tạp về chính trị - xã hội thì tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đều lúng túng, bị động đối phó và không đủ sức giải quyết, xử lý những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Đây là bài học kinh nghiệm sâu sắc về công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở và công tác dân tộc của Đảng mà chúng ta cần nghiên cứu, rút kinh nghiệm.
Sự kiện mất ổn định chính trị - xã hội ở Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên đầu năm 2001 đã để lại hậu quả nghiêm trọng trên nhiều mặt, ảnh hưởng xấu đến việc phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đoàn kết giữa các dân tộc và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Song được sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao, kịp thời của Trung ương và những chủ trương, giải pháp đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, hơn ba năm qua, đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai nói riêng, các tỉnh Tây Nguyên nói chung đã phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, đoàn kết phấn đấu, đạt được một số thành tựu quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Cấp ủy đảng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đã tổ chức tốt sự phối hợp giữa các lực lượng trong việc vận động quần chúng ở cơ sở, làm cho quần chúng nhân dân hiểu đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thấy rõ âm mưu thâm độc của bọn phản động và các thế lực thù địch; tập trung xây dựng, củng cố tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp giáo dục, y tế v.v... Riêng tỉnh Gia Lai trong ba năm qua nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 9,9%, năm 2003 đạt 11,9%; đã đầu tư 52 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng cho 78 xã và làng đặc biệt khó khăn, 10 tỷ đồng xây dựng 10 trung tâm cụm xã; hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình đồng bào dân tộc thiểu số gặp khó khăn trên 900 triệu đồng; tỷ lệ hộ đói nghèo giảm từ 22,4% năm 2001 xuống còn 15,5% năm 2003.
Tuy nhiên, tình hình chính trị - xã hội của tỉnh tuy đã ổn nhưng chưa thật yên; so với yêu cầu Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các quyết định của Chính phủ thì kết quả đạt được chưa cao; vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, quản lý của chính quyền, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở còn yếu, còn nhiều cơ sở, thôn, làng chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở; một số nơi vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố có thể gây mất ổn định về chính trị - xã hội; một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ cả tin còn bị khống chế và nghe theo bọn phản động; một số nơi còn xảy ra tình trạng tranh chấp đất đai, mâu thuẫn giữa đồng bào địa phương với các nông, lâm trường; đội ngũ cán bộ ở cơ sở từ xã đến các thôn, làng còn thiếu và yếu, nhiều người không biết tiếng dân tộc; một số cán bộ còn động dao về tư tưởng, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, tác phong quan liêu, xa dân, thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; vẫn còn nhiều thôn, làng chưa có đảng viên, chưa có tổ chức đảng.
Từ thực tiễn của Gia Lai, rút ra một số kinh nghiệm về xây dựng, củng cố hệ thống chính trị và việc giải quyết, khắc phục tình hình phức tạp ở cơ sở như sau:
Một là, trước những diễn biến phức tạp về chính trị - xã hội xảy ra ở cơ sở, các cấp ủy đảng không được chủ quan, nóng vội, phải thật sự bình tĩnh, sáng suốt, theo dõi, nắm chắc mọi diễn biến để nhận định, đánh giá đúng tình hình. Trên cơ sở phân tích sâu sắc các nguyên nhân, nhất là những nguyên nhân chủ quan; chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém của tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở các cấp để sửa chữa, khắc phục, đồng thời đề ra những chủ trương, giải pháp cụ thể, đúng đắn và triển khai thực hiện trong toàn đảng bộ, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực tiễn ở Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên cho thấy, khi xảy ra tình hình phức tạp về chính trị - xã hội, nếu chúng ta chủ quan, nóng vội, không bình tĩnh, sáng suốt để nhận định, đánh giá đúng đắn tình hình, không phân biệt rõ giữa những kẻ phản động, chủ mưu, cầm đầu với những người dân bị bọn xấu lôi kéo, dụ dỗ, kích động thì việc đề ra những chủ trương, giải pháp sẽ không trúng và không phù hợp, việc giải quyết tình hình sẽ gặp khó khăn, phức tạp.
Hai là, vấn đề có ý nghĩa chiến lược là phải tập trung mọi lực lượng, phương tiện và bằng nhiều hình thức phù hợp để tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền, vận động quần chúng, đặc biệt là thanh niên, làm cho quần chúng hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thấy được âm mưu đen tối và bản chất thâm độc của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, để nhân dân không nghe, không làm theo và không chứa chấp, nuôi dưỡng bọn xấu. Để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, cùng với việc đi sâu, đi sát tới từng hộ gia đình, phải nâng cấp, xây dựng nhà rông, nhà văn hóa ở các thôn, làng để làm nơi học tập, hội họp và tổ chức các hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng của nhân dân. Tài liệu dùng để tuyên truyền, vận động quần chúng phải ngắn gọn, dễ hiểu và dễ nhớ; những cán bộ làm công tác vận động quần chúng phải có tác phong miệng nói, tay làm, thực sự gắn bó với dân, hiểu được phong tục, tập quán, nói cho dân nghe bằng ngôn ngữ của đồng bào và cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân để dân tin tưởng, làm theo; chú trọng hình thức tuyên truyền miệng và tranh thủ uy tín của các già làng, trưởng thôn, trưởng các dòng họ trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân, nắm chắc tư tưởng của nhân dân. Đặc biệt phải quan tâm đến việc tuyên truyền giải thích những khúc mắc trong tư tưởng, những tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thông qua công tác vận động quần chúng, cần phân biệt và xác định rõ các đối tượng để có hình thức giáo dục, xử lý cho phù hợp: đối với những đồng bào do nhẹ dạ cả tin, bị kẻ xấu lợi dụng, lừa gạt, lôi kéo thì cần tuyên truyền, vận động, giải thích để nhân dân hiểu, không nghe, không làm theo và không chứa chấp, nuôi dưỡng bọn xấu, tích cực đấu tranh, tố giác bọn phản động; đối với những người quá khích, bị kẻ xấu mua chuộc, lợi dụng thì phải kiên trì thuyết phục, cảm hóa, lôi kéo họ về với nhân dân; đối với bọn phản động, những kẻ chủ mưu, cầm đầu, có những hành động chống phá cách mạng thì phải cô lập, phân hóa chúng và kiên quyết xử lý theo pháp luật để răn đe kẻ khác, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là bài học kinh nghiệm sâu sắc để nắm dân, xây dựng và giữ mối liên hệ mật thiết, máu thịt giữa Đảng với nhân dân, cơ sở tạo nên sức mạnh của Đảng và sự thành công của cách mạng nước ta.
Ba là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và các thôn, làng vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh ngay từ cơ sở. Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn trong sạch vững mạnh, thực sự gần dân, sát dân, hiểu được tâm tư nguyện vọng của dân và được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Do địa bàn rộng, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số khác nhau và do giao thông đi lại khó khăn, nên phải đặc biệt chăm lo xây dựng các thôn, làng vững mạnh, xác định thôn, làng là cơ sở của cơ sở; chú trọng hoạt động của chi bộ đảng, ban công tác Mặt trận ở các thôn, làng, coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ cơ sở và cốt cán ở các thôn, làng là người ở địa phương. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ trong đảng và trong xã hội; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, khắc phục bệnh chủ quan, thành tích chủ nghĩa và che giấu khuyết điểm. Khi thấy có những dấu hiệu vi phạm, cấp ủy các cấp phải tiến hành kiểm tra, thanh tra, kết luận rõ đúng sai và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên sai phạm, kịp thời kiện toàn, bổ sung cán bộ cho cơ sở.
Bốn là, các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể nhân dân và các ngành có liên quan ở các cấp phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có quy chế phối hợp hoạt động chặt chẽ, hướng về cơ sở và tập trung giúp đỡ cơ sở. Các cấp, các ngành có liên quan từ Trung ương đến cơ sở cần xây dựng chương trình hành động, kế hoạch công tác và quy chế phối hợp cụ thể, đồng bộ trong việc thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và các quyết định của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững về chính trị, phát triển nhanh về văn hóa - xã hội, mạnh về quốc phòng, an ninh và tiến tới đưa Tây Nguyên trở thành vùng kinh tế động lực của đất nước.
Năm là, các cấp ủy đảng phải quán triệt và thực hiện quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Kết hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội với củng cố, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Trong quá trình phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên, thế mạnh của vùng Tây Nguyên phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội và dân tộc, đem lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho nhân dân địa phương; chống thất thoát, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Tập trung sức vào việc xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, những người lâu nay ít được hưởng thụ những thành quả của sự nghiệp đổi mới; đẩy mạnh phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo cơ sở vững chắc cho sự ổn định và phát triển.
Sáu là, xây dựng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân giữa các dân tộc. Xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định và mối quan hệ làm việc giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động: Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; chú trọng xây dựng các quy ước, hương ước, các luật tục trong cộng đồng dân cư ở các thôn, làng. Cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở các cấp phải dựa vào dân, tin dân và lắng nghe ý kiến của dân, quan tâm tới những nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của nhân dân, kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, vướng mắc trong nội bộ nhân dân, không để tích tụ, dồn nén lâu ngày và trở thành điểm nóng.
Nghị quyết Hội nghị T.Ư 9 (khóa IX) vừa qua đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong nửa nhiệm kỳ đầu và đề ra một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Về nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội IX, Nghị quyết đã chỉ rõ: Toàn Đảng tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, gắn xây dựng tổ chức đảng với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Trung ương và xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn vững mạnh, cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
1. Giữ vững và phát huy thành quả của cách mạng và những kết quả đã đạt được về xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong những năm qua.
Phải tăng cường xây dựng và giữ vững mối liên hệ mật thiết, máu thịt giữa Đảng với nhân dân; củng cố, phát huy truyền thống cách mạng và tình đoàn kết, gắn bó, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở Tây Nguyên; kiên quyết đấu tranh chống mọi sự chia rẽ, tư tưởng dân tộc hẹp hòi; khắc phục những biểu hiện ngại khó, ngại khổ, thụ động và tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên. Các ban, ngành có liên quan trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần tiến hành nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, xây dựng thành cơ chế chính sách, trong đó cần đặc biệt chú trọng hướng dẫn xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở thôn, làng; chính sách liên minh công - nông - trí tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở xã, phường, thị trấn, ở các thôn, làng...
2. Các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, thực sự gắn bó với dân.
Ngày 3-3-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 94 và số 95- QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, nêu rõ: Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn vững mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Trên cơ sở những kết luận tại Hội nghị này, Ban Tổ chức Trung ương sẽ phối hợp với các ban, ngành có liên quan ban hành hướng dẫn thực hiện các Quy định trên của Ban Bí thư. Các đảng bộ, chi bộ ở xã, phường, thị trấn phải lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, nắm vững và thực hiện đúng quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, kịp thời nắm bắt, giải đáp tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, khơi dậy nguồn lực và trí tuệ của nhân dân.
3. Tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Các cấp ủy đảng cần triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tăng cường xây dựng, củng cố tình đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc. Chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền, vận động nhân dân, làm cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, những thành quả của công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và đối với đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng; thấy rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc của bọn phản động và các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; hướng dẫn, động viên nhân dân phát hiện, giáo dục, thuyết phục, kêu gọi các đối tượng phản động và số đang lẩn trốn ra tự thú. Phải có kế hoạch cụ thể để trong vài ba năm tới, tất cả các thôn, làng đều có nhà rông, nhà văn hóa để đồng bào có nơi hội họp, sinh hoạt; không ngừng đổi mới nội dung và sử dụng các hình thức tuyên truyền cho phù hợp với từng đối tượng, trong đó chú trọng hình thức tuyên truyền miệng kết hợp với mô hình trực quan để dân thấy, dân tin. Tài liệu phổ biến cho dân phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ; cán bộ làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng ở cơ sở phải am hiểu phong tục, tập quán và nói được tiếng của đồng bào địa phương, có tác phong miệng nói tay làm, thật sự gần dân, nắm được tâm tư, nguyện vọng của dân, được nhân dân tín nhiệm.
4. Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng gắn với củng cố chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở vững mạnh.
Các cấp ủy đảng phải tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, nhất là nâng cao chất lượng lãnh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở các thôn, làng, tổ dân phố. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn để phát triển đảng viên; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên trong việc giúp đỡ, kèm cặp, bồi dưỡng quần chúng đối tượng đảng, nhất là trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở các thôn, làng, phấn đấu từ 3 đến 5 năm tới tất cả các thôn, làng đều có đảng viên để đủ điều kiện thành lập chi bộ hoặc tổ đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình, xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng; xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy định, quy chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Lãnh đạo xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng cơ chế để phát huy quyền làm chủ, quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên. Phát huy các hình thức tự quản theo những quy ước, hương ước và các luật tục trong cộng đồng dân cư ở các thôn, làng. Cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở phải kịp thời phát hiện và giải quyết dứt điểm những vướng mắc, mâu thuẫn nảy sinh trong cộng đồng dân cư, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu ngày và trở thành điểm nóng, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối, làm mất đoàn kết nội bộ.
5. Tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Các cấp ủy đảng phải quán triệt và kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế với nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng và nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; lãnh đạo thực hiện và quản lý tốt các chương trình, dự án về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giải quyết đất sản xuất, nhà ở cho các đối tượng chính sách và đồng bào các dân tộc thiểu số theo quyết định của Chính phủ. Thực hiện việc hỗ trợ thiết bị máy nông nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; trợ giá cước cho thu mua nông sản ở các xã vùng 3, hỗ trợ mua nông sản xuất khẩu cho nông dân, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng trong vài ba năm tới. Đẩy mạnh phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phòng chống các tệ nạn và các hủ tục lạc hậu ở địa phương, xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh. Thực tiễn ở Gia Lai cũng như ở nhiều địa phương khác cho thấy: nếu nơi nào chỉ tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế, không quan tâm đúng mức công tác xây dựng Đảng và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc thì nơi đó kinh tế cũng không phát triển được mà còn tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết giữa các dân tộc.
6. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số tại địa phương.
Trường Chính trị tỉnh và các trung tâm chính trị ở cấp huyện cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn; tích cực tạo nguồn quy hoạch cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và các thôn, làng vững mạnh, thật sự gắn bó với nhân dân. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phải khẩn trương nghiên cứu, biên soạn giáo trình bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ ở cơ sở. Những nơi khó khăn về cán bộ, cần kết hợp việc điều động, luân chuyển với tăng cường cán bộ ở cấp trên về, vừa thực hiện chủ trương tuyển chọn đội ngũ công chức dự bị đưa về cơ sở, trước hết là tiếp nhận số con em đồng bào các dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và số thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương. Trước mắt, cần chuẩn bị tốt công tác nhân sự và lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu HĐND và UBND các cấp sắp tới, bảo đảm thật sự dân chủ, đúng pháp luật; chủ động chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng bộ các cấp vào năm 2005 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
7. Cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể cấp trên của cơ sở phải hướng mạnh về cơ sở và tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo đối với cơ sở.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp huyện phải khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, thường xuyên đi sâu, đi sát cơ sở, tới tận các thôn, làng; tăng cường làm việc trực tiếp với cơ sở và đối thoại trực tiếp với nhân dân, nắm chắc tâm tư nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên kiểm tra, giúp đỡ và tháo gỡ khó khăn cho cơ sở. Các cấp, các ngành cần xây dựng quy chế phối hợp hoạt động và có quy chế cụ thể về thời gian làm việc tại cơ sở, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ và triệu tập cán bộ cơ sở lên họp. Thực hiện tốt phương châm: thôn, làng là cơ sở của cơ sở và cấp tỉnh nắm chắc đến từng xã, cấp huyện nắm chắc đến từng thôn và cấp xã nắm chắc đến từng hộ gia đình.
8. Những nội dung được trao đổi trong hội nghị này là những kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn. Đây không chỉ là kinh nghiệm riêng của Gia Lai, của các tỉnh Tây Nguyên mà các địa phương khác cần nghiên cứu, rút kinh nghiệm để xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn ở địa phương mình.
Những vấn đề đã rõ và được tổng kết qua thực tiễn thì cần rút kinh nghiệm và tổ chức thực hiện ngay; những vấn đề được nêu trong hội nghị nhưng cần nghiên cứu, tổng kết, có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành thì các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu để trình cấp có thẩm quyền quyết định. Sau hội nghị này, các đồng chí đại diện cấp ủy địa phương cần báo cáo kết quả hội nghị với Thường trực và Ban Thường vụ cấp ủy, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể ở địa phương mình, tạo sự chuyển biến rõ nét về hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội IX của Đảng.
Từ khóa » Hệ Thống Xã Phường
-
Phân Cấp Hành Chính Việt Nam – Wikipedia Tiếng Việt
-
Lĩnh Vực Chính Quyền địa Phương, địa Giới Hành Chính - Bộ Nội Vụ
-
Hoàn Thành Việc Triển Khai Hệ Thống Thông Tin Một Cửa điện Tử đến ...
-
Xây Dựng Và Nâng Cao Chất Lượng Hệ Thống Chính Trị ở Cơ Sở Xã ...
-
Các Xã, Phường, Thị Trấn - Cổng Giao Tiếp điện Tử Thị Xã Sơn Tây
-
Nghị Quyết 1211/2016/UBTVQH13 Về Tiêu Chuẩn Của đơn Vị Hành ...
-
Hoạt động Của Phường - Xã - Thị Xã Phước Long
-
Hệ Thống Quy Phạm Pháp Luật Của Trung ương Về Thực Hiện Dân Chủ ...
-
Thư Viện điện Tử Sách Xã, Phường, Thị Trấn
-
Xây Dựng Chính Quyền Cấp Xã Dưới Góc độ đội Ngũ Những Người ...
-
Nâng Cao Chất Lượng Hệ Thống Chính Trị Xã, Phường, Thị Trấn ở Thanh ...
-
Xã Phường Trực Thuộc | Cổng Thông Tin điện Tử Thành Phố Bắc Kạn
-
Kế Hoạch 48/KH-UBND 2022 Triển Khai Chiến Lược Phát Triển Thông ...