Thái Nguyên – Wikipedia Tiếng Việt

Đối với các định nghĩa khác, xem Thái Nguyên (định hướng).
Thái Nguyên
Tỉnh
Tỉnh Thái Nguyên
Biểu trưng
Công viên Đội Cấn, trung tâm thành phố Thái Nguyên
Biệt danhXứ chè
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
Vùng
  • Đông Bắc Bộ (địa lý)
  • Vùng thủ đô Hà Nội (đô thị)
  • Vùng trung du và miền núi phía Bắc (kinh tế)
Tỉnh lỵThành phố Thái Nguyên
Trụ sở UBNDSố 18, đường Nha Trang, phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên
Phân chia hành chính3 thành phố và 6 huyện
Thành lập
  • 4/11/1831
  • 1/1/1997: tái lập
Đại biểu Quốc hội7 đại biểu
Tổ chức lãnh đạo
Chủ tịch UBNDNguyễn Huy Dũng
Hội đồng nhân dân66 đại biểu
Chủ tịch HĐNDPhạm Hoàng Sơn
Chủ tịch UBMTTQDương Văn Tiến
Chánh án TANDNguyễn Văn Chung
Viện trưởng VKSNDPhùng Đức Tiến
Bí thư Tỉnh ủyTrịnh Việt Hùng
Địa lý
Tọa độ: 21°33′51″B 105°52′46″Đ / 21,564225°B 105,879364°Đ / 21.564225; 105.879364
MapBản đồ tỉnh Thái Nguyên
Vị trí tỉnh Thái Nguyên trên bản đồ Việt Nam
Vị trí tỉnh Thái Nguyên trên bản đồ Việt Nam
Vị trí tỉnh Thái Nguyên trên bản đồ Việt Nam
Diện tích3.521,96 km²[1][2]
Dân số (2022)
Tổng cộng1.336.000 người[3]
Thành thị525.600 người (39,34%)[4]
Nông thôn810.400 người (60,66%)[5]
Mật độ376 người/km²[6]
Dân tộcChủ yếu là dân tộc Kinh, Tày, Người Sán Chí...
Kinh tế (2022)
GRDP147.991 tỉ đồng (6,43 tỉ USD)
GRDP đầu người112,4 triệu đồng (4.831 USD)
Khác
Mã địa lýVN-69
Mã hành chính19[7]
Mã bưu chính25xxxx
Mã điện thoại208
Biển số xe20
Websitethainguyen.gov.vn
  • x
  • t
  • s

Thái Nguyên là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, tỉnh lỵ là thành phố Thái Nguyên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 75 km, và là tỉnh nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội.

Năm 2023, Thái Nguyên là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 25 về số dân, xếp thứ 14 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). GRDP đạt 150.195 tỉ Đồng (tương ứng với 6,3 tỉ USD) đứng thứ 2 vùng Trung du và miền núi phía Bắc (sau tỉnh Bắc Giang, đứng thứ 6 vùng thủ đô sau Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và Vĩnh Phúc. GRDP bình quân đầu người đạt trên 115 triệu đồng (tương ứng với 4.560 USD) đứng đầu vùng trung du và miền núi phía bắc, nằm trong top 12 tỉnh thành có GRDP đầu người cao nhất cả nước. Tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2023 đạt 5,56 %.[8]

Thái Nguyên hiện là tỉnh duy nhất trong khu vực trung du miền núi phía bắc nhằm trong nhóm 18 tỉnh thành phố tự cân đối thu chi ngân sách và cũng là tỉnh thu ngân sách đứng đầu vùng.

Thái Nguyên cũng là tỉnh duy nhất của khu vực trung du miền núi phía Bắc nằm trong Top 10 tỉnh thành phố có mức thu nhập bình quân đầu người GNI cao nhất cả nước năm 2020 (với 12.960 USD).

Tính sơ bộ đến năm 2020, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.307.871 người, là tỉnh đông dân thứ 25 toàn quốc và đứng thứ 3 các tỉnh trong vùng Trung du miền núi phía Bắc. Sau 10 năm dân số tỉnh Thái Nguyên tăng 163.635 người, tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,36%/năm. Tính từ thời điểm tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2019 thì hết năm 2020 dân số tỉnh Thái Nguyên tăng thêm 21.120 người.

Tỉnh có 434.111 người người cư trú ở khu vực thành thị, chiếm 32% tổng dân số; 876.484 người cư trú ở khu vực nông thôn, chiếm 68%, tổng dân số của tỉnh. Năm 2019, tỷ lệ dân số sống ở thành thị của tỉnh đứng thứ 18 so với cả nước và đứng đầu trong số các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, đứng thứ hai trong vùng Thủ đô (chỉ sau Thành phố Hà Nội). Theo kết quả của tổng điều tra dân số nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, Thái Nguyên là địa phương đứng thứ 3 cả nước về tỷ lệ sở hữu ô tô cá nhân trên hộ dân với tỷ lệ 10,3%, chỉ xếp sau Hà Nội và Đà Nẵng[9] và đây cũng là tỉnh có tỉ lệ số hộ gia đình sử dụng điện thoại đứng thứ 3 cả nước, chỉ xếp sau Thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau.[9]

Theo kết quả Chỉ số cải cách hành chính (PCI) năm 2019 của các tỉnh, thành phố, Thái Nguyên xếp vị trí thứ 12/63 với tổng số 67,71 điểm, tăng 6 bậc so với năm 2018. Đứng đầu vùng Trung du miền núi phía Bắc.

Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (Chỉ số PAPI) năm 2020, tỉnh Thái Nguyên đạt tổng điểm 46.471, thuộc nhóm 16 tỉnh đạt điểm cao nhất (đứng thứ 3 cả nước), sau tỉnh Quảng Ninh (48.811 điểm) và tỉnh Đồng Tháp (46.961 điểm). 6/8 chỉ số nội dung PAPI của tỉnh nằm trong nhóm đạt điểm cao nhất. Cụ thể: Chỉ số Thủ tục hành chính công đạt 7.656 điểm; Chỉ số kiểm soát tham nhũng trong khu vực công đạt 7.278 điểm; Chỉ số công khai, minh bạch trong việc ra quyết định đạt 6.322 điểm; Chỉ số tham gia của người dân cấp cơ sở đạt 6.216 điểm; Chỉ số trách nhiệm giải trình với người dân đạt 5.335 và Chỉ số quản trị điện tử đạt 3.463 điểm. Thái Nguyên cũng là tỉnh duy nhất có tới 6 chỉ số nội dung tăng điểm phần trăm so với năm 2019.

Thái Nguyên cùng với Bình Dương, Bắc Ninh, Đồng Nai và Bắc Giang nằm trong nhóm 5 tỉnh thành được các doanh nghiệp đánh giá có cơ sở hạ tầng tốt nhất năm 2019 vừa qua, cũng là những trung tâm công nghiệp lớn của cả nước.

Thái Nguyên là trung tâm kinh tế, chính trị - xã hội của khu vực đông bắc hay cả vùng Trung du và miền núi phía bắc. Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997 với việc tách tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thái Nguyên nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội, một trung tâm kinh tế đang phát triển ở miền Bắc. Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn của cả nước với quy mô tổng cộng hàng chục trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, các Viện Nghiên cứu.

Thái Nguyên cũng là một địa bàn chiến lược về quốc phòng, là nơi đóng trụ sở Bộ tư lệnh, cùng nhiều cơ quan khác của Quân khu 1.

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

"Thái Nguyên" là từ Hán Việt: (太wikt). Thái (太) ở đây có nghĩa là to lớn hay rộng rãi, Nguyên (原) có nghĩa là cánh đồng hoặc chỗ đất rộng và bằng phẳng.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Nguyên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 75 km, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 200 km, cách biên giới Việt Nam - Trung Quốc khoảng 200 km, có vị trí địa lý:

  • Phía đông giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang
  • Phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Tuyên Quang
  • Phía nam giáp thủ đô Hà Nội
  • Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn.

Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế và giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.

Các điểm cực của tỉnh Thái Nguyên:

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Điểm cực bắc tại: vùng núi Tân Trào, xã Linh Thông, huyện Định Hóa.
  • Điểm cực đông tại: khu Lân Thùng, xã Phương Giao, huyện Võ Nhai.
  • Điểm cực nam tại: tổ dân phố Phù Lôi, phường Thuận Thành, thành phố Phổ Yên.
  • Điểm cực tây tại: vùng núi gần với đèo Khế, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ.

Địa chất

[sửa | sửa mã nguồn]
Hang Phượng Hoàng trên địa bàn huyện Võ Nhai

Khu vực tây bắc Thái Nguyên bao gồm huyện Định Hóa và các xã phía tây của hai huyện Phú Lương, Đại Từ có lịch sử hình thành sớm nhất, thuộc chu kỳ kiến tạo sơn Caledonia bắt đầu cách đây 480 triệu năm và được hình thành xong trong đại cổ sinh cách đây 225 triệu năm. Các khu vực núi còn lại của Thái Nguyên có lịch sử địa chất trẻ hơn. Phần lớn lãnh thổ Thái Nguyên có lịch sử hình thành suốt trung sinh (bắt đầu từ cách đây 240 triệu năm và kết thúc cách đây 67 triệu năm, kéo dài trong khoảng 173 triệu năm).[10]

Sau khi được hình thành xong (cách đây 67 triệu năm), lãnh thổ Thái Nguyên ngày nay tồn tại dưới chế độ lục địa liên tục 50 triệu năm. Với thời gian này, địa hình Thái Nguyên ngày nay được san bằng và trở thành bình nguyên. Đến kiến tạo sơn Hymalaya cách đây khoảng 25 triệu năm, do vận động nâng lên mãnh liệt, Thái Nguyên cũng được nâng cao từ 200 đến 500m, làm cho địa hình trẻ lại. Những miền được nâng cao có địa hình bị cắt xẻ, các vật liệu trầm tích trẻ, mềm bị ngoại lực bóc mòn, các núi cổ được cấu tạo bằng nham thạch cổ hơn, cứng hơn lại lộ ra, tái lập lại địa hình như lúc mới hình thành xong (cuối trung sinh).[10]

Địa hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ địa hình, địa mạo tỉnh Thái Nguyên năm 2008, được trích trong sách Địa lí tỉnh Thái Nguyên lớp 9, năm 2008

Địa hình tỉnh Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp, thấp dần từ bắc xuống nam. Diện tích đồi núi cao trên 100m chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh, còn lại là vùng có độ cao dưới 100m.

Núi của Thái Nguyên không cao lắm và đều là phần phía nam của các dãy núi cánh cung Ngân Sơn, Bắc Sơn. Địa hình cao hơn cả là dãy núi Tam Đảo, có đỉnh cao nhất 1590m; sườn đông dãy núi Tam Đảo thuộc địa phận phía tây nam của tỉnh Thái Nguyên (gồm các xã phía tây huyện Đại Từ) có độ cao trên dưới 1000m rồi giảm nhanh xuống thung lũng sông Công và vùng hồ Núi Cốc.

Phía đông tỉnh, địa hình cũng chỉ cao 500m-600m, phần nhiều là các khối núi đá vôi với độ cao sàn sàn như nhau.

Phía nam tỉnh, địa hình thấp hơn nhiều, có một số núi thấp nhô lên khỏi các vùng đồi thấp. Vùng trung du ở phía nam và vùng đồng bằng phù sa các con sông đều cao dưới 100m.

Địa hình tỉnh Thái Nguyên dốc theo hướng bắc-nam phù hợp với hướng chảy của sông Cầu. Phía hữu ngạn sông Cầu có hướng dốc tây bắc-đông nam, phía tả ngạn sông Cầu (trừ phần đông nam huyện Võ Nhai) dốc theo hướng đông bắc-tây nam. Thái Nguyên có 4 nhóm cảnh quan hình thái địa hình với các đặc trưng khác nhau đó là:

  • Nhóm cảnh quan địa hình đồng bằng.
  • Nhóm cảnh quan hình thái gò đồi.
  • Nhóm cảnh quan hình thái địa hình núi thấp.
  • Nhóm cảnh quan địa hình nhân tác. (Thái Nguyên chỉ có kiểu các hồ nước nhân tạo, rộng lớn nhất là hồ Núi Cốc).

Nhìn chung địa hình Thái Nguyên không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nói chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.

Thủy văn

[sửa | sửa mã nguồn]

Sông Cầu là con sông chính của tỉnh và gần như chia Thái Nguyên ra thành hai nửa bằng nhau theo chiều bắc nam. Sông bắt đầu chảy vào Thái Nguyên từ xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ và đến địa bàn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, sông trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang và sau đó hoàn toàn ra khỏi địa bàn tỉnh ở xã Thuận Thành, thành phố Phổ Yên. Ngoài ra Thái Nguyên còn có một số sông suối khác nhưng hầu hết đều là phụ lưu của sông Cầu. Trong đó đáng kể nhất là sông Đu, sông Nghinh Tường và sông Công. Các sông tại Thái Nguyên không thuộc lưu vực sông Cầu là sông Rang và các chi lưu của nó tại huyện Võ Nhai, sông này chảy sang huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn và thuộc lưu vực sông Thương. Ngoài ra, một phần diện tích nhỏ của huyện Định Hóa thuộc thượng lưu sông Đáy. Ô nhiễm nguồn nước là một vấn đề đáng quan tâm, nhất là tình trạng ô nhiễm trên sông Cầu.[11]

Ngoài đập sông Cầu, Thái Nguyên còn xây dựng một hệ thống kênh đào nhân tạo dài 52 km ở phía đông nam của tỉnh với tên gọi là Sông Máng, nối liền sông Cầu với sông Thương để giúp việc giao thông đường thủy và dẫn nước vào đồng ruộng được dễ dàng.

Thái Nguyên không có nhiều hồ, và nổi bật trong đó là Hồ Núi Cốc, đây là hồ nhân tạo được hình thành do việc chặn dòng sông Công. Hồ có độ sâu 35 m và diện tích mặt hồ rộng 25 km², dung tích của hồ ước tính từ 160 triệu - 200 triệu m³. Hồ được tạo ra nhằm các mục đích cung cấp nước, thoát lũ cho sông Cầu và du lịch. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du lịch trọng điểm quốc gia.[12]

Cơ cấu đất đai

[sửa | sửa mã nguồn]
Sông Công

Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm các loại sau:

  • Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200 m, hình thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích. Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để trồng cây ăn quả, một phần cây lương thực cho nhân dân vùng cao.
  • Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên sa thạch, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương... ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200 phù hợp đối với cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây trà (một đặc sản của Thái Nguyên).
  • Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán...) khó khăn cho việc canh tác.

Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm 69,22% diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha (chiếm 30,78% diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp.

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:

  • Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
  • Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ Nhai.
  • Vùng ấm gồm: Thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông Công, thành phố Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.

Nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là 21,5 - 23 °C (tăng dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam); chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9 °C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tại thành phố Thái Nguyên, nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng được ghi nhận lần lượt là 41,5 °C và 3 °C.[13] Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ (giảm dần từ Đông sang Tây) và phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển ngành nông, lâm nghiệp.

Đơn vị hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ hành chính tỉnh Thái Nguyên (trước năm 2008)

Tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị cấp huyện trực thuộc, bao gồm 3 thành phố và 6 huyện với 177 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 41 phường, 10 thị trấn và 121 xã.[14]

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thái Nguyên[15]
Tên Dân số (người; 1/4/2021) Phân chia hành chính
Thành phố (3)
Thái Nguyên 340.403 21 phường, 11 xã
Phổ Yên 231.363 13 phường, 5 xã
Sông Công 128.357 7 phường, 3 xã
Tên Dân số (người; 1/4/2021) Phân chia hành chính
Huyện (6)
Đại Từ 171.703 2 thị trấn, 25 xã
Định Hóa 89.288 1 thị trấn, 21 xã
Đồng Hỷ 92.421 3 thị trấn, 11 xã
Phú Bình 165.579 1 thị trấn, 19 xã
Phú Lương 102.292 2 thị trấn, 12 xã
Võ Nhai 69.792 1 thị trấn, 14 xã

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Lịch sử hành chính Thái Nguyên

Thời tiền sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ xa xưa, Thái Nguyên đã là nơi sinh sống của người Việt cổ. Trên địa bàn hang Ốc thuộc xã Bình Long, huyện Võ Nhai đã tìm được dấu tích của người tiền sử có niên đại ít nhất cách đây từ 7000 đến 8000 năm với những vỏ ốc bị chặt đuôi, xương động vật là những tàn tích thức ăn của người xưa. Từ những năm 1980, cũng tại huyện Võ Nhai, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra dấu tích của người Việt cổ tại khu vực Mái Đá Ngườm thuộc xã Thần Sa.[16] Hàng chục ngàn hiện vật từ các hang Phiêng Tung, Mái đá Hạ Sơn I, Hạ Sơn II, hang Thắm Choong, Nà Ngùn và Mái Đá Ranh...ở Thần Sa, với những công cụ cuội được ghè đẽo như: Mảnh tước, rìu tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa, công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ hình sừng bò... Đặc biệt. các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 bộ xương người cổ được mai táng ở Mái Đá Ngườm, xóm Kim Sơn. Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa với 4 địa tầng văn hóa khảo cổ, trong đó tầng thứ tư tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ.[17]

Thời kỳ hình thành nhà nước và Bắc thuộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời các vua Hùng, Thái Nguyên thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 bộ của nước Văn Lang, nằm dưới sự cai quản của chế độ lạc tướng. Khoảng đầu công nguyên, chế độ lạc tướng chấm dứt, bộ chuyển thành huyện, tên Vũ Định vẫn được giữ nguyên. Dưới thời Nhà Triệu, Thái Nguyên nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ. Đến đời Đường, Thái Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga, thuộc An Nam đô hộ phủ.

Thời nhà Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần

[sửa | sửa mã nguồn]
Đền Đuổm thờ Dương Tự Minh

Dưới triều Đinh, Tiền Lê (TK X), đất nước được chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, 10 đạo được đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên nằm trong các châu biên viễn. Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên đã trở thành phên giậu trực tiếp che chở phía bắc kinh thành. Dưới thời Nhà Lý, Thái Nguyên có một danh tướng nổi tiếng, từng 2 lần được vua gả công chúa cho, được dân gian tôn sùng là Đức Thánh Đuổm (xem thêm bài Dương Tự Minh). Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống năm 1076-1077, phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan quân Nhà Lý với Nhà Tống. Dưới thời Nhà Trần, đầu năm 1226, châu được đổi thành lộ, Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt Giang lộ. Năm 1397, Nhà Trần đổi châu Thái Nguyên thành trấn Thái Nguyên (tương đương với tỉnh ngày nay).

Thời thuộc Minh

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thuộc Minh (1407-1427), trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên lệ thuộc vào ty Bố Chính. Năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính ty, gồm 3 phủ: Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa. Cũng trong thời gian bị Nhà Minh cai trị, dân chúng Thái Nguyên lại liên tiếp đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, người huyện Đại Từ, ông cùng cha và anh rể đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.

Thời Lê sơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1428, Nhà Lê sơ được thành lập, Lê Thái Tổ chia đất nước làm 5 đạo, Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm 1466, Lê Thánh Tông chia lại 5 đạo thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên là Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm 1467, Nhà Lê tiến hành điều tra địa hình, địa giới, hoàn thành lập bản đồ quốc gia Đại Việt vào năm 1469. Cùng thời gian này, Thái Nguyên Thừa Tuyên được đổi thành Ninh Sóc Thừa Tuyên, gồm 3 phủ: Phú Bình, Thông Hóa, Cao Bằng. Đến năm 1483, Ninh Sóc Thừa Tuyên đổi thành xứ Thái Nguyên. 1533 lại đổi xứ thành trấn Thái Nguyên. Năm 1677, phủ Cao Bằng tách khỏi trấn Thái Nguyên thành trấn Cao Bằng. Thủ phủ trấn Thái Nguyên lúc này đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc (Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay).

Thời nhà Nguyễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới thời Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1813, sau khi huyện Thiên Phúc tách khỏi trấn Thái Nguyên nhập về Bắc Ninh. Thủ phủ trấn Thái Nguyên được chuyển về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên). Năm 1831, 1832, Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1836, tỉnh Thái Nguyên có 3 phủ, 9 huyện và 2 châu.

Thời thuộc Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh lỵ Thái Nguyên năm 1909
Bản đồ tỉnh Thái Nguyên năm 1891

Dưới thời Pháp thuộc, từ năm 1890, chính quyền thực dân tách huyện Bình Xuyên khỏi tỉnh Thái Nguyên để thành lập tỉnh Vĩnh Yên và thực thi chế độ quân quản, chia nhỏ Thái Nguyên nhập vào các tiểu quân khu thuộc các đạo quan binh. Như vậy, từ tháng 10/1890 - 9/1892 tỉnh Thái Nguyên bị xóa bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dưới quyền quản lý của giới cầm quyền quân sự Pháp.

Bản đồ tỉnh Thái Nguyên năm 1909

Theo các Nghị định của toàn quyền Đông Dương ký vào các ngày 10 và 15/10/1892, các địa hạt đã bị phân tán (trừ huyện Bình Xuyên) trở về với tỉnh Thái Nguyên, đặt dưới quyền cai trị của một Công sứ. Đến 12/6/1894, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đưa các châu Cảm Hóa, Chợ Rã vào tiểu quân khu Cao Bằng thuộc Đạo Quan binh II, đồng thời tổ chức một đơn vị là Tiểu quân khu Cai Kinh gồm 13 tổng, trong đó có 5 tổng tách từ Thái Nguyên sang. 11/4/1900, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Bắc Cạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thông Hóa của Thái Nguyên[18].

Khởi nghĩa Thái Nguyên Vào 11 giờ đêm 30-8-1917, Đội Trường và một lính thân tín bắt đầu hành sự: Giết tên Giám binh Noel-chỉ huy Trại lính khố xanh và Ba Chén; chém đầu viên phó quản Lạp-tay sai đắc lực của Giám binh. Hai thủ cấp của chúa Trại được dâng lên Lễ tế cờ. Liền đó, Đội Cấn tuyên đọc tờ Hịch thứ nhất, chính thức phát động cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên.

Hạt nhân của quân khởi nghĩa gồm 131 người trong tổng số 175 binh lính ở Trại lính khố xanh (có 30 người bỏ trốn, 10 người già yếu xin nộp súng về nhà...). Đội Cấn trở thành "Thái Nguyên Quang phục quân Đại đô đốc" ra lệnh ngay cho Đội Giá dẫn hơn 100 binh lính chia thành nhiều toán đi sang Nhà lao Thái Nguyên (ở cách Trại lính khố xanh khoảng 400m về phía đông bắc) phá ngục, cứu tù.

Đội Cấn

Tại đây, quân khởi nghĩa đã giết chết được tên cai ngục Lô-ép (Loew) và mở cửa nhà lao cho tù nhân chạy trốn về Trại lính khố xanh, giữa những làn đạn từ phía "Trại lính Tây" của chủ lực quân sự Pháp đóng ở Thái Nguyên, cách nhà lao 200m, thấy "có biến" đã bắn xối xả tới. 180 tù nhân-có người bị tra tấn thành tàn tật, phải bò lết-thoát thân được về trại lính. Riêng thủ lĩnh Lương Ngọc Quyến-bị liệt nửa người-nhờ có đồng đội cõng chạy, nên cũng thoát được khỏi tù. Liền sau đấy, nghĩa quân đã triển khai lực lượng đánh chiếm được nhiều vị trí khác ở tỉnh lỵ Thái Nguyên, như: Dinh Công sứ; các công sở: Lục lộ, Điền bạ, Tòa án, Nhà đoan; Kho vũ khí: Lấy được 92 súng "mút-cơ-tông", 75 súng trường, 1 súng lục, 15 thanh kiếm, hơn 62 nghìn viên đạn; Nhà Bưu điện; Kho bạc... Trong vòng nửa đêm (30-8-1917) và một ngày (31-8-1917) chưa đầy 24 giờ đồng hồ, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 đã thành công chấn động. Không chỉ chiếm được tỉnh lỵ và làm chủ tỉnh chiến lược Thái Nguyên, cuộc khởi nghĩa còn thành lập được quân đội (lấy tên là "Quang phục quân Thái Nguyên") gồm 623 người (trong đó: 131 lính khố xanh, 180 tù nhân được giải phóng, 312 công nhân và nông dân yêu nước trong tỉnh đến gia nhập) do Trịnh Văn Cấn làm "Đại đô đốc", Lương Ngọc Quyến làm "Quân sư". Cuộc khởi nghĩa đã tuyên bố đặt quốc hiệu là "Đại Hùng", định quốc kỳ là "cờ Ngũ Tinh" (nền vàng có 5 ngôi sao đỏ) với hàng chữ "Nam binh phục quốc". Hình ảnh của một quốc gia độc lập với quốc kỳ, quốc hiệu và quân đội từng xiết bao mơ ước, vậy là đã thu nhỏ mà huy hoàng xuất hiện và hiên ngang tồn tại, giữa thời Pháp thuộc đen tối, ở tỉnh lỵ Thái Nguyên trong vòng 132 tiếng đồng hồ (từ đêm 30-8-1917 đến trưa 5-9-1917). Đấy cũng là thời gian mà nghĩa quân đã căng thẳng chuẩn bị và anh dũng chiến đấu, chống lại cuộc đại phản kích và đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp vào địa bàn trung tâm của cuộc khởi nghĩa. Và, sau buổi trưa 5-9-1917, quyết định rút lực lượng khởi nghĩa ra khỏi tỉnh lỵ Thái Nguyên, nghĩa quân vẫn còn có 4 tháng 11 ngày, kiên trì và quyết liệt kéo dài cuộc chiến đấu oanh liệt vì độc lập, tự do của dân tộc và đất nước, trên địa bàn các tỉnh, từ Thái Nguyên đến Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên, cho đến ngày 10-1-1918, hy sinh đến người cuối cùng.

Thủ đô kháng chiến

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động, phát triển lực lượng ở Thái Nguyên. Năm 1947, Hồ Chí Minh đã tới Thái Nguyên và lãnh đạo cuộc Kháng chiến chống Pháp từ căn cứ chính tại ATK Định Hóa. Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Chiến cục đông-xuân 1953-1954 cũng như quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và hàng loạt sự kiện quan trọng khác.

Giai đoạn 1954–1965

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Thái Nguyên là một trong sáu tỉnh thuộc Khu tự trị Việt Bắc mới thành lập[19], thị xã Thái Nguyên là thủ phủ Khu tự trị Việt Bắc. Riêng huyện Phổ Yên lúc này được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc và huyện Phú Bình được sáp nhập vào tỉnh Bắc Giang, tuy nhiên một năm sau hai huyện này lại được chuyển trở lại tỉnh Thái Nguyên thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Khu tự trị Việt Bắc tồn tại đến cuối năm 1975 thì bị giải thể.

Ngày 19 tháng 10 năm 1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 114-CP về việc thành lập thành phố Thái Nguyên.[20]

Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Quyết định số 103-NQ-TVQH, hợp nhất hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái.[21]

Thái Nguyên sau khi tái lập tỉnh (1997–nay)

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.[22]

Sau khi tái lập, tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Thái Nguyên (tỉnh lỵ), thị xã Sông Công và 7 huyện: Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai.

Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thành phố Sông Công trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sông Công, thành lập thị xã Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.[23]

Ngày 10 tháng 4 năm 2022, thành lập thành phố Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phổ Yên.[24]

Tỉnh Thái Nguyên có 3 thành phố và 6 huyện như hiện nay.

Kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Một góc KCN Yên Bình - thành phố Phổ Yên
Trụ sở Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG - một trong những Doanh nghiệp thuộc lĩnh vực may mặc hàng đầu Việt Nam có trụ sở chính và nhiều nhà máy tại Tỉnh Thái Nguyên.
Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên
Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDPBài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người

Thái Nguyên thuộc Vùng trung du và miền núi phía bắc, một vùng được coi là nghèo và chậm phát triển nhất tại Việt Nam.[25] Tuy vậy, Thái Nguyên lại có nền kinh tế phát triển từ rất sớm, trong đó công nghiệp đóng vai trò chủ yếu. Là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền bắc.

Công ty TNHH Một thành viên Tài nguyên Masan Thái Nguyên (MRTN) đang khai thác tại mỏ Núi Pháo, một trong những mỏ wolfram lớn nhất thế giới với trữ lượng quặng tiềm năng đã được chứng minh là 66 triệu tấn

Trong năm 2023, kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục chuyển biến tích cực dù: Tăng trưởng kinh tế đạt trên 5.56%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 5.13%; xuất khẩu ước đạt 27.1 tỷ USD. Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực là tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt gần 68 nghìn tỷ đồng, tăng 19.8% so với cùng kỳ; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 62 nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2023 ước đạt 20 nghìn tỷ đồng, tiếp tục dẫn đầu vùng trung du miền núi phía bắc, là tỉnh duy nhất trong khu vực trung du miền núi phía bắc nhằm trong nhóm 18 tỉnh thành phố tự cân đối thu chi ngân sách,[26] đạt kế hoạch đề ra, tăng 4.7% so với cùng kỳ; tổng chi ngân sách địa phương đạt 18,162 nghìn tỷ đồng, bằng 35,9% so với cùng kỳ.

Năm 2023, tỉnh Thái Nguyên phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 5.56%.

Tính đến tháng 12/2023, trên địa bàn tỉnh có gần 10.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 143.541 nghìn tỷ đồng; các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút được gần 900 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký còn hiệu lực khoảng 162.710 nghìn tỷ đồng và hơn 200 dự án ngoài nước (FDI) với tổng số vốn đăng ký gần 10.58 tỷ USD, thu hút được trên 120.000 lao động, với thu nhập bình quân gần 9 triệu đồng/tháng.

Thái Nguyên có tổ hợp Samsung với 2 nhà máy SEVT và SEMV với tổng mức đầu tư hơn 7 tỉ đô la Mỹ tại Khu công nghiệp Yên Bình. Khu tổ hợp này đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của Thái Nguyên ngày nay. Cùng với đó, tổ hợp khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo (gần 01 tỷ USD), dự án Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc và các dự án xây dựng cấp bách hệ thống chống lũ lụt Sông Cầu kết hợp hoàn thiện hạ tầng đô thị hai bên bờ Sông Cầu cùng nhiều dự án công nghiệp hiện đại khác đã mang lại diện mạo mới cho công nghiệp Thái Nguyên, trước kia vốn chỉ dựa vào khu công nghiệp Gang Thép được thành lập năm 1959, là nơi đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam có dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến sản xuất gang, phôi thép và cán thép.

Hiện Thái Nguyên đã và đang triển khai các khu công nghiệp sau:

  • KCN Gang Thép (160ha - là KCN đầu tiên của Thái Nguyên)
  • KCN Sông Công (320ha);
  • KCN Sông Công I (220ha);
  • KCN Sông Công II (250ha - đang triển khai, hiện đang mở rộng lên 450ha) thuộc thành phố Sông Công;
  • KCN Yên Bình I (200ha)
  • KCN Yên Bình II (Đang triển khai)
  • KCN Nam Phổ Yên (200 ha),
  • KCN Tây Phổ Yên (200ha) thuộc thành phố Phổ Yên;
  • KCN Điềm Thuỵ A (180ha) thuộc huyện Phú Bình
  • KCN Điềm Thuỵ B (170ha) thuộc huyện Phú Bình
  • KCN Quyết Thắng (200ha - đang triển khai) thuộc thành phố Thái Nguyên[27][28]
  • KCN Phú Bình (675 ha - đang triển khai) thuộc địa bàn xã Tân Hoà, Tân Thành và Thị trấn Hương Sơn huyện Phú Bình.
  • CCN Le Mont Xuân Phương (75 ha) thuộc địa bàn xã Xuân Phương, huyện Phú Bình.

Ngoài ra, Thái Nguyên hiện đang triển khai xây dựng Khu công nghệ thông tin tập trung Yên Bình có diện tích 545,82ha nằm trên địa bàn thành phố Phổ Yên và huyện Phú Bình. Tổng mức đầu tư chỉ riêng hạ tầng của dự án này dự kiến là 4.232 tỷ đồng.Thời gian triển khai từ 2020-2025.

Thái Nguyên cũng quy hoạch một số cụm công nghiệp tại nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh. Đến hết năm 2019 đã có 23 cụm công nghiệp được phê duyệt quy hoạch chi tiết với diện tích hơn 763 ha (7.63 km²), trong đó diện tích đất công nghiệp là 407,6 ha (4,076 km²). Theo Đề án điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, sẽ hình thành 35 CCN với tổng diện tích 1.259 ha.[29] Tuy nhiên nhà ở cho công nhân cũng là một vấn đề nan giải khi mà trong năm 2019 Thái Nguyên có khoảng 120.000 công nhân, trong đó có tới 43.045 người có nhu cầu về nhà ở.

Trung bình hàng năm (từ 2016-2019) tỉnh đã giải quyết bình quân mỗi năm trên 22 nghìn lao động có việc làm ổn định. Đến hết năm 2019, tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 68,6%, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 4,38%.

Thái Nguyên có tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại, là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng. Tỉnh Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước, than mỡ trữ lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn; kim loại màu có thiếc, chì, kẽm, wolfram, vàng, đồng, niken, thủy ngân... Khoáng sản vật liệu xây dựng cũng là tiềm năng nguyên liệu rất lớn để sản xuất xi măng, sản xuất đá ốp lát các loại và sản xuất vật liệu xây dựng. Riêng mỏ Núi Pháo trên địa bàn các xã phía đông của huyện Đại Từ được các cơ quan chuyên môn đánh giá có trữ lượng Wolfram khoảng 21 triệu tấn, lớn thứ 2 trên thế giới sau một mỏ tại Trung Quốc, ngoài ra mỏ còn có trữ lượng fluor lớn nhất thế giới khoảng 19,2 triệu tấn, và trữ lượng đáng kể bismuth, đồng, vàng và một số kim loại khác.[30]

Nhìn chung, ngoài các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI đang triển khai trên địa bàn, các doanh nghiệp, tập đoàn địa phương của Thái Nguyên cũng tương đối mạnh và đa dạng ngành nghề, từ kinh doanh sắt thép, nguyên vật liệu cho tới bất động sản, khai khoáng, may mặc, hàng tiêu dùng. Trong danh sách top 500 thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2019, Thái Nguyên đóng góp tới 6 doanh nghiệp (nếu không tính SAMSUNG ELECTRONICS VIỆT NAM THÁI NGUYÊN) và đều có thứ hạng cao trong danh sách.

Hệ thống các Trung tâm thương mại, chợ trên địa bàn tỉnh
Trung tâm thương mại GO! Thái Nguyên

Trong vòng 5 năm gần đây, hàng nghìn tỷ đồng đã được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các TTTM, siêu thị, dịch vụ lưu trú cao cấp trên địa bàn tỉnh. Nhờ vậy, cơ sở hạ tầng thương mại không ngừng được hoàn thiện theo hướng hiện đại. Trong đó, mô hình TTTM, siêu thị ngày càng gia tăng về số lượng, quy mô và chất lượng.

Các TTTM có quy mô tương đối lớn tại Thái Nguyên gồm:

  • Trung tâm thương mại Go! Thái Nguyên (Big C Thái Nguyên): 36.000m2, do tập đoàn Central Retail (Thái Lan) đầu tư xây dựng, hiện là TTTM quy mô lớn nhất đang hoạt động tại TP. Thái Nguyên cũng như vùng Trung du miền núi phía Bắc.
  • Trung tâm thương mại VINCOM PLAZA Thái Nguyên
    Trung tâm thương mại Vincom Plaza Thái Nguyên: 13.500m2, do tập đoàn VinGroup đầu tư xây dựng từ năm 2018.
  • Trung tâm thương mại Phú Quý Thăng Long : 6.238m2, do công ty TNHH Phú Quý Thăng Long đang xây dựng từ cuối năm 2021
  • Trung tâm thương mại Đông Á Plaza.
  • Trung tâm thương mại Đồng Quang Plaza.
  • Trung tâm thương mại Kim Thái Plaza.
  • Trung tâm thương mại Hoàng Gia Plaza.
  • Trung tâm thương mại Danko Plaza: Hiện đang xây dựng trên địa bàn TP. Thái Nguyên (Khu đô thị Danko).

Các TTTM này đều được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại với nhiều công năng sử dụng, như: Tổ hợp nhà hàng, khách sạn, cơ sở kinh doanh dịch vụ, hội trường, phòng họp, cửa hàng, văn phòng cho thuê...

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh hiện có 26 siêu thị, tập trung nhiều nhất ở T.P Thái Nguyên với 22 siêu thị; còn lại phân bố tại T.P Sông Công; T.P Phổ Yên; Phú Bình; Đại Từ. Một số siêu thị có quy mô lớn và hiện đại, cụ thể:

  • Siêu thị Lan Chi Mart Thái Nguyên.
  • Siêu thị Lan Chi Mart Phổ Yên.
  • Siêu thị Aloha Mall Thái Nguyên.
  • Siêu thị Aloha Mall Sông Công.
  • Siêu thị Thành Đô Thái Nguyên.
  • Hệ thống siêu thị Vinmart, Vinmart+
  • Hệ thống siêu thị Minh Cầu.
  • Hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Mediamart, HC HomeCredit, VinPro, Điện máy xanh...

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các TTTM, siêu thị, những năm gần đây, hệ thống các chợ trên địa bàn tỉnh cũng được quan tâm đầu tư nâng cấp, mở rộng theo hướng văn minh, hiện đại. Tính riêng từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng mới, nâng cấp 30 chợ với tổng nguồn vốn trên 140 tỷ đồng, nâng tổng số chợ đang hoạt động nằm trong quy hoạch của tỉnh lên 140 chợ. Trong đó, 4 chợ hạng I, 10 chợ hạng II và 126 chợ hạng III. Hiện nay, hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh đều đều đã có chợ hoặc các điểm mua sắm tập trung. Thương mại nông thôn phát triển đóng góp gần 80% vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của tỉnh.

Có thể nói, cơ sở hạ tầng từng bước đồng bộ đã và đang thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn ra ngày càng sôi động, với nhiều loại hình dịch vụ, thương mại phong phú, đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của của người dân. Nhờ đó, nếu như năm 2016, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh chỉ đạt 25.642 tỷ đồng thì đến năm 2020, con số này đã tăng lên gần 40.000 tỷ đồng, gấp 1,6 lần. Đứng đầu khu vực Trung và miền núi phía Bắc.

Dân cư

[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh Thái Nguyên có 26,9% dân cư là người dân tộc thiểu số
Trung tâm hội nghị tỉnh Thái Nguyên

Theo điều tra dân số ngày 1/4/2019, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.286.751 người, trong đó nam có 629.197 người và nữ là 657.554 người. Tổng dân số đô thị là 410.267 người (31,9%) và tổng dân cư nông thôn là 876.484 người (68,1%). Cũng theo Tổng cục Thống kê, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2019 của Thái Nguyên là 1,36%. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị của tỉnh đứng thứ 18 so với cả nước và đứng đầu trong số các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, đứng thứ hai trong vùng Thủ đô (chỉ sau Thành phố Hà Nội). Tỷ lệ đô thị hóa của Thái Nguyên tính đến năm 2023 là 41,73%.

Không như nhiều tỉnh trung du miền núi phía bắc khác, tỉnh Thái Nguyên có đa số dân cư là người Kinh (73,1%), tỉ lệ người Kinh chiếm cao hơn tại các thành phố Thái Nguyên, Sông Công, Phổ Yên và các huyện phía nam như Phú Bình cũng như tại các khu vực ven quốc lộ, tỉnh lộ và thị trấn tại các huyện còn lại. Người Kinh ban đầu chỉ là dân tộc bản địa cư trú tại các khu vực trung du ven sông Cầu ở khu vực phía nam của tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Vào thời Nhà Trần, Lê, Nguyễn, nhiều làng xóm của người Kinh hình thành tại các khu vực phía nam của tỉnh và dân cư chủ yếu là các di dân đến từ các nơi thuộc đồng bằng Sông Hồng như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng và các tỉnh Bắc Trung bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Bên cạnh đó, khi các quan triều đình được cử đến Thái Nguyên, họ thường đem theo cả gia đình, dòng tộc tới định cư. Ngoài ra, nhiều người đến làm ăn và buôn bán rồi sau đó ở lại Thái Nguyên lập nghiệp. Đặc biệt, trong thời kỳ thuộc Pháp, rất nhiều người Kinh từ các tỉnh đồng bằng đã được chế độ thực dân đưa lên Thái Nguyên để làm việc trong các đồn điền và hầm mỏ. Trong kháng chiến chống Pháp, vì có vai trò là thủ đô kháng chiến nên số người Kinh đến Thái Nguyên ngày càng tăng. Quá trình người Kinh nhập cư đến Thái Nguyên tiếp tục tăng nhanh vào sau năm 1954, khi một số cơ sở công nghiệp lớn được hình thành và việc thực hiện chương trình "kinh tế mới". Ngay từ năm 1960, người Kinh đã chiếm 74,56% dân số tỉnh. Hiện nay, phần lớn người dân sinh sống tại Thái Nguyên có quê quán tại các địa phương khác, số lượng người "Thái Nguyên gốc" ít hơn nhiều.[31] Người Kinh ở Thái Nguyên nói chung vẫn giữ được nhiều phong tục truyền thống của cha ông tại miền xuôi, mặc dù vậy nhiều yếu tố đã bị phai nhạt, đặc biệt là ở khu vực các huyện phía bắc, họ chịu ảnh hưởng của các dân tộc thiểu số bản địa.[31]

Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn 2009-2019 đạt 1,36%/năm (trong đó, khu vực thành thị tăng bình quân 3,56%/năm và khu vực nông thôn tăng 0,48%/năm), tốc độ tăng bình quân giai đoạn 10 năm qua cao hơn so với tốc độ tăng bình quân của 10 năm trước (tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 1999-2009 là 0,71%/năm) và cao hơn so với mức tăng 1,14%/năm của bình quân chung của cả nước.

Sở dĩ tỉnh Thái Nguyên có tốc độ tăng dân số cao hơn bình quân chung cả nước và cao hơn giai đoạn 10 năm trước chủ yếu là do có sự di chuyển từ các tỉnh khác đến nhập cư vào Thái Nguyên để tham gia lao động làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, trong đó tăng đột biến ở các năm 2014 và 2015 khi trên địa bàn có các dự án đầu tư nước ngoài sản xuất các sản phẩm điện tử, viễn thông tăng năng lực và đi vào sản xuất.

Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt, trong khi đó ở thành thị và đồng bằng dân cư lại dày đặc. Mật độ dân số thấp nhất là huyện Võ Nhai 80 người/km², cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật độ 1.903 người/km², thứ 2 là thành phố Phổ Yên với mật độ 760 người/km², sau đó là thành phố Sông Công với mật độ 705,3 người/km².

Thành phần dân tộc

[sửa | sửa mã nguồn]
Cổng chính vào nhà cổ 200 năm tại khu du lịch Hồ Núi Cốc

Trên địa bàn tỉnh hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh sống, trong đó 8 dân tộc đông dân nhất là:[32]

Dân tộc Dân số (người) Tỉ lệso với tổngdân số tỉnh Dân số đô thị (người) Tỉ lệso với dân sốdân tộc Dân số nông thôn (người) Tỉ lệso với dân sốdân tộc
Kinh 821.083 73,1% 249.305 30,4% 571.778 69,6%
Tày 123.197 11% 21.319 17,3% 101.878 82,7%
Nùng 63.816 5,7% 7.716 12,1% 56.100 87,9%
Sán Dìu 44.134 3,9% 3.941 8,9% 40.193 91,1%
Sán Chay 32.483 2,9% 1.101 3,4% 31.382 96,6%
Dao 25.360 2,3% 1.186 4,7% 24.174 95,3%
H'Mông 7.230 0,6% 237 0,03% 6.993 99,97%
Hoa 2.064 0,18% 712 34,5% 1.352 65,5%

Các dân tộc thiểu số

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam tại thành phố Thái Nguyên

Năm 1999 dân tộc Tày có 106.238 người, đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%). Họ có mặt ở tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến là các huyện: Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%), Võ Nhai (12,5%).[33]

Trong quá trình phát triển tộc người, người Nùng ở Việt Nam nói chung và Thái Nguyên nói riêng có hiện tượng là nhiều nhóm Nùng đến sớm đã bị Tày hoá, còn những nhóm Nùng hiện nay được biết đến thì tới Việt Nam chỉ khoảng vài trăm năm nay.

Những người Hoa đầu tiên đã có mặt ở Thái Nguyên khoảng trên dưới 150 năm. Họ là lưu dân có nguồn gốc từ các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây tại Trung Quốc. Tổ tiên của một bộ phận trong số họ vốn là những nông dân nghèo đói phải phiêu bạt mưu sinh, một số ít khác có thể là hậu duệ những chiến binh của phong trào Thái Bình Thiên Quốc chống lại Nhà Thanh, bị đàn áp nên trốn sang Việt Nam. Khoảng những năm 60-70 của thế kỷ trước, một bộ phận người Hoa cũng chuyển từ Hà Cối (Quảng Ninh) về Thái Nguyên lập nghiệp.

Theo Tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, người Ngái ở Thái Nguyên chỉ có 422 nhân khẩu, sinh sống phân tán ở các huyện Đại Từ (110 người, nam: 60, nữ: 50), thành phố Thái Nguyên (86 nhân khẩu, nam: 42, nữ: 44), Phổ Yên (31 nhân khẩu, nam: 21, nữ: 10). Người Ngái còn phân bố ở các huyện Phú Lương và Đồng Hỷ. Dân tộc Ngái không có các thôn bản riêng, họ sống xen kẽ với người Kinh, Tày, Hoa và Sán Dìu.[33]

Người Sán Dìu tự gọi mình là Sán Dìu (Sán Dao/Sán Dìu, chữ Hán: 山由, Sơn Do). Các cộng đồng láng giềng gọi họ bằng nhiều tên khác nhau: Trại Đất, Trại ruộng, Mán Quần Cộc, Mán Váy Xẻ, Sán Nhiều, Slán Dao. Các nhà ngôn ngữ học xếp dân tộc Sán Dìu vào nhóm ngôn ngữ Hán, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.

Người Dao ở Thái Nguyên thuộc 3 nhóm địa phương: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt và Dao Lô Gang. Dao Quần Chẹt tập trung chủ yếu ở huyện Đại Từ, Dao Đỏ cư trú phân tán ở huyện Phú lương và Đồng Hỷ, Dao Lô Gang tập trung ở huyện Võ Nhai. Ngoài ra, người Dao còn cư trú rải rác ở Định Hoá, Phổ Yên... Tuy thuộc 3 nhóm khác nhau nhưng đều tự gọi là Dao Đại Bản (Tầm Mả Miền), cùng nói phương ngữ Kiềm Miền

Theo số liệu của Ban chỉ đạo cuộc Tổng điều tra dân số Việt Nam năm 1979 thì vào năm này tỉnh Bắc Thái nói chung, Thái Nguyên nói riêng mới có số liệu về người H'Mông. Năm 1979, toàn tỉnh Bắc Thái có 650 người Hmông thì tại Thái Nguyên ngày nay có 644 người, trong đó gần 80% tập trung ở huyện Võ Nhai. Sau đó 10 năm (1989) dân số H'Mông ở Thái Nguyên đã lên tới 2.264 người, huyện có đông người H'Mông nhất là Đồng Hỷ tăng từ 54 người lên 1.022 người (tăng tuyệt đối 968 người), huyện Võ Nhai mặc dù đã tăng từ 513 người lên 923 người (tăng tuyệt đối 410 người) nhưng lại xuống vị trí thứ hai. Đến năm 1999, dân số Hmông trong toàn tỉnh đã lên tới 4.831 người, tăng hơn gấp đôi trong 10 năm.[33]

Người Sán Chay bao gồm hai nhóm là Cao Lan và Sán Chí, đều là những cộng đồng mới di cư sang Việt Nam cách đây một vài trăm năm. Trong Đại Nam nhất thống chí, ở mục Phong tục tỉnh Thái Nguyên khi đề cập tới người Cao Lan có ghi: Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất định.[33]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Chùa Khmer trong khuôn viên Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Việt Nam

Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Thái Nguyên có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2019, số người theo có tôn giáo tại tỉnh Thái Nguyên là 48.299 người, tức chiếm 5,58% tổng dân số của tỉnh.[32] Hiện nay, Thái Nguyên có khoảng 100 chùa, gần 50 đền và khoảng 100 đình. Đạo Tin Lành ở Thái Nguyên có từ năm 1963 và từ năm 1990 trở lại đây, tôn giáo này tiếp tục phát triển, tập trung chủ yếu vào người Mông, Dao. Thái Nguyên có 4 xứ đạo Công giáo hoạt động là: Thái Nguyên, Tân Cương, Nhã Lộng (Phú Bình) và Yên Huy (Đại Từ), tất cả các hoạt động Công giáo ở Thái Nguyên đều do Toà giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo.[34]

Tôn giáo Tín đồngười Tỉ lệso với dân số
Công giáo 34.267 1,885%
Tin Lành 7.781 0,605%
Phật giáo 3.226 0,25%
Hồi giáo 10 /
Minh Lý đạo 7 /
Minh Sư đạo 6 /
Phật giáo Hòa Hảo 1 /
Baha'i 1 /

Du lịch

[sửa | sửa mã nguồn]
Cổng của khu du lịch hồ Núi Cốc
Cổng tam quan đường Bắc Sơn kéo dài, một hạng mục quan trọng nằm trong dự án Khu du lịch tâm linh Hồ Núi Cốc
Tượng Phật tại Khu du lịch Hồ Núi Cốc

Theo số liệu tổng hợp của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên: Trong năm 2019, khách do cơ sở lưu trú du lịch phục vụ đạt hơn 1 triệu lượt; khách du lịch đến các điểm tham quan đạt hơn 1,8 triệu lượt; doanh nghiệp lữ hành phục vụ đạt hơn 150.000 lượt; doanh thu tại các doanh nghiệp du lịch đạt trên 430 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm trước, lượng khách tăng hơn gần 500.000 lượt, doanh thu từ các doanh nghiệp tăng hơn gần 30 tỷ đồng. Trên địa bàn tỉnh có 435 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó có 01 khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao đang được xây dựng của tập đoàn APEC, 50 khách sạn đạt từ 1 đến 4 sao, 386 cơ sở đạt tiêu chuẩn kinh doanh nhà nghỉ, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê.

Thái Nguyên từng là nơi tổ chức Năm Du lịch Quốc gia 2007. Với lợi thế là trung tâm vùng, hạ tầng cơ sở phát triển, với hơn 800 điểm đến là các di tích lịch sử, di tích danh thắng, di tích khảo cổ học, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích tín ngưỡng đã được kiểm kê, bảo vệ theo quy định của Luật Di sản văn hoá và 80 lễ hội được tổ chức vào dịp đầu xuân... Trên địa bàn tình, một trong những điểm đến được nhiều du khách quan tâm như:

  • Khu du lịch hồ Núi Cốc, cách thành phố Thái Nguyên 20 km về phía tây (giáp dãy núi Tam Đảo) là khu du lịch lớn nhất của tỉnh. Mặt hồ rộng 25 km² và có đến 69 hòn đảo lớn nhỏ. Nơi đây đang thu hút nhiều khách trong và ngoài tỉnh đến nghỉ và tham quan. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du lịch trọng điểm quốc gia.[12] Thái Nguyên cũng là nơi đăng cai Festival Trà Quốc tế lần thứ I từ 11-15/11/2011 tại thành phố Thái Nguyên và khu du lịch Hồ Núi Cốc.[35] Khu Du lịch Hồ Núi Cốc đón tiếp khoảng hơn 600.000 lượt du khách trong năm 2019.
  • Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam với diện tích 40.000 m², nằm ngay tại trung tâm thành phố Thái Nguyên. Bảo tàng có hệ thống 5 phòng trưng bày cố định và Khu trưng bày ngoài trời với 6 vùng văn hóa đặc trưng (vùng Núi cao, vùng thung lũng, vùng đồng bằng Bắc bộ, vùng ven biển miền Trung, vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, vùng đồng bằng Nam bộ). Hiện nay bảo tàng lưu trữ hơn 10.000 đơn vị tài liệu, hiện vật thuộc di sản văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam. Hệ thống trưng bày gồm 6 phòng, sử dụng hơn 2.000 tư liệu khoa học: Phòng mở đầu là khái quát đặc trưng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Phòng Việt - Mường gồm dân tộc Việt, Mường, Thổ, Chứt. Phòng Tày - Thái gồm các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y. Phòng H'Mông - Dao và nhóm Nam Á gồm các dân tộc H'Mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo. Phòng Môn - Khmer gồm các dân tộc Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Khơ Me, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, M'Nông, Xtiêng, Bru Vân Kiều, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Mạ, Co, Tà Ôi, Chơ Ro, Brâu, Rơ Măm. Và phòng Hán - Hoa, Tạng Miến, Mạ, Opolinedi gồm các dân tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru.
  • Di tích đền Đội Cấn, công viên Sông Cầu tại trung tâm thành phố Thái Nguyên.
  • Khu du lịch hang Phượng Hoàng và suối Mỏ Gà (là suối chảy ra từ núi đá) tại huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 45 km.
  • Khu Di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hoá. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh sống nhiều năm trong Kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đón tiếp, phục vụ 2.680 đoàn khách với gần 557.000 lượt khách.
  • Thác nước 7 tầng Khuôn Tát, nằm trong khu di tích lịch sử ATK.
  • Các điểm đền chùa như­ đền Đuổm thờ Dương Tự Minh (Phú L­ương); chùa Hang (thành phố Thái Nguyên); chùa Phù Liễn; đền X­ương Rồng (thành phố Thái Nguyên).
  • Khu di tích núi Văn, núi Võ được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia. Dấu tích cùng với truyền thuyết đẹp gắn với danh tướng Lưu Nhân Chú và đội nghĩa binh của ông.
  • Khu Di tích Lịch sử Quốc gia - Địa điểm lưu niệm các TNXP Đại đội 915, Đội 91 Bắc Thái, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên đón tiếp gần 1.800 đoàn khách trong nước và quốc tế đến tham quan, dâng hương, tri ân các liệt sĩ TNXP, với gần 160.000 lượt người.

Thái Nguyên có thể hình thành các tuyến du lịch nối các điểm tham quan du lịch trong tỉnh với các điểm du lịch của các tỉnh lân cận. Cụ thể như­:

  • Thành phố Thái Nguyên-Hồ Núi Cốc, vùng chè Tân Cương - Cây đa Tân Trào (Tuyên Quang).
  • Thành phố Thái Nguyên - Đền Đuổm - Khu di lịch ATK Định Hoá - Hồ Ba Bể (Chợ Đồn, Bắc Kạn) - Pác Bó (Cao Bằng).
  • Thành phố Thái Nguyên - Chùa Hang - Hang Phượng Hoàng - suối Mỏ Gà - Động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn).
  • Thành phố Thái Nguyên - Tam Đảo (Vĩnh Phúc) - Hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc).
  • Thành phố Thái Nguyên - Đền Hùng (Phú Thọ).
  • Thành phố Thái Nguyên - Côn Sơn, Yên Tử, Đền Kiếp Bạc, (Hải Dương).

Ngoài ra Thái Nguyên có nhiều dân tộc còn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc đặc sắc như­ dân tộc Tày, H'Mông, Dao có thể khai thác thành các điểm du lịch cho khách tham quan.

Theo nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Hồ Núi Cốc sẽ là trung tâm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng.

Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định số 1577/QĐ-TTg ngày 15/11/2018: Phê duyệt Nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2030.

Theo quyết định này, phạm vi nghiên cứu lập quy hoạch thuộc địa bàn các xã: Tân Thái, Bình Thuận, Lục Ba, Vạn Thọ, Quân Chu và thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ, xã Phúc Tân thuộc thành phố Phổ Yên. Quy mô diện tích lên tới 19.276ha.

Quy hoạch xây dựng Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc phải gắn với bảo tồn, tôn tạo, phát huy các giá trị cảnh quan thiên nhiên, môi trường, điều kiện tự nhiên, văn hóa để phát triển du lịch, kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và đảm bảo an ninh – quốc phòng.

Hồ Núi Cốc sẽ là Trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng sinh thái, bảo tồn, thể thao và vui chơi giải trí cao cấp của tỉnh Thái Nguyên và khu vực miền Bắc; là khu vực bảo tồn sinh quyển, rừng phòng hộ bảo vệ lưu vực chính của sông Công, khu vực trồng chè đặc sản có quy mô lớn tập trung có giá trị kinh tế cao và tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, gìn giữ văn hóa đặc sắc của các nhóm dân tộc vùng lòng hồ.

Mục tiêu của quy hoạch này là nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2025, định hướng đến 2030; xây dựng và phát triển Khu du lịch Hồ Núi Cốc đáp ứng các tiêu chí công nhận là Khu du lịch quốc gia trước năm 2025, hướng tới trở thành trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng lớn của quốc gia với hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại đến năm 2030, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên và vùng trung du miền núi Bắc Bộ.

Giao thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Đường bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Thái Nguyên có hệ thống hạ tầng giao thông tương đối phát triển, với 1 tuyến cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, 1 tuyến tiền cao tốc Thái Nguyên - Chợ Mới, 5 tuyến quốc lộ đi qua.

: Đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên theo tiêu chuẩn cao tốc loại A, đoạn Thái Nguyên - Chợ Mới (Bắc Kạn) là tiền cao tốc.

: Tuyến Quốc lộ 1B từ Thành phố Thái Nguyên đi Lạng Sơn.

: Tuyến Quốc lộ 3 từ Thành phố Thái Nguyên đi Hà Nội, đoạn qua TP. Thái Nguyên, TP. Sông Công và TP. Phổ Yên đã được nâng cấp thành đường cấp III đô thị chính thứ yếu 4 làn xe.

: Tuyến Quốc lộ 17 phường Chùa Hang, Thành phố Thái Nguyên đi Hà Nội, qua Bắc Ninh - Bắc Giang.

: Tuyến Quốc lộ 3C từ Định Hóa, Thái Nguyên nối qua các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng.

: Tuyến Quốc lộ 37 có 2 hướng, lấy thành phố Thái Nguyên làm đầu nút. Hướng 1 đi từ Thành phố Thái Nguyên qua huyện Đại Từ sang các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái. Hướng 2 từ Thành phố Thái Nguyên theo hướng Phú Bình đi các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng và Thái Bình.

Thái Nguyên cũng có một số tỉnh lộ, trong đó nổi bật là như tỉnh lộ 261 kết nối huyện Đại Từ và thành phố Phổ Yên, tỉnh lộ 260 kết nối phía tây thành phố Thái Nguyên và huyện Đại Từ, tỉnh lộ 264 kết nối hai huyện Định Hóa và Đại Từ, tỉnh lộ 265 kết nối huyện Võ Nhai sang tỉnh Lạng Sơn, tỉnh lộ 254 kết nối huyện Định Hóa với Quốc lộ 3. Ngoài ra còn có các tỉnh lộ 242, 259, 262. Thái Nguyên là một trong những địa phương đi đầu cả nước về phong trào vận động nhân dân hiến đất giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, do vậy, kinh phí để hoàn thành các tuyến đường đã được giảm xuống.[36]

Đường sắt

[sửa | sửa mã nguồn]

Về đường sắt, tỉnh Thái Nguyên có tuyến đường sắt Hà Nội - Quan Triều [37] hay còn gọi là tuyến đường sắt Hà Thái; tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng dài 33,5 km đã từng có một đoạn ngắn nối lên tỉnh Tuyên Quang nhưng ngày nay đã bị bỏ và chỉ sử dụng để chuyên chở khoáng sản. Tuyến đường sắt Kép - Lưu Xá (từ phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên đến thị trấn Kép, Lạng Giang, Bắc Giang) được xây dựng trong thời chiến tranh để nhận viện trợ của các nước XHCN và vận chuyển khoáng sản về khu công nghiệp Gang Thép đã bị bỏ hoang, cộng thêm hệ thống đường sắt nội bộ trong khu Gang Thép.

Đường sông

[sửa | sửa mã nguồn]

Do là tỉnh trung du nên giao thông đường sông của tỉnh chủ yếu chỉ phát triển ở sông Cầu và sông Công đoạn cuối nguồn thuộc tỉnh, dự án Cụm cảng Đa Phúc được xây dựng tại thành phố Phổ Yên có thể kết nối đến cảng Hải Phòng.[38]

Mạng lưới xe bus nội tỉnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Một góc trung tâm Thành phố Thái Nguyên
Đường Hoàng Văn Thụ
Một góc đường Hoàng Văn Thụ, nhìn từ tòa nhà Kim Thái Hotel

Tỉnh Thái Nguyên hiện có nhiều tuyến xe buýt đi tới tất cả các huyện trong tỉnh, bao gồm:

  • 01: Đường Tròn Tân Long - TP Thái Nguyên - BX Thái Nguyên - QL3 - Phổ Yên - Phố Nỷ
  • 02A: Yên Lãng - QL37 - Đại Từ - QL3 - TP Thái Nguyên - Đường Tròn TT Thành Phố - BX Thái Nguyên - CMT8 - Gang Thép
  • 02B: Yên Lãng - QL37 - Đại Từ - QL3 - TP Thái Nguyên - Bệnh Viện A - CT07 - BX Thái Nguyên - NB Quá Tải - Gang Thép
  • 03: Chợ Thái - TP Thái Nguyên - BX Thái Nguyên - CT07 - Viện A - NB Đán - Hồ Núi Cốc - Đại Từ - Ký Phú - TT Quân Chu
  • 04: TT Quân Chu - TT Bắc Sơn - KCN Yên Bình
  • 05: Tân Long - TP Thái Nguyên - QL3 - TT Hương Sơn - Phú Bình - Cầu Ca
  • 06: BX Thái Nguyên - CT07 - Viện A - TP Thái Nguyên - QL3 - Giang Tiên - Đu - KM31 - QL3C - TT Chợ Chu - Định Hóa
  • 07: Quyết Thắng(Z115) - CT07 - BX Thái Nguyên - TP Thái Nguyên - Cầu Gia Bẩy - TT Chùa Hang - QL1B - TT Đình Cả - Võ Nhai
  • 08: Bình Long - TT Chùa Hang - QL1B - TP Thái Nguyên - QL3 - KCN Yên Bình
  • 09: TT Trại Cau - TT Chùa Hang - TP Thái Nguyên - BX Thái Nguyên - Thịnh Đán - Thịnh Đức - TP Sông Công - KCN Diesel Sông Công
  • 28: BX Thái Nguyên - TP Thái Nguyên - QL3 - Bờ Đậu - Giang Tiên - Đu - KM31 - Chợ Mới
  • 30: DTLS 915 Gia Sàng - TP Thái Nguyên - QL3 - Bờ Đậu - Giang Tiên - Đu - KM31 - QL3C - ĐT264 - DTLS ATK Định Hóa

Các hãng Taxi

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Taxi Xanh SM
  • Taxi Bình An Thái Nguyên

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông

Tỉnh Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ tư sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng[39]. Thái Nguyên là trung tâm giáo dục lớn với 9 trường đại học, 11 trường cao đẳng, và nhiều trường trung cấp nghề.

Đại học Thái Nguyên và thành viên

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Đại học Thái Nguyên

Đại học Thái Nguyên là một trong năm Đại học vùng cùng với Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế. Là đại học trọng điểm của Việt Nam, thuộc khu vực trung du, miền núi phía bắc và được thành lập vào năm 1994, đại học bao gồm 7 trường đại học thành viên, 2 khoa, 1 phân hiệu Đại học, 1 trường cao đẳng, 8 trung tâm và 4 viện nghiên cứu trực thuộc[40]:

  • Trường Đại học Sư phạm
  • Trường Đại học Nông lâm
  • Trường Đại học Y dược
  • Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp
  • Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh
  • Trường Đại học Khoa học
  • Trường Đại học Công nghệ thông tin và truyền thông
  • Trường Ngoại ngữ
  • Khoa Quốc tế
  • Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật
  • Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Lào Cai (đơn vị này có trụ sở tại tỉnh Lào Cai)
  • Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Hà Giang (đơn vị này có trụ sở tại tỉnh Hà Giang)

Các trường đại học, cao đẳng khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại học:

Khuôn viên trường ĐH Sư phạm Thái Nguyên
  • Trường Đại học Việt Bắc
  • Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải

Cao đẳng:

  • Trường Cao đẳng kinh tế - tài chính Thái Nguyên (thuộc UBND tỉnh TN)
  • Trường Cao đẳng thương mại - du lịch Thái Nguyên
  • Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái Nguyên
  • Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên
  • Trường Cao đẳng sư phạm Thái Nguyên
  • Trường Cao đẳng cơ khí luyện kim
  • Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Việt Bắc
  • Trường Cao đẳng công nghiệp Việt-Đức
  • Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp
  • Trường Cao đẳng nghề số 1 - Bộ Quốc phòng

Các trường trung cấp

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Trường trung cấp luật Thái Nguyên
  • Trường trung cấp nghề Nam Thái Nguyên
  • Trường trung cấp nghề Thái Nguyên
  • Trường trung cấp Y tế Thái Nguyên
  • Trường trung cấp Y khoa Pasteur
  • trung cấp mỏ địa chất nghề vinacomin

Số liệu về trường, lớp, giáo viên học sinh đầu năm học 2019-2020

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi sắp xếp lại, năm học 2019-2020 trên địa bàn toàn tỉnh có 681 trường (bao gồm cả 01 trường nội trú do Trung ương quản lý - Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc), trong đó có 28 trường ngoài công lập. Bao gồm: hệ mầm non có 237 trường (công lập 215, ngoài công lập 22 trường); Tiểu học có 219 trường (công lập 217, ngoài công lập 2); trung học cơ sở có 191 trường (công lập 190, ngoài công lập 1); trung học phổ thông có 33 trường (3 trường ngoài công lập; 30 trường công lập) và có 01 trường nội trú thuộc Trung ương quản lý.

Số liệu sơ bộ về lớp học và học sinh đầu năm học 2019-2020: Hệ mầm non có 3.080 nhóm/lớp với 83.947 học sinh. Cấp tiểu học có 3.940 lớp với 117.312 học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 1 là 25.235 học sinh. Trung học cơ sở có 2.019 lớp với 71.548 học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 6 là 19.388 học sinh, giảm 0,74% so năm học trước. Trung học phổ thông có 873 lớp với 35.842 học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 10 là 12.057 học sinh, giảm 6,5% cùng kỳ. Nhìn chung học sinh tuyển mới đầu các cấp học đều giảm so với năm học trước.

Riêng số học sinh dân tộc nội trú là 1.887 em, đạt tỷ lệ 6,34% học sinh dân tộc thiểu số được học tại các trường dân tộc nội trú. So với mục tiêu Nghị quyết Đại hội còn thiếu 1,66%; dự kiến đến tháng 9 năm 2020 đạt tỷ lệ 8%, bằng mục tiêu đề ra.

- Kết quả xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Thực hiện đề án xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 2016-2020, tính đến ngày 20/12/2019, toàn tỉnh có 560/683 trường đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 82,72%

- Kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên: Số học sinh thực tế dự thi để xét công nhận tốt nghiệp là 13.976 học sinh; Kết quả số học sinh đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông năm học

2018 - 2019 là 12.831 học sinh, đạt tỷ lệ đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông của tỉnh Thái Nguyên năm 2019 là 91,81% (thấp hơn so với tỷ lệ 97,39% của năm 2018).

- Công tác tuyển sinh cao đẳng, đại học năm học 2019-2020: Theo số liệu của Đại học Thái Nguyên, kế hoạch tuyển sinh 12.390 chỉ tiêu; đã tuyển sinh mới được khoảng 8 nghìn chỉ tiêu, bằng 60% kế hoạch, trong đó, có khối ngành y dược vượt chỉ tiêu tuyển sinh; còn lại các khối ngành khác đều chưa đạt kế hoạch.

Y tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo thống kê năm 2016, tỉnh Thái Nguyên có 1 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế là Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, 1 bệnh viện trực thuộc Quân khu 1 là Bệnh viện Quân y 91, 213 cơ sở y tế do Sở Y tế tỉnh quản lý (chưa tính các cơ sở y tế tư nhân) - trong đó có 12 bệnh viện công lập và 5 bệnh viện tư nhân, 13 phòng khám khu vực và 178 trạm y tế.[41] Tổng số giường bệnh do Bộ Y tế quản lý là khoảng hơn 1.600 giường, Sở Y tế tỉnh quản lý là 4.295 giường trong đó 3.145 giường tại các bệnh viện[42]. Dưới đây là thống kê các bệnh viện, trung tâm y tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên:

Các bệnh viện tuyến trung ương

  • Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên (bệnh viện đa khoa hạng đặc biệt, tuyến cuối của khu vực TDMN phía Bắc trực thuộc Bộ Y tế - quy mô kế hoạch 1.300 giường)[1]

Các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và tương đương tuyến tỉnh:

  • Bệnh viện A (Là BV đa khoa hạng I tuyến tỉnh, mũi nhọn sản nhi - quy mô 510 giường, thực kê 850 giường)
  • Bệnh viện C (Là BV đa khoa hạng I tuyến tỉnh - quy mô 510 giường, thực kê 900 giường)
  • Bệnh viện Gang Thép (Là BV đa khoa hạng II tuyến tỉnh - quy mô 350 giường, thực kê 500 giường)
  • Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên (trực thuộc Đại học Thái Nguyên)
  • Bệnh viện Quân y 91 (trực thuộc Quân khu I)

Các bệnh viện, trung tâm y tế chuyên khoa tuyến tỉnh:

  • Bệnh viện Tâm thần
  • Bệnh viện Mắt Thái Nguyên
  • Bệnh viện Y học cổ truyền Thái Nguyên
  • Bệnh viện Chỉnh hình & Phục hồi chức năng
  • Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi Chức năng
  • Bệnh viện Lao và Phổi Thái Nguyên
  • Trung tâm Kiểm soát bệnh tật
  • Trung tâm Giám định Y khoa
  • Trung tâm Giám định Pháp Y
Bệnh viện Đa khoa An Phú

Các bệnh viện tư nhân:

  • Bệnh viện Quốc tế Thái Nguyên (300 giường)
  • Bệnh viện Đa khoa Trung tâm
  • Bệnh viện Đa khoa An Phú
  • Bệnh viện Đa khoa Việt Bắc
  • Bệnh viện đa khoa Yên Bình
  • Đa khoa Bảo Ngọc-Yên Ninh

Các bệnh viện và trung tâm y tế tuyến huyện:

  • Bệnh viện Đa khoa Huyện Đại Từ
  • Bệnh viện Đa khoa Huyện Định Hóa
  • Bệnh viện Đa khoa Huyện Phú Bình
  • Bệnh viện Đa khoa Huyện Võ Nhai
  • Trung tâm Y tế Thành phố Thái Nguyên
  • Trung tâm Y tế Thành phố Sông Công
  • Trung tâm Y tế Thành phố Phổ Yên
  • Trung tâm Y tế Huyện Đại Từ
  • Trung tâm Y tế Huyện Định Hóa
  • Trung tâm Y tế Huyện Đồng Hỷ
  • Trung tâm Y tế Huyện Phú Lương
  • Trung tâm Y tế Huyện Phú Bình
  • Trung tâm Y tế Huyện Võ Nhai

Ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]
Chè Thái Nguyên

Là địa bàn có nhiều dân tộc cùng sinh sống, cư dân trong tỉnh lại có nguồn gốc đa dạng nên ẩm thực tại tỉnh Thái Nguyên cũng khá phong phú. Một số dân tộc thiểu số trong tỉnh thường làm "xôi thập cẩm" có nhiều màu sắc trong các dịp lễ tết, các màu sắc đều được nhuộm từ các loại lá cây tự nhiên bằng một số công thức khác nhau có thể lấy ví dụ như xôi màu tím sẽ được ngâm vào chậu nước lá cây gạo cẩm trộn với nước gio, xôi màu vàng được ngâm vào chậu nước nghệ. Trên địa bàn huyện Định Hóa ở phía tây bắc tỉnh có đặc sản là cơm lam, được làm bằng cách cho gạo nếp đã ngâm vào ống nứa, cho thêm nước rồi nút lại bằng lá chuối non sau đó đem hơ trên ngọn lửa. Cơm nếp lam có thể để được cả tuần mà không bị thiu hay vữa.[43] Cũng trên địa bàn huyện miền núi Định Hóa, một loại gạo đặc sản mang tên "Gạo Bao Thai Định Hoá" đã được bảo vệ nhãn hiệu tập thể từ năm 2007.[44] Làng bánh chưng Bờ Đậu nằm ven quốc lộ 3 và quốc lộ 37 thuộc địa bàn xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương không chỉ nổi tiếng ở tỉnh Thái Nguyên mà còn được nhiều nơi khác biết đến vào mỗi dịp tết đến xuân về. Những năm gần đây, bánh chưng Bờ Đậu còn vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bánh chưng Bờ Đậu được làm từ gạo nếp thuần chủng và lá dong nếp lấy từ trên rừng huyện Định Hóa, nước để làm bánh là nguồn tự nhiên ở địa phương được lấy từ những giếng khơi trên núi.[45]

Điểm nhấn từ trước đến nay khi nhắc đến Thái Nguyên, sản phẩm nổi lên hàng đầu đó la chè Thái Nguyên với hàng loạt thương hiệu nổi tiếng nức danh trong và ngoài nước như: Chè Tân Cương (TP. Thái Nguyên); Chè La Bằng (Đại Từ); Chè hữu cơ Sông Cầu; Trại Cài (Đồng Hỷ); Làng nghề chè Vô Tranh - Tức Tranh (Phú Lương),.... Trà Thái Nguyên nổi tiếng trên khắp Việt Nam và được tôn vinh là một trong hai loại trà ngon nhất nước và cũng được mệnh danh là "Thủ đô Chè Việt Nam". Trong đó, trà tại vùng Tân Cương, một xã phía tây thành phố Thái Nguyên được đánh giá cao nhất. Giống chè tại Thái Nguyên được ông Đội Năm, tên thật là Võ Văn Thiệt di thực về vùng này khoảng năm 1920-1922 và vườn chè cổ nay đã 87 tuổi.[46]

Danh sách ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]

Các đặc sản, ẩm thực địa phương như: chè Tân Cương, chè búp khô, chè xanh, tương nếp Úc Kỳ, cơm lam Định Hóa, na La Hiên, bánh cooc mò người Tày, nếp vải Phú Lương, giò ngựa bạch làng Phẩm, bưởi Tràng Xá, bánh trứng kiến Định Hóa, đậu phụ An Long, trám đen - xanh, rượu men lá Cầu Mai, xôi ngũ sắc Định Hóa, sắn, cốm Phúc Lương, bún tươi Gò Chè, gà đồi Phú Bình, măng - măng khô, măng đắng Ngàn Me, đường phên Chòi Hồng, rau bò khai Định Hóa, nham trám đen Hà Châu, bánh chưng Bờ Đậu, ổi Linh Nham, cốm nếp vải Ôn Lương, cọ ỏm Định Hóa, bánh ngải Tày, cá kho lá chè, nem chua Đại Từ, miến Việt Cường, gạo bao thai Định Hóa, tôm cuốn Thừa Lâm, hồng da tre Đồng Hỷ.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]

Sân vận động Thái Nguyên và nhà thi đấu Thái Nguyên nằm ở khu vực trung tâm thành phố là những nơi tổ chức các hoạt động thể thao và văn hóa-xã hội của tỉnh. Câu lạc bộ bóng đá nữ Gang Thép Thái Nguyên là một trong sáu đội bóng tham dự Giải vô địch bóng đá nữ Việt Nam.

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Báo Thái Nguyên
  • Đài phát thanh - truyền hình Thái Nguyên
  • Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
  • Khởi nghĩa Thái Nguyên

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020”. Quyết định số 387/QĐ-BTNMT 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam).
  2. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  3. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 92. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  4. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 98. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  5. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 100. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  6. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  7. ^ Tổng cục Thống kê
  8. ^ “Tình hình kinh tế, xã hội Thái Nguyên năm 2018”. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập Ngày 12 tháng 10 năm 2019.
  9. ^ a b “Tỉnh nào có tỉ lệ dân sở hữu ô tô nhiều nhất Việt Nam?”. vietnammoi. 27 tháng 5 năm 2020. Truy cập 29 tháng 9 năm 2020.
  10. ^ a b “Sơ lược lịch sử phát triển địa chất ở Thái Nguyên”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  11. ^ “Môi trường lưu vực sông Cầu:Bài học cho sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường” (PDF). Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên.[liên kết hỏng]
  12. ^ a b “Thái Nguyên: Công bố Quy hoạch xây dựng Vùng du lịch quốc gia hồ Núi Cốc”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2021.
  13. ^ “Thành phố Thái Nguyên”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  14. ^ “Nghị quyết số 729/NQ-UBTVQH15 năm 2023 về việc thành lập thị trấn Hóa Thượng thuộc huyện Đồng Hỷ và nhập xã Quân Chu vào thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”.
  15. ^ “Danh sách đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thái Nguyên”. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2023.
  16. ^ “Phát hiện dấu tích người Việt cổ tại Thái Nguyên”. Thông tấn xã Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  17. ^ “Khu di tích khảo cổ Thần Sa”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
  18. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  19. ^ “Sắc lệnh số 268/SL về việc ban hành bản quy định việc thành lập khu tự trị Việt Bắc do Chủ tịch nước ban hành”.
  20. ^ Tổng mục lục văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, 1945-2002. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 2003. tr. 371.
  21. ^ “Quyết định 103-NQ-TVQH năm 1965 về việc phê chuẩn việc thành lập các tỉnh Bắc Thái, Nam Hà, Hà Tây và việc sáp nhập xã An Hòa thuộc huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (cũ) vào xã Tiến Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành”.
  22. ^ “Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành”.
  23. ^ “Nghị quyết 932/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập thị xã Phổ Yên và 04 phường thuộc thị xã Phổ Yên, điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Thái Nguyên để thành lập phường Lương Sơn thuộc thị xã Sông Công và thành lập thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên”.
  24. ^ “Nghị quyết số 469/NQ-UBTVQH15 năm 2022 về việc thành lập các phường thuộc thị xã Phổ Yên và thành lập thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”.
  25. ^ Cả nước còn hơn 3 triệu hộ nghèo
  26. ^ dựng, Báo Xây (4 tháng 1 năm 2024). “Thái Nguyên: Vào nhóm 18 tỉnh, thành tự cân đối thu chi ngân sách”. Báo Xây dựng. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  27. ^ “Giới thiệu tổng quát về các Khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  28. ^ Các khu công nghiệp Thái Nguyên: Hứa hẹn những triển vọng mới
  29. ^ “Đề án phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2011.
  30. ^ “Kiểm tra tình hình thực hiện Dự án khai thác, chế biến khoáng sản Núi Pháo”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2011.
  31. ^ a b “Dân cư-Dân tộc” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2012.
  32. ^ a b Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội.
  33. ^ a b c d “Dân cư-Dân tộc”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  34. ^ Tỉnh Thái Nguyên Lưu trữ 2012-03-10 tại Wayback Machine, Ủy ban Dân tộc
  35. ^ Festival Trà quốc tế lần thứ I – Thái Nguyên 2011 Lưu trữ 2011-04-27 tại Wayback Machine, VOV
  36. ^ Thái Nguyên đẩy mạnh phong trào hiến đất làm đường giao thông Lưu trữ 2015-04-30 tại Wayback Machine, Đài PT-TH Thái Nguyên
  37. ^ “Các ga trên tuyến đường sắt Hà Nội - Quán Triều”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2011.
  38. ^ Chủ tịch nước thăm và làm việc tại Thái Nguyên [liên kết hỏng]
  39. ^ Số liệu Giáo dục được thống kê từ Bộ giáo dục
  40. ^ “Đại học Thái Nguyên”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2011.
  41. ^ http://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx?rxid=8f161760-9ba0-4c6d-8898-fdef1a92c072&px_db=11.+Y+tế%2c+văn+hóa+và+đời+sống&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid=11.+Y+tế%2c+văn+hóa+và+đời+sống%5cV11.05.px&layout=tableViewLayout1
  42. ^ http://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx?rxid=8f161760-9ba0-4c6d-8898-fdef1a92c072&px_db=11.+Y+tế%2c+văn+hóa+và+đời+sống&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid=11.+Y+tế%2c+văn+hóa+và+đời+sống%5cV11.08.px&layout=tableViewLayout1
  43. ^ “Cơm lam Định Hóa”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  44. ^ “Dẻo thơm gạo Bao thai Định Hóa”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  45. ^ Làng bánh chưng Bờ Đậu bắt đầu đỏ lửa Lưu trữ 2010-01-28 tại Wayback Machine, Báo Điện tử Chính phủ]
  46. ^ Chè Tân Cương, Báo Tuổi trẻ

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thái Nguyên.
  • Cổng thông tin điện tử Thái Nguyên Lưu trữ 2005-06-10 tại Wayback Machine
  • Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên
  • Báo Thái Nguyên
  • Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên
  • Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Nguyên
  • Ban quản lý các khu công nghiệp Thái Nguyên Lưu trữ 2009-04-08 tại Wayback Machine
  • Quyết định 48/2014/QĐ-UBND quản lý bảo vệ phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh tại Thái Nguyên
  • x
  • t
  • s
Đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam
Thành phố trực thuộctrung ương (6)
  • Cần Thơ
  • Đà Nẵng
  • Hà Nội
  • Hải Phòng
  • Thành phố Hồ Chí Minh
  • Huế
Tỉnh (57)
  • An Giang
  • Bà Rịa – Vũng Tàu
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Bình Dương
  • Bình Định
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Cà Mau
  • Cao Bằng
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Điện Biên
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tĩnh
  • Hải Dương
  • Hậu Giang
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Lạng Sơn
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Long An
  • Nam Định
  • Ninh Bình
  • Nghệ An
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Tây Ninh
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thanh Hóa
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Yên Bái
  • x
  • t
  • s
Flag of Vietnam Các đơn vị hành chính thuộc tỉnh Thái Nguyên
Thành phố (3), Huyện (6)
Thành phốThái Nguyên (Tỉnh lỵ)

Phường (21): Cam Giá · Chùa Hang · Đồng Bẩm · Đồng Quang · Gia Sàng · Hoàng Văn Thụ · Hương Sơn · Phan Đình Phùng · Phú Xá · Quan Triều · Quang Trung · Quang Vinh · Tân Lập · Tân Long · Tân Thành · Tân Thịnh · Thịnh Đán · Tích Lương · Trung Thành · Trưng Vương · Túc Duyên Xã (11): Cao Ngạn · Đồng Liên · Huống Thượng · Linh Sơn · Phúc Hà · Phúc Trìu · Phúc Xuân · Sơn Cẩm · Quyết Thắng · Tân Cương · Thịnh Đức

Thành phốPhổ Yên

Phường (13): Ba Hàng · Bãi Bông · Bắc Sơn · Đắc Sơn · Đông Cao · Đồng Tiến · Hồng Tiến · Nam Tiến · Tân Hương · Tân Phú · Thuận Thành · Tiên Phong · Trung Thành Xã (5): Minh Đức · Phúc Tân · Phúc Thuận · Thành Công · Vạn Phái

Thành phốSông Công

Phường (7): Bách Quang · Cải Đan · Châu Sơn · Lương Sơn · Mỏ Chè · Phố Cò · Thắng Lợi Xã (3): Bá Xuyên · Bình Sơn · Tân Quang

HuyệnĐại Từ

Thị trấn (2): Hùng Sơn (huyện lỵ) · Quân Chu Xã (25): An Khánh · Bản Ngoại · Bình Thuận · Cát Nê · Cù Vân · Đức Lương · Hà Thượng · Hoàng Nông · Khôi Kỳ · La Bằng · Lục Ba · Minh Tiến · Mỹ Yên · Phú Cường · Phú Lạc · Phú Thịnh · Phú Xuyên · Phục Linh · Phúc Lương · Tân Linh · Tân Thái · Tiên Hội · Vạn Phú · Văn Yên · Yên Lãng

HuyệnĐịnh Hóa

Thị trấn (1): Chợ Chu (huyện lỵ) Xã (21): Bảo Linh · Bình Thành · Bình Yên · Bộc Nhiêu · Điềm Mặc · Định Biên · Đồng Thịnh · Kim Phượng · Lam Vỹ · Linh Thông · Phú Đình · Phú Tiến · Phúc Chu · Phượng Tiến · Quy Kỳ · Sơn Phú · Tân Dương · Tân Thịnh · Thanh Định · Trung Hội · Trung Lương

HuyệnĐồng Hỷ

Thị trấn (3): Hóa Thượng (huyện lỵ) · Sông Cầu · Trại Cau Xã (11): Cây Thị · Hòa Bình · Hóa Trung · Hợp Tiến · Khe Mo · Minh Lập · Nam Hòa · Quang Sơn · Tân Long · Văn Hán · Văn Lăng

HuyệnPhú Bình

Thị trấn (1): Hương Sơn (huyện lỵ) Xã (19): Bàn Đạt · Bảo Lý · Dương Thành · Đào Xá · Điềm Thụy · Hà Châu · Kha Sơn · Lương Phú · Nga My · Nhã Lộng · Tân Đức · Tân Hòa · Tân Khánh · Tân Kim · Tân Thành · Thanh Ninh · Thượng Đình · Úc Kỳ · Xuân Phương

HuyệnPhú Lương

Thị trấn (2): Đu (huyện lỵ) · Giang Tiên Xã (12): Cổ Lũng · Động Đạt · Hợp Thành · Ôn Lương · Phú Đô · Phủ Lý · Tức Tranh · Vô Tranh · Yên Đổ · Yên Lạc · Yên Ninh · Yên Trạch

HuyệnVõ Nhai

Thị trấn (1): Đình Cả (huyện lỵ) Xã (14): Bình Long · Cúc Đường · Dân Tiến · La Hiên · Lâu Thượng · Liên Minh · Nghinh Tường · Phú Thượng · Phương Giao · Sảng Mộc · Thần Sa · Thượng Nung · Tràng Xá · Vũ Chấn

Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • LCCN: n99830143
  • MBAREA: d95ba069-7992-418f-b999-6caaf39211a0
  • SUDOC: 166932175
  • VIAF: 158461585
  • WorldCat Identities (via VIAF): 158461585

Từ khóa » C Thai Nguyên