Tên Gọi Việt Nam – Wikipedia Tiếng Việt

Bước tới nội dung

Nội dung

chuyển sang thanh bên ẩn
  • Đầu
  • 1 Tổng quát
  • 2 Tên gọi của các nhà nước/triều đại Hiện/ẩn mục Tên gọi của các nhà nước/triều đại
    • 2.1 Văn Lang
    • 2.2 Âu Lạc
    • 2.3 Lĩnh Nam
    • 2.4 Vạn Xuân
    • 2.5 Đại Cồ Việt
    • 2.6 Đại Việt
    • 2.7 Đại Ngu
    • 2.8 Việt Nam
    • 2.9 Đại Nam
    • 2.10 Đế Quốc Việt Nam
    • 2.11 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
    • 2.12 Quốc gia Việt Nam
    • 2.13 Việt Nam Cộng hòa
    • 2.14 Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
    • 2.15 Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  • 3 Các danh xưng không chính thức Hiện/ẩn mục Các danh xưng không chính thức
    • 3.1 Xích Quỷ
    • 3.2 Nam Việt
    • 3.3 An Nam
  • 4 Các danh xưng thời Bắc thuộc và Pháp thuộc Hiện/ẩn mục Các danh xưng thời Bắc thuộc và Pháp thuộc
    • 4.1 Giao Chỉ
    • 4.2 Giao Châu
    • 4.3 An Nam
    • 4.4 Trấn Nam
    • 4.5 Tĩnh Hải quân
    • 4.6 Liên bang Đông Dương
  • 5 Tại các nước trên thế giới
  • 6 Xem thêm
  • 7 Ghi chú
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo
  • Bài viết
  • Thảo luận
Tiếng Việt
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Công cụ Công cụ chuyển sang thanh bên ẩn Tác vụ
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Chung
  • Các liên kết đến đây
  • Thay đổi liên quan
  • Trang đặc biệt
  • Thông tin trang
  • Trích dẫn trang này
  • Lấy URL ngắn gọn
  • Tải mã QR
In và xuất
  • Tạo một quyển sách
  • Tải dưới dạng PDF
  • Bản để in ra
Tại dự án khác
  • Wikimedia Commons
  • Khoản mục Wikidata
Giao diện chuyển sang thanh bên ẩn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 10/2022)
Tên gọi Việt Nam Map of Vietnam showing the conquest of the south (nam tiến, 1069-1757).
2879–2524 TCN Xích Quỷ (truyền thuyết)
Thế kỷ 7–258 TCN Văn Lang
258-179 TCN Âu Lạc
204–111 TCN Nam Việt
111 TCN–40 CN Giao Chỉ
40–43 Lĩnh Nam
43–203 Giao Chỉ
203–544 Giao Châu
544–602 Vạn Xuân
602–679 Giao Châu
679–757 An Nam
757–766 Trấn Nam
768–866 An Nam
866–967 Tĩnh Hải quân
968–1054 Đại Cồ Việt
1054–1400 Đại Việt
1400–1407 Đại Ngu
1407–1427 Giao Chỉ
1428–1804 Đại Việt
1804–1839 Việt Nam
1839–1945 Đại Nam
1887–1954 Đông Dương(Bắc/Trung/Nam Kỳ)
từ 1945 Việt Nam
Bản mẫu chính Sinh vật định danh
Lịch sử Việt Nam
  • x
  • t
  • s
Loạt bàiLịch sử Đông Nam Á
Bản đồ Đông Nam Á
Bản đồ Đông Nam Á

Đông Nam Á thời tiền sử

Những nền văn minh đầu tiên    Văn hóa Đông Sơn    Văn hóa Sa Huỳnh   Văn hóa Óc Eo   Văn hóa Mã Lai   Văn hóa Java   Văn hóa Môn - Khmer
Các vương quốc đầu đầu tiên

   Xích Quỷ (2879TCN - 2524TCN)    Văn Lang (2524TCN - 258TCN)   Âu Lạc (258TCN-208TCN)   Lâm Ấp (192 - 605)   Phù Nam (1 - 630)   Chân Lạp (550 - 717)   Dvaravati (TK 6 - TK 11)   Malayu (TK 4 - TK 7)   Langkasuka (TK 4 - TK 7)   Pan Pan (TK 4 - TK 7)   Sailendra (732 - giữa TK 9)   Medang (giữa TK 9 - 1049)   Pyu (TK 3 - TK 9)   Hariphunchai (TK 8 - TK 13)

Các quốc gia phong kiến hình thành    Đại Việt (938 - 1887)    Chăm Pa (TK 7 - 1693)   Vương quốc Khmer (877 - 1863)   Pagan (TK 9 - TK 13)   Sukhothai (1238 - 1448)   Ayutthaya (1351 - 1767)   Lan Na (1254 - TK 17)   Lan Xang (1353 - TK 18)   Kediri (1049 - 1221)   Majapahit (1293 - 1527)   Srivijaya (TK 8 - TK 13)   Melaka (1402 - 1511)
Giao lưu về văn hóa - tôn giáo    Phật giáo đại thừa    Phật giáo tiểu thừa    Hindu giáo    Hồi giáo    Công giáo    Ảnh hưởng của Ấn Độ    Ảnh hưởng của Trung Hoa
Thực dân hóa từ Châu Âu    Thuộc địa Hà Lan    Thuộc địa Bồ Đào Nha    Thuộc địa Anh    Thuộc địa Tây Ban Nha   Thuộc địa Pháp
Các phong trào dân tộc đầu thế kỷ 20
Đông Nam Á hiện nay

Xem thêm

  • Lịch sử Brunei
  • Lịch sử Campuchia
  • Lịch sử Đông Timor
  • Lịch sử Indonesia
  • Lịch sử Lào
  • Lịch sử Malaysia
  • Lịch sử Myanmar
  • Lịch sử Philippines
  • Lịch sử Singapore
  • Lịch sử Thái Lan
  • Lịch sử Việt Nam
sửa

Việt Nam qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau[1]. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức để chỉ một vùng lãnh thổ thuộc Việt Nam.

Tổng quát

[sửa | sửa mã nguồn]
Thời gian Tên gọi Triều đại/Chế độ Người đặt tên
Chữ Quốc ngữ Chữ Hán Nôm
2879 – 2524 TCN (nghi vấn)

356 năm

Xích Quỷ 赤鬼 Hồng Bàng Thị Kinh Dương Vương
2524 – 258 TCN

2267 năm

Văn Lang 文郎 Hùng Vương thứ I
257 – 207 hoặc 179 TCN

50 năm

Âu Lạc 甌雒 Nhà Thục Thục Phán
204 - 111 TCN

93 năm

Nam Việt 南越 Bắc thuộc lần 1 (Nhà Triệu) Triệu Đà
111 TCN – 40 CN

151 năm

Giao Chỉ 交趾 Bắc thuộc lần 1 (Nhà Hán) -
40 – 43

3 năm

Lĩnh Nam 嶺南 Hai Bà Trưng Trưng Trắc
43 – 203

160 năm

Giao Chỉ 交趾 Bắc thuộc lần 2 -
203 – 544

341 năm

Giao Châu 交州
544 – 602

58 năm

Vạn Xuân 萬春 Nhà Tiền Lý Lý Bí[2]
602 – 607

5 năm

Giao Châu 交州 Bắc thuộc lần 3 -
607 – 622

15 năm

Giao Chỉ 交趾
622 – 679

57 năm

Giao Châu 交州
679 – 757

78 năm

An Nam 安南
757 – 766

9 năm

Trấn Nam 鎮南
766 – 866

100 năm

An Nam 安南
866 – 905

39 năm

Tĩnh Hải quân 靜海軍
905 – 968

63 năm

Họ Khúc
Họ Dương
Nhà Ngô
968 – 1054

86 năm

Đại Cồ Việt 大瞿越 Nhà Đinh Đinh Bộ Lĩnh[3]
Nhà Tiền Lê
Nhà Lý
1054 – 1400

346 năm

Đại Việt 大越 Lý Thánh Tông[4]
Nhà Trần
1400 – 1407

7 năm

Đại Ngu 大虞 Nhà Hồ Hồ Quý Ly[5]
1407 – 1427

20 năm

Giao Chỉ 交趾 Nhà Hậu Trần -
Bắc thuộc lần 4
1428 – 1804

376 năm

Đại Việt 大越 Nhà Hậu Lê Lê Lợi
Nhà Mạc
Chúa Trịnh
Chúa Nguyễn
Nhà Tây Sơn
Đầu thời Nhà Nguyễn
1804 – 1839

35 năm

Việt Nam 越南 Nhà Nguyễn Gia Long cầu phong nhà Thanh, đề xuất tên Nam Việt. Gia Khánh nhà Thanh công nhận tên Việt Nam.[6]
1839 – 1945

106 năm

Đại Nam 大南 Minh Mạng[7]
1887 – 1945

58 năm

Liên bang Đông Dương 聯邦東洋 Pháp thuộc -
Nhật Bản xâm lược Đông Dương
1945

1 năm

Đế quốc Việt Nam 帝國越南 Bảo Đại
1945 – 1976

31 năm

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 越南民主共和 Độc lập Hồ Chí Minh và Quốc hội Việt Nam khóa I[8]
1945 – 1954

9 năm

Liên bang Đông Dương 聯邦東洋 Chính phủ tồn tại trong Liên hiệp Pháp (1945-1954) Jean Marie Arsène Cédile (Ủy viên cộng hòa Pháp tại Nam Bộ) và Georges Thierry d'Argenlieu (Cao ủy Pháp tại Đông Dương)
1946 – 1948

2 năm

Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ 共和自治南圻
1949 – 1955

6 năm

Quốc gia Việt Nam 國家越南 Bảo Đại
1955 – 1975

20 năm

Việt Nam Cộng hòa 越南共和 Chính phủ song song, tồn tại trong chiến tranh Việt Nam Ngô Đình Diệm và Quốc hội Lập hiến Quốc gia Việt Nam
1969 – 1976

7 năm

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam 共和沔南越南 Chính phủ song song (1969 - 1975), kiểm soát nửa nam trên thực tế sau sự kiện 30/4/1975 Đại hội đại biểu Quốc dân miền Nam[9]
1976 – nay Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 共和社會主義越南 Độc lập, thống nhất từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Quốc hội Việt Nam khóa VI[8]

Tên gọi của các nhà nước/triều đại

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là danh sách tên gọi các nhà nước/triều đại từng tồn tại ở Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

Văn Lang

[sửa | sửa mã nguồn]

Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN rồi bị thay thế bởi Âu Lạc.

Âu Lạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱[10], 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và 1 phần Tây Nam Quảng Tây (Trung Quốc).

Khoảng cuối Thế kỷ 3 TCN, đầu Thế kỷ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN[11]), Triệu Đà (Quận úy Nam Hải – nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.

Lĩnh Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 40, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam (嶺南), đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng Nhị được bầu làm vương của Giao Chỉ, 6 quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có 1 vương gia. Năm 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.

Vạn Xuân

[sửa | sửa mã nguồn]

Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đình trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.

Đại Cồ Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 87 năm cho đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông thì đổi sang quốc hiệu khác.

Đại Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài nhất, dù bị gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.

Đại Ngu

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.

Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu vua Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", chứ không phải là từ "ngu" trong từ "ngu si" (愚癡).

Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt
Tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt

Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã dâng biểu đề nghị vua Gia Khánh nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.

Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 [1804] (nhà Thanh năm Gia Khánh thứ 9), mùa xuân, tháng Giêng, sứ nhà Thanh là Án sát Quảng Tây Tề Bố Sâm đến cửa Nam Quan. [Trước đó] mùa hạ năm Nhâm Tuất [1801], [Gia Long] sai Trịnh Hoài Đức vượt biển đưa những sắc ấn của Tây Sơn trả lại nhà Thanh. [Sau đó] lại sai Lê Quang Định sang xin phong và xin đổi quốc hiệu: "Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã quét sạch miền Nam, vỗ yên được toàn cõi Việt, nên khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt". Vua Thanh trước cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt nên không muốn cho... Vua Thanh gửi thư lại nói: "Khi trước mới có Việt Thường đã xưng Nam Việt, nay lại được toàn cõi An Nam, theo tên mà xét thực thì nên tóm cả đất đai mở mang trước sau, đặt cho tên tốt, định lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên [Việt Nam] xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa [Trung Quốc] lại phân biệt hẳn"... Ngày Quý Mão, làm đại lễ bang giao... Sứ giả nhà Thanh đến, vào điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong... Tháng 2, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh Sửu, đem việc cáo Thái miếu. Chiếu rằng: "... lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa".[12]

Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) nhiều lần nhắc đến 2 chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy 2 chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam). Vua Minh Mạng cũng nhắc đến việc quốc hiệu Việt Nam có trước thời các chúa Nguyễn:[13]

Vua bảo thị thần rằng : “Trẫm lúc còn nhỏ, nghe trong dân gian có câu ca dao nói về chúa Nguyễn Việt Nam (Lời ca rằng : Sinh đất Việt Nam, nhờ ơn chúa Nguyễn). Lời ca này xuất hiện từ trước đời các thánh (chỉ các chúa Nguyễn), bấy giờ nước ta còn gọi là An Nam; đến hoàng khảo Thế tổ Cao đế ta, sau khi đại định, mới đặt quốc hiệu là Việt Nam. Không biết lời ca ấy từ đâu mà ra. Có lẽ trời giúp nhà nước ta có cả toàn Việt, nên mới có ca dao phát ra trước để làm triệu chứng đó thôi”.

Đại Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ý 1 nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới là Đại Nam (hay Đại Việt Nam) vào ngày 15/2/1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.

Sách Quốc sử di biên chép: "Tháng 3, ngày 2 (Mậu Tuất, 1838, Minh Mạng thứ 19), bắt đầu đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tờ chiếu đại lược: [...] Vậy bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ 20 (1839) đổi quốc hiệu là Đại Nam, hoặc xưng là Đại Việt Nam cũng được".[14]

Đế Quốc Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17/4/1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trên thực tế, Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Việt Nam. Sau khi Đế Quốc Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14/8/1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trao lại chủ quyền Việt Nam cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 – 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 – 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2/9/1945 (Ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước để chính thức.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954 – 1975, chính thể này tiếp tục phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam. Tới năm 1976, chính thể này cùng với chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc gia Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc gia Việt Nam là danh xưng của 1 phần vùng lãnh thổ Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp (mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước), ra đời chính thức từ Hiệp ước Élysée ký ngày 8/3/1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Quốc gia Việt Nam trực thuộc khối Liên hiệp Pháp, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong suốt thời gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm năm 1946.

Danh xưng này tồn tại trong 6 năm (1949 – 1955). Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa.

Việt Nam Cộng hòa

[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam Cộng hòa là tên gọi của một chính thể được Ngô Đình Diệm thành lập tại miền Nam Việt Nam dưới sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, kế thừa Quốc gia Việt Nam (1949 – 1955). Trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đổi tên chính phủ Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa. Nó bị coi là một chính phủ bù nhìn do Hoa Kỳ khống chế.[15]

Ở miền Nam Việt Nam giai đoạn đó, chính thể này tồn tại song song với chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, và sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi đầu hàng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Cộng hòa miền Nam Việt Nam là 1 chính thể cũng ở miền Nam Việt Nam, tồn tại từ năm 1969-1976, tên đầy đủ là "Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam". Chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở là những cán bộ Việt Minh được giữ lại miền Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử thống đất nước dự kiến được tổ chức năm 1957 (theo Hiệp định Genève 1954 thì chỉ tập kết quân sự, các thành phần chính trị ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị tổng tuyển cử thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc). Cộng hòa miền Nam Việt Nam có mục tiêu chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hợp nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[16]

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi cuộc Tổng tuyển cử 1976 do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức để thống nhất đất nước về mặt chính trị, ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI quyết định thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.

Các danh xưng không chính thức

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là những danh xưng không rõ về tính xác thực, hoặc do nước ngoài sử dụng để chỉ vùng lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Những danh xưng không chính thức này được ghi nhận lại từ cổ sử, truyền thuyết hoặc từ các tài liệu nước ngoài từ trước năm 1945.

Xích Quỷ

[sửa | sửa mã nguồn]

Xích Quỷ (赤鬼), theo Việt Nam sử lược là quốc hiệu trong truyền thuyết về thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương.

Sách chép:

Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Nam Việt

[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Vấn đề chính thống của Nhà Triệu

Nam Việt (南越) là quốc hiệu thời nhà Triệu (204 TCN – 111 TCN). Nói chính xác thì đối tượng tranh cãi ở đây không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có đại diện cho nước Việt Nam ngày nay hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là quốc hiệu cũ của nước Việt,[17] nhưng từ thời Hậu Lê trở về sau, cũng như quan điểm chính thống hiện nay cho rằng quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa. Lý do không thể coi Nam Việt là của người Việt Nam vì: Triệu Đà là người Hán, quê ở huyện Chân Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc), nhân lúc nhà Tần suy loạn đã nổi lên lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt.

Các ý kiến cho rằng quốc hiệu này là của nước Việt có các nhận định của các học giả như Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên. Lê Văn Hưu nói: "Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được".

Ngô Sĩ Liên nói: "Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy".

Hoặc vua Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đã có ý định đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lý do đây là đất cũ của Nam Việt thời nhà Triệu.

An Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

An Nam (安南) là danh xưng của người nước ngoài và với cả người Việt Nam để chỉ lãnh thổ Việt Nam cho đến khoảng giữa thế kỷ 20.

Nguồn gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673 – 757 và 768 – 866).

Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu là "An Nam quốc vương" (kể từ năm 1164).

Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.

Thời kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lãnh thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả ba vùng Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine). Nhiều khi từ này được người Pháp dùng với ý miệt thị người Việt.

Các danh xưng thời Bắc thuộc và Pháp thuộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Các danh xưng này không được xem là quốc hiệu của Việt Nam vì các giai đoạn này Việt Nam bị nước ngoài đô hộ. Đây là tên gọi mà Trung Quốc và Pháp sử dụng để chỉ vùng lãnh thổ Việt Nam mà họ chiếm đóng.

Giao Chỉ

[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần I từ 111 TCN – 39 CN; thời Bắc thuộc lần 2 từ 43–203, và thời Bắc thuộc lần 4 từ 1407–1427. Tổng cộng khoảng 262 năm.

Giao Châu

[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2 từ 203 – 544 và thời Bắc thuộc lần 3 từ 602–679. Tổng cộng khoảng 420 năm.

An Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 679 – 757 và 766 – 866. Tổng cộng khoảng 180 năm.

Trấn Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 757 – 766. Tổng cộng khoảng 10 năm.

Tĩnh Hải quân

[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên gọi của Việt Nam cuối thời Bắc thuộc lần 3, thời kỳ tự chủ của Họ Khúc và thời kỳ độc lập của Nhà Ngô, từ 866 – 967. Tổng cộng khoảng 102 năm.

Liên bang Đông Dương

[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên gọi của Việt Nam, Campuchia và Lào (lúc bấy giờ Việt Nam bị chia thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) thời Pháp thuộc, từ 1887 – 1954. Tổng cộng khoảng 68 năm.

Tại các nước trên thế giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với nước ngoài, tên gọi "Việt Nam" thường được viết trong các ngôn ngữ dùng ký tự Latinh là Vietnam. Một số ngoại lệ như:

  • Tiếng Ba Lan: Wietnam
  • Tiếng Hawaii: Wiekanama
  • Tiếng Ireland: Vítneam
  • Esperanto: Vjetnamio
  • Tiếng Malta: Vjetnam
  • Tiếng Bồ Đào Nha: Vietname, tiếng Bồ Đào Nha Brasil: Vietnã

Trong các ngôn ngữ dùng hệ chữ viết khác:

  • Tại Trung Quốc và Đài Loan: 越南 (Yuènán, O̍at-lâm)
  • Tại bán đảo Triều Tiên: trước đây thường gọi theo âm Hán-Triều là 월남 (Wollam), nay tại Bắc Triều Tiên gọi là 윁남 (Wennam) và tại Hàn Quốc gọi là 베트남 (Beteunam)
  • Tại Nhật Bản: ベトナム (Betonamu), ヴェトナム (Vetonamu), ヴィエトナム (Vietonamu), ヴィエットナム (Viettonamu), hoặc theo âm Hán-Hòa là 越南 (hay えつなん) (Etsunan)
  • Tại Nga: Вьетнам (V'yetnam)
  • Tại Hy Lạp: Βιετνάμ (Byetnam)

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Danh sách các nước trên thế giới: quốc hiệu của các nước khác
  • Quốc kỳ Việt Nam
  • Quốc huy Việt Nam
  • Danh sách sinh vật định danh theo Việt Nam

Ghi chú

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Quốc hiệu Việt Nam qua lịch sử dựng nước”. Báo Nhân dân. 21 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ “Dựng nước Vạn Xuân lên ngôi hoàng đế”. Báo Công an nhân dân. 19 tháng 1 năm 2020.
  3. ^ “Đinh Tiên Hoàng đế người dựng nước Đại Cồ Việt”. VOV-Đài tiếng nói Việt Nam. 15 tháng 10 năm 2021.
  4. ^ “Đúng, sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt”. Vnexpress. 4 tháng 2 năm 2017.
  5. ^ “Quốc hiệu Đại Ngu thời nhà Hồ mang ý nghĩa gì?”. Báo Dân Việt. 5 tháng 5 năm 2020.
  6. ^ “Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào?”. Báo Quân đội nhân dân. 30 tháng 8 năm 2006.
  7. ^ “Vua Minh Mạng và việc đặt quốc hiệu Đại Nam”. Bảo tàng lịch sử quốc gia. 9 tháng 8 năm 2013.
  8. ^ a b “Quốc hội các khóa”. quochoi.vn. Truy cập 18 Tháng năm 2021.
  9. ^ “Bảo tàng Lịch sử Quốc gia”. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Truy cập 18 Tháng năm 2021.
  10. ^ Sử ký Tư Mã Thiên, Quyển 113, mục Nam Việt liệt truyện, chép: "且南方卑溼,蠻夷中閒,其東閩越千人眾號稱王,其西甌駱裸國亦稱王。" (Thả nam phương ti thấp, Man Di trung gian, kì đông Mân Việt thiên nhân chúng hiệu xưng Vương, kì tây Âu Lạc khỏa quốc diệc xưng Vương)
  11. ^ Đa phần sách sử Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm Định Việt Sử, Việt Sử Tiêu Án) đều chép là An Dương Vương mất nước năm 208 TCN, nhưng Sử Ký của Tư Mã Thiên - ra đời sớm hơn nhiều so với sử sách vủa Việt Nam - chép là "sau khi Lã hậu mất" (180 TCN), tức là khoảng năm 179 TCN
  12. ^ Đại Nam thực lục. Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007. Tập 01.
  13. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 168.
  14. ^ Phạm Thúc Trực: Quốc sử di biên, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, tr.337, Hà Nội, 2009.
  15. ^ From the overthrow of Diem to the Tet Offensive Vietnam: The war the U.S. lost Lưu trữ 2017-08-11 tại Wayback Machine, Joe Allen, International Socialist Review Issue 33, January–February 2004
  16. ^ VTV, BAO DIEN TU (9 Tháng hai 2016). “Kết quả tổng tuyển cử 1976 quyết định con đường thống nhất đất nước”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập 18 Tháng năm 2021.
  17. ^ Thời phong kiến chưa hình thành khái niệm dân tộc Việt và chủ nghĩa dân tộc Việt mà chỉ có khái niệm quốc gia Việt, thần dân nước Việt và chủ nghĩa quốc gia Việt, trung thành với vua là yêu nước, gắn liền với tư tưởng "trung quân ái quốc".

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược.
  • Đại Nam thực lục. Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tên_gọi_Việt_Nam&oldid=71933609” Thể loại:
  • Lịch sử Việt Nam
  • Danh sách (Việt Nam)
Thể loại ẩn:
  • Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
  • Trang thiếu chú thích trong bài

Từ khóa » đất Nước Việt Nam Có Từ Bao Giờ