Thành Phố Hồ Chí Minh - Người Kể Sử

Mục Lục [Thu / Mở]
  • Lịch sử
  • Thời kỳ hoang sơ
  • Khai phá
  • Thời kỳ thuộc Pháp
  • Về danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Đông
  • Đô Thành Sài Gòn
  • Thành phố Hồ Chí Minh
  • Địa lý
  • Vị trí, địa hình
  • Địa chất, thủy văn
  • Khí hậu, thời tiết
  • Môi trường
  • Tổ chức hành chính và chính quyền
  • Tổ chức hành chính
  • Chính quyền
  • Kinh tế
  • Xã hội
  • Dân cư
  • Y tế
  • Giáo dục
  • Giao thông vận tải
  • Đường bộ
  • Đường sắt
  • Đường thuỷ
  • Đường hàng không
  • Giao thông công cộng
  • Quy hoạch và kết cấu đô thị
  • Du lịch
  • Văn hóa
  • Truyền thông
  • Thể dục, thể thao
  • Trung tâm văn hóa, giải trí
  • Thành phố kết nghĩa
  • Xem thêm
  • Ghi chú
  • Chú thích
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố trực thuộc trung ương
Ho Chi Minh City Collage 2016.png Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống: Chợ Bến Thành, Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn, Dinh Độc Lập, Nhà hát Thành phố, và quang cảnh thành phố nhìn từ bờ đông Sông Sài Gòn
Biệt danh Thời Pháp thuộc: Hòn ngọc Viễn Đông Paris phương Đông2
Địa lý
Tọa độ: 10°46′10″B 106°40′55″Đ / 10,769444°B 106,681944°ĐTọa độ: 10°46′10″B 106°40′55″Đ / 10,769444°B 106,681944°Đ
Diện tích 2.061,4 km²3
Dân số (2016)  
 Tổng cộng 8.297.500 người3
 Thành thị 6.741.200 người (2016)4
 Nông thôn 1.556.300 người5
 Mật độ 4.025 người/km² 3
Dân tộc Kinh, Hoa, Khmer[a]
Múi giờ UTC+7
Vị trí thành phố trên bản đồ Việt Nam
Thanh pho Ho Chi Minh in Vietnam.svg
Hành chính
Quốc gia Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam
Vùng Đông Nam Bộ
Quận trung tâm Quận 1
Thành lập 1698: Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định
Tên khác Sài Gòn
 Chủ tịch UBND Nguyễn Thành Phong
 Hội đồng nhân dân 105 đại biểu
 Chủ tịch HĐND Nguyễn Thị Quyết Tâm
 Chủ tịch UBMTTQ Tô Thị Bích Châu
 Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân
Đại biểu quốc hội 30
Phân chia hành chính 19 quận và 5 huyện
Mã hành chính VN-65
Mã bưu chính 70xxxx-76xxxx
Mã điện thoại 28
Biển số xe 41, 50 → 59
Website hochiminhcity.gov.vn

Thành phố Hồ Chí Minh nghe (trợ giúp·chi tiết) (vẫn còn phổ biến với tên gọi cũ là Sài Gòn) là thành phố lớn nhất Việt Nam về dân số và kinh tế, đứng thứ hai về diện tích, đồng thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế và văn hóa, giáo dục quan trọng nhất của nước này. Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương được xếp loại đô thị loại đặc biệt của Việt Nam (cùng với thủ đô Hà Nội).

Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam. Cùng với Phnom Penh của Campuchia,[cần dẫn nguồn] Sài Gòn được người Pháp mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" trong số những thuộc địa của họ. Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887-1901 (về sau Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội). Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam - một chính thể thuộc Liên bang Đông Dương và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa. Kể từ đó, thành phố này trở thành một trong những đô thị quan trọng của miền Nam Việt Nam. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, lãnh thổ Việt Nam được hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419 người/km². Đến năm 2011 dân số thành phố tăng lên 7.521.138 người.1 Theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2014 thì dân số thành phố Hồ Chí Minh là 7.981.900 người.3 Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố này năm 2017 là 14 triệu người.7 Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước.8 9 Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.

Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Trong nội ô thành phố, đường sá trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống giao thông công cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất.

Lịch sử

Thời kỳ hoang sơ

Con người xuất hiện ở khu vực Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp.

Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này.

Sau khi Đế quốc Khmer hình thành, lãnh thổ miền Nam Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của đế chế này. Tuy nhiên, dân cư của Đế quốc Khmer sống ở vùng này rất thưa thớt, không có khu dân cư lớn nào hình thành tại đây. Sau khi Đế quốc Khmer sụp đổ, vùng đất này cũng trở thành vô chủ (không thuộc một nhà nước nào).

Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư. Sài Gòn - Gia Định vẫn là địa bàn của một vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.10

Khai phá

Sơ đồ Thành Bát Quái, công trình được xây dựng năm 1790 Bản đồ Sài Gòn năm 1815

Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Khmer, người Chăm, người Man11 cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa.12

Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này.13 Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu con rể là vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam, Trung Quốc,... qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quan trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ ba cơ quan chính quyền này.13

Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn14 . Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Đông Nam Bộ được sát nhập vào cương vực Việt Nam.15

Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn.

Cuối thế kỉ 17 và đầu thế kỉ 18, Mỹ Tho và Cù lao Phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ. Tuy nhiên, cuối thế kỉ 18, sau các biến loạn và chiến tranh, thương nhân dần chuyển về vùng Chợ Lớn. Khu vực Sài Gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Nam Bộ.

Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel (1768 - 1799), Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh".16 Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Miền Nam được chia thành 5 trấn, gọi là "Gia Định ngũ trấn". Các công trình kênh đào Rạch Giá - Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.17 Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế.18

Thời kỳ thuộc Pháp

Bản đồ Chợ Lớn năm 1874 Bản đồ Sài Gòn năm 1896, rộng khoảng 7km2 Chợ Bến Thành, Sài Gòn thời thuộc địa với những cột Morris đặc trưng của Pháp.

Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, người Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau là Charner) cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn (20/5/1810 - 5/8/1871) - ông này nguyên là Lãnh sự Pháp ở Hoa Kỳ, thiết kế. Theo bản đồ của Coffyn được công bố vào ngày 13/5/1862, quy hoạch ban đầu của Sài Gòn bao gồm cả tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 dân (Saigon ville de 500.000 âmes), tức khoảng 20.000 dân/km219 . Quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn chỉ khoảng 20.000-30.000 người19 . Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ (Gouverneur Amiral de la Cochinchine) lúc đó là Chuẩn đô đốc Pierre Rose quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Ngày 3/10/1865, Pierre Rose ra lệnh quy hoạch lại Sài Gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu cầu Ông Lãnh hiện nay. Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km219 .

Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng. Sau hai năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km2 nói trên đã hoàn toàn thay đổi.20

Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục... Nam Kỳ Lục tỉnh là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa.

Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên; đừng đầu là viên Thị trưởng người Pháp tên là Charles Marie Louis Turc (1867 - 1871). Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định.20 Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn.18 Đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp, đầu tiên là G. Vinson (1874 - 1876). Đến năm 1879 thì Pháp cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay đúng ra là Ủy hội thành phố - Commission municipale).21

Tính đến năm 1945 thì khu vực đô thị Sài Gòn và tỉnh Chợ Lớn có tổng cộng gần 500.000 dân. Sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 23 tháng 9 năm 1945 Pháp tái chiếm thành phố. Tháng 8 năm 1946, phòng Nam Bộ Trung ương đã tổ chức họp, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đã đề nghị đổi tên Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh, và 57 người phòng Nam Bộ Trung ương (đứng đầu danh sách là Trần Hữu Nghiệp, Trần Công Tường, Nguyễn Tấn Gi Trọng,...) đã ra quyết nghị, gửi lên Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đề xuất này, tuy nhiên do nhiều việc cấp bách phải giải quyết nên chưa quyết nghị chính thức, nhưng từ ngữ này vẫn được một số người theo kháng chiến chống Pháp sử dụng.

Về danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Đông

Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, cả về hành chính lẫn kinh tế, văn hóa, giáo dục của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được Pháp mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" ("la perle de l'Extrême-Orient")22 hoặc một "Paris nhỏ ở Viễn Đông" ("le petit Paris de l'Extrême-Orient").23

Xưởng thuốc phiện (Manufacture d'Opium) ở Sài Gòn thời thuộc Pháp. Khu xưởng này cung ứng từ 1/3 đến 1/2 ngân sách toàn Đông Dương Khu vực Cầu Ông Lãnh và con rạch nhỏ chảy ra rạch Bến Nghé (nay là đường Nguyễn Thái Học. Q.1, TP.HCM) thời kỳ đầu thế kỷ 20 còn rất hoang sơ Quận 4 và 7 hiện nay (phía xa trong ảnh) và khu Thủ Thiêm (nay là quận 2) đến năm 1954 vẫn còn là đầm lầy

Tuy được Pháp gọi là "hòn ngọc Viễn Đông" nhưng thực ra thời ấy Sài Gòn rất nhỏ, chỉ cần đi xa 20 km là có thể săn thú rừng. Theo quy hoạch của Pháp, Sài Gòn khi đó chỉ rộng khoảng 3 km2; gần bằng một nửa Quận 1 hiện nay (rộng khoảng 8 km2)24 , bao bọc bởi sông Sài Gòn - Nguyễn Thái Học - Nguyễn Thị Minh Khai - rạch Bến Nghé. Chính quyền thuộc địa Pháp tập trung tất cả những gì sang trọng, giàu có nhất mà họ có được ở diện tích 3km2 này, phần còn lại của Sài Gòn thì vẫn còn rất hoang sơ, đầm lầy ngổn ngang25 . Theo Sơn Nam trong “Bến Nghé xưa” thì khi Chợ Bến Thành hoàn thành năm 1914, “trước mặt còn là ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp (…), còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ”. Khu Hòa Hưng (Quận 10 hiện nay) cho đến ngã tư Bảy Hiền hiện nay có vô số nghĩa trang, mồ mả. Khu Nguyễn Thiện Thuật, Lý Thái Tổ, Nguyễn Đình Chiểu (Quận 3 hiện nay) toàn nhà lá nền đất xây dựng tạm bợ không theo quy hoạch nào. Khu quận 4, quận 7, khu Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho… sát cạnh chợ Bến Thành đa số là nhà tranh vách lá tạm bợ25

Người Pháp từ lúc đánh chiếm Gia Định năm 1859 cho đến khi rời Sài Gòn 1954 chỉ tập trung “trau chuốt” khu vực 3 km2 đầu tiên này (Quận 1 hiện nay) dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng. Đến năm 1954, những phần Sài Gòn mở rộng này (rộng khoảng 50 km2) vẫn hoang sơ, thậm chí đầm lầy ngổn ngang.25

Đô Thành Sài Gòn

Bản đồ quy hoạch Sài Gòn trước năm 1975, rộng khoảng 70 km2, trong đó khu vực đô thị rộng khoảng 25 km2 Bến thuyền Chợ Lớn, Sài Gòn năm 1956

Từ năm 1949, Sài Gòn đã là thủ đô của Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Sài Gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền Nam Việt Nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức "Đô thành Sài Gòn"26 (lưu ý, cách viết thông dụng là "Saigon"). Chiến tranh Đông Dương tác động khiến việc di dân từ nông thôn lên thành thị tăng nhanh, năm 1949 thì dân số khu vực đã tăng lên 1.200.000, và sang năm 1954 với hàng trăm nghìn người di cư mới (phần đông là người Công giáo, còn gọi là dân Bắc Kỳ Công giáo) từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số Sài Gòn leo cao, đạt 2.000.000.27 Dân di cư tập trung tại các khu vực như Xóm Mới - Gò Vấp, Bình An - Quận 8, và rải rác tại các quận khác. Với nghị định số 110-NV ngày 27 tháng 3 năm 1959 của Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ 6 quận, Sài Gòn được chia lại thành 8 quận với tổng cộng 41 phường.

Vào nửa cuối thập niên 1950, nhờ viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ, Sài Gòn trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí tại miền Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất của kinh tế Việt Nam Cộng hòa28 29 Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên.30 Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây được du nhập từ binh lính và sách báo Mỹ.

Trung tâm thành phố có một số công trình, khu phố được xây dựng to đẹp và sang trọng, tuy nhiên, các công trình này chủ yếu do Pháp xây dựng từ thập niên 1940, các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950, trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến Sài Gòn dần trở thành một khu ổ chuột khổng lồ31 . Khảo sát cho thấy khoảng 40% dân số khu vực Sài Gòn khi đó (tức khoảng 1,2 triệu người) phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện về y tế, vệ sinh rất kém32

Khu ở chuột cạnh một con kênh ô nhiễm ở Sài Gòn năm 1956. Những khu ổ chuột như thế này lan rộng khắp Sài Gòn trong thập niên 1960

Tới những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, nền kinh tế miền Nam (trong đó có Sài Gòn) lâm vào khủng hoảng do Mỹ giảm viện trợ kinh tế. Nạn lạm phát trở nên nghiêm trọng, đạt tới mức trên 200% mỗi năm. Hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ảnh hưởng xấu tới Sài Gòn. Với việc Mỹ giảm viện trợ trong khi nền sản xuất nội tại thì yếu kém, nền kinh tế tiêu dùng dựa vào viện trợ của Việt Nam Cộng hòa đã không thể phát triển ổn định, bền vững33

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều thường dân ở thành phố hoặc binh lính, sĩ quan, viên chức Việt Nam Cộng hòa và những người cộng tác với Mỹ đã ra nước ngoài định cư.34 Cũng trong thời gian này, ước tính 700.000 người khác được vận động đi kinh tế mới; nền văn hóa có ảnh hưởng phương Tây bị lu mờ rồi tàn lụi.35

20 năm chiến tranh đã để lại cho Sài Gòn nhiều di sản nặng nề về xã hội. Theo một thống kê, dân số Sài Gòn năm 1975 có khoảng 4 triệu, thì trong số đó đã có tới 150.000 người nghiện heroin, 500.000 gái mại dâm và gái quán bar, và khoảng 800.000 trẻ mồ côi lang thang trên các đường phố36

Thành phố Hồ Chí Minh

Từ 30 tháng 4, 1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị xóa bỏ và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quản lý miền Nam. Đô Thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định và 2 quận Củ Chi và Phú Hòa kế cận dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa được hợp nhất thành 1 đơn vị hành chính gọi là thành phố Sài Gòn - Gia Định. Đầu năm 1976, Đảng bộ và Ủy ban Nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên của chủ tịch nước đầu tiên, Hồ Chí Minh.37

Sau năm 1975, vấn đề người Hoa tại Sài Gòn trở nên phần trầm trọng. Người Hoa treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn, đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch Việt Nam38 Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền Nam, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện...và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.39

Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc lúc này đang xấu đi nhanh chóng, người Hoa ở Chợ Lớn thì tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho chính phủ Việt Nam lo lắng về nguy cơ đất nước bị rối loạn từ bên trong bởi việc Hoa kiều tiếp tay cho Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam e ngại rằng Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh kinh tế của Hoa kiều để ép Việt Nam phải tuân theo các chính sách của họ, sự giàu có của tư bản Hoa kiều đã trở thành mối đe dọa lớn với chính quyền Việt Nam.40 . Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản. Chính sách của Việt Nam năm 1976 (tịch thu tài sản của tư bản người Hoa) được tiến hành trong bối cảnh này38 Các chiến dịch Cải tạo tư sản miền Nam nhằm xoá bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hoá theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành. Nhà nước đã quốc hữu hoá các cơ sản sản xuất, xí nghiệp công quản của tầng lớp tư sản lớn bỏ lại. Các doanh nghiệp vừa như nhà in, xưởng thủ công, cửa hàng, cửa hiệu quy mô nhỏ bị buộc kê khai tài sản, vốn liếng trưng thu, trưng mua, tịch thu chuyển thành hợp tác xã. Nhiều chủ doanh nghiệp bị buộc tịch biên không được làm kinh doanh phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp hoặc đi kinh tế mới.

Năm 1978, nhà nước hoàn thành căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam, xoá bỏ việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp. Đến tháng 5 năm 1979, tất cả các xí nghiệp công quản lúc đầu ở miền Nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Khó khăn về kinh tế, sự lo sợ về chiến tranh biên giới Tây Nam khiến cho nhiều người rời thành phố vượt biên bằng đường biển; trong đó, khoảng 3/4 người rời Thành phố Hồ Chí Minh là người Hoa.

Dinh Độc Lập, công trình lịch sử tiêu biểu của Thành phố Hồ Chí Minh

Chính sách quản lý kinh tế quan liêu và cơ chế bao cấp của Nhà nước lên nền kinh tế (cải cách giá-lương-tiền) khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ, lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985. Khi công cuộc Đổi mới toàn diện 1986 bắt đầu, Thành phố Hồ Chí Minh đứng ở vị trí tiên phong và đi đầu trong thu hút vốn, công nghệ và đầu tư nước ngoài. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987, trong vòng 3 năm 1988 đến 1990, Thành phố đã cấp 88 giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 976 triệu USD.41 Cơ cấu ngành công nghiệp bắt đầu chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp nặng sang các ngành công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng định hướng xuất khẩu. Với sự phát triển mạnh mẽ về hạ tầng và cởi trói về cơ chế thương mại, mậu dịch, Thành phố ngày càng khẳng định là đi đầu kinh tế của Việt Nam và đạt nhiều chỉ số và thành tựu phát triển kinh tế khá ấn tượng. Nếu như năm 2000, Thành phố đóng góp khoảng 19% GDP cả nước thì đến năm 2014, chiếm tới 30% GDP của cả nước. Đến cuối năm 2015, GDP bình quân đầu người của Thành phố ước đạt 5.538 USD/người.42

Đến cuối những năm 2000, thành phố bước vào công cuộc đổi mới cơ bản về hạ tầng giao thông vận tải, tiến hành xây dựng và khai trương nhiều công trình trọng điểm như Đại lộ Nguyễn Văn Linh, Đại lộ Đông Tây, cầu Phú Mỹ. Nhiều cảng biển quốc tế được khánh thành và nhiều đường cao tốc được xây dựng nối Thành phố với các tỉnh thành lân cận tạo thuận lợi cho thông thương hàng hóa và phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố.

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có diện tích rộng 2.095 km², lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị Sài Gòn trước năm 1975 (67,5 km²). Trong đó, tính riêng diện tích khu đô thị là 820 km² (năm 2010)43 , lớn gấp 33 lần so với trước năm 1975 (rộng 25 km²). Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm toàn bộ đô thành Sài Gòn cũ, cộng thêm toàn bộ tỉnh Gia Định, quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ.

Về dân số, tháng 4/2014, toàn thành phố Hồ Chí Minh có 7,95 triệu dân43 , trong đó khoảng 6,7 triệu dân sống ở khu đô thi, tăng 3,3 lần so với mức 2 triệu dân của đô thị Sài Gòn ở thời điểm tháng 5/1975. Lượng người nhập cư đổ vào thành phố ngày càng tăng tạo nên sức ép rất lớn lên cơ sở hạ tầng giao thông đường sá, dịch vụ công cộng và môi trường thành phố. Có ý kiến cho là sau 1975, Sài Gòn từ một cô tiên bỗng hóa “lọ lem” và rồi giờ đây trở lại lộng lẫy44 .

Với tổng diện tích 2.096 km² và hơn 8 triệu dân (số liệu 201443 ), Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn thứ 2 Việt Nam về diện tích (sau Hà Nội) và lớn nhất về dân số. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại thành 8 quận. Bốn quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn.45

Địa lý

Vị trí, địa hình

Thành phố Hồ Chí Minh có toạ độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang46 . Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế.47

Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Vùng cao nằm ở phía bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét.48

Thành phố Hồ Chí Minh gồm có bốn điểm cực:

  • Cực Bắc là xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi.
  • Cực Tây là xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi.
  • Cực Nam là xã Long Hòa, huyện Cần Giờ.
  • Cực Đông là xã Thạnh An, huyện Cần Giờ.

Địa chất, thủy văn

Sông Sài Gòn đoạn qua trung tâm thành phố và bán đảo Thủ Thiêm

Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng: đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng 23,4% diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi... hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là "giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò.49

Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Ðồng Nai Bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc, hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi...Hệ thống sông, kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.50

Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt, vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại Quận 12, các huyện Hóc Môn và Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng.50

Khí hậu, thời tiết

Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam bộ khác Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, nhiệt độ cao đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm Thành phố Hồ Chí Minh có 2 mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô, nhiệt độ cao và mưa ít). Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Ðông Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại.51

Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm không khí đạt 79,5%/năm.51

Dữ liệu khí hậu của Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 38 (100) 40 (104) 38 (100) 38 (100) 39 (102) 38 (100) 41 (106) 37 (99) 38 (100) 38 (100) 37 (99) 37 (99) 41 (106)
Trung bình cao °C (°F) 31.6 32.9 33.9 34.6 34.0 32.4 32.0 31.8 31.3 31.2 31.0 30.8 32,3
Trung bình ngày, °C (°F) 25.8 26.7 27.9 28.9 28.3 27.5 27.1 27.1 26.8 26.7 26.4 25.7 27,0
Trung bình thấp, °C (°F) 21.1 22.5 24.4 25.8 25.2 24.6 24.3 24.3 24.4 23.9 22.8 21.4 23,7
Thấp kỉ lục, °C (°F) 13 (55) 17 (63) 16 (61) 17 (63) 16 (61) 21 (70) 17 (63) 21 (70) 20 (68) 20 (68) 17 (63) 15 (59) 13 (55)
Lượng mưa, mm (inch) 13.8 (0.543) 4.1 (0.161) 10.5 (0.413) 50.4 (1.984) 218.4 (8.598) 311.7 (12.272) 293.7 (11.563) 269.8 (10.622) 327.1 (12.878) 266.7 (10.5) 116.5 (4.587) 48.3 (1.902) 1.931 (76,02)
% độ ẩm 69 68 68 70 76 80 80 81 82 83 78 73 75,7
Số ngày mưa TB 2.4 1.0 1.9 5.4 17.8 19.0 22.9 22.4 23.1 20.9 12.1 6.7 155,6
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 244.9 248.6 272.8 231.0 195.3 171.0 179.8 173.6 162.0 182.9 201.0 223.2 2.486,1
Nguồn #1: World Meteorological Organization (UN)52 Weatherbase (cao, thấp kỉ lục và độ ẩm) 53
Nguồn #2: Berlin.de (số giờ nắng)54

Với những biến đổi khí hậu Sài Gòn thuộc danh sách 10 thành phố trên thế giới bị đe dọa vì nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo dự tính của Liên hiệp quốc thì đến năm 2050 nước biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu đô thị Sài Gòn sẽ bị ngập lụt. Ngân hàng Phát triển Á châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ USD.55

Môi trường

Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể, ý thức một số người dân lại quá kém trong nhận thức và bảo vệ môi trường chung... Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường rất lớn. Hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi còn rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m³/ngày56 . Sông Sài Gòn, mức độ ô nhiễm vi sinh chủ yếu do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản gây ra vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần. Cho tới 2008, vẫn chưa có giải pháp cụ thể nào để chấm dứt tình trạng ô nhiễm này.57

Lượng rác thải ở Thành phố Hồ Chí Minh lên tới 6.000 tấn/ngày, trong đó một phần lượng rác thải rắn không được thu gom hết. Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, so với năm 2006, sự ô nhiễm hữu cơ tăng 2 đến 4 lần. Các phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng, sản xuất... còn góp phần gây ô nhiễm không khí. Khu vực ngoại thành, đất cũng bị ô nhiễm do tồn đọng thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp gây nên.58

Tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả trong mùa khô. Diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km2 với 85% điểm ngập nước nằm ở khu vực trung tâm thành phố. Thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng hơn.59 Việc thoát nước ở Sài Gòn vốn dựa vào hệ thống sông và kênh, rạch tự nhiên nhưng khoảng 30% diện tích kênh rạch đã bị chính quyền thành phố ra lệnh lấp. Theo một nghiên cứu của Viện Khoa Học Thủy Lợi miền Nam thì chỉ trong 12 năm từ 1996 đến 2008, tại Sài Gòn đã có hơn 100 kênh, rạch với tổng diện tích khoảng 4000 hecta bị lấp và bị lấn chiếm.60

Trước những bức xúc về thực trạng môi trường, Thành phố Hồ Chí Minh đang khẩn trương tìm mọi cách nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn. Việc trích ra một nguồn vốn lớn nhiều tỷ đồng đầu tư xây dựng hồ sinh học cải tạo nước kênh Ba Bò là một ví dụ.61

Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới (Stockholm trên 70 m²/người). Việc thiếu cây xanh đã gây ảnh hưởng đến chất lượng không khí của thành phố.

Tổ chức hành chính và chính quyền

Tổ chức hành chính

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh
Tên Dân số (người)2009 Hành chính
Quận (19)
Quận 1 187.435 10 phường
Quận 2 140.621 11 phường
Quận 3 188.945 14 phường
Quận 4 183.261 15 phường
Quận 5 174.154 15 phường
Quận 6 253.474 14 phường
Quận 7 274.828 10 phường
Quận 8 418.961 16 phường
Quận 9 263.486 13 phường
Quận 10 232.450 15 phường
Quận 11 232.536 16 phường
Quận 12 427.083 11 phường
Tên Dân số (người)2009 Hành chính
Bình Tân 595.335 10 phường
Bình Thạnh 470.054 20 phường
Gò Vấp 548.145 16 phường
Phú Nhuận 175.175 15 phường
Tân Bình 430.436 15 phường
Tân Phú 407.924 11 phường
Thủ Đức 455.899 12 phường
Huyện (5)
Bình Chánh 447.291 1 thị trấn, 15 xã
Cần Giờ 70.697 1 thị trấn, 6 xã
Củ Chi 335.822 1 thị trấn, 20 xã
Hóc Môn 358.640 1 thị trấn, 11 xã
Nhà Bè 103.793 1 thị trấn, 6 xã

Chính quyền

Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố

Chính quyền thành phố bao gồm hai cơ quan chính là Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân.

Bản đồ các quận thành phố (không có huyện ngoại thành): 1—12: Quận 1—12 - 13: Bình Thạnh - 14: Bình Tân - 15: Gò Vấp - 16: Phú Nhuận - 17: Tân Bình - 18: Tân Phú - 19: Thủ Đức

Hội đồng Nhân dân thành phố, với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm, có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của thành phố. Đứng đầu HĐND gồm một Chủ tịch, một Phó chủ tịch và một Ủy viên thường trực. HĐND chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội63 . Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ khóa IX (2016-2021) gồm 105 đại biểu. Chủ tịch HĐND Thành phố hiện tại là bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, tái đắc cử sau nhiệm kỳ 2011-2016.

Hội đồng Nhân dân thành phố bầu nên Ủy ban Nhân dân thành phố, cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa trên địa bàn thành phố. Đứng đầu Ủy ban Nhân dân gồm một Chủ tịch và các Phó chủ tịch. Các sở, ngành của Ủy ban Nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể, như y tế, giáo dục, đầu tư, tư pháp, tài chính. Tương tự, cấp quận, huyện cũng có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp thành phố. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố.64 UBND Thành phố nhiệm kỳ khóa IX (2016-2021) được HĐND Thành phố nhiệm kỳ 2016-2021 bầu ra gồm 28 thành viên. Chủ tịch UBND Thành phố đương nhiệm là ông Nguyễn Thành Phong.

Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (hay thường gọi là Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh)  là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khóa X nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 69 ủy viên chính thức, bầu ra Ban Thường vụ gồm 15 ủy viên. Cùng với Hà Nội, đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy của thành phố và phải là một thành viên của Bộ Chính trị chứ không do Thành ủy bầu ra. Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh hiện tại là ông Nguyễn Thiện Nhân.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Thành phố nhiệm kỳ X (2014 - 2019) gồm 140 ủy viên, bầu ra Ban thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 13 ủy viên65 . Chủ tịch UBMTTQ đương nhiệm là bà Tô Thị Bích Châu, Ủy viên của Ban Thường vụ Thành ủy (được bầu ngày 22/02/2017 thay thế ông Nguyễn Hoàng Năng do được điều động thuyên chuyển công tác)66 .

Vào năm 1995, hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 976 địa chỉ, trong đó 47 thuộc trung ương, 73 thuộc thành phố, 549 thuộc các quận, huyện và 307 thuộc cấp phường xã. Các tổ chức đoàn thể, chính trị bao gồm cấp trung ương và thành phố có 291 địa chỉ, các đơn vị sự nghiệp có 2.719 địa chỉ.

Kinh tế

Khu trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, nhìn từ phía quận 2 ban đêm.

Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đi đầu trong kinh tế của Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,5% tổng sản phẩm GDP, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 37,9% dự án nước ngoài.67 Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.966.400 lao động có độ tuổi từ 15 trở lên, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc68 . Năm 2008, lực lượng lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trên địa bàn thành phố gồm có 3.856.500 người, năm 2009 là 3.868.500 người, năm 2010 đạt 3.909.100 người, nhưng đến 2011 còn số này đạt 4.000.900 người.69 Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2012, GDP đạt 404.720 tỷ đồng, tăng khoảng 8,7%. Năm 2012, GDP đạt khoảng 9,2%, trong đó khu vực dịch vụ đạt khoảng 10,8%, công nghiệp và xây dựng đạt khoảng 9,2%, nông lâm và thủy sản đạt 5%. GDP bình quân đầu người đạt 3.700 USD. Thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215.975 tỷ đồng, nếu không tính ghi thu chi là 207.000 tỷ đồng, đạt 92,42% dự toán, bằng 105,40% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa đạt 109.500 tỷ đồng, bằng 88,81% dự toán, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 70.000 tỷ đồng, bằng 88,72% dự toán70 …

Bên cạnh đó Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã trình Hội đồng nhân dân Thành phố 29 chỉ tiêu về kinh tế và xã hội trong năm 2013, đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người năm 2013. Trong đó có một số chỉ tiêu kinh tế gồm có GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD/người/năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) dự kiến tăng 9,5-10%, tốc độ kim ngạch xuất khẩu là 13%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dự kiến khoảng 248.500-255.000 tỷ đồng, bằng 36-37% GDP, chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng của cả nước71 .

Tòa nhà Bitexco Financial

Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.72

Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND.73 Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007.74 Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD.75 Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, thành phố Hồ Chí Minh xếp ở vị trí thứ 20/63 tỉnh thành.76

Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội.77 Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ đồng.78

Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến.79 Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền kinh tế.75 Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.

Xã hội

Dân cư

Dân số năm 1929 là 123.890 người trong số đó có 12.100 người Pháp. Gần 40 năm sau, năm 1967 thành phố đã tăng gấp 10 lần với dân số là 1.485.295.81

Kể từ sau 1975, dân số Sài Gòn gia tăng nhanh, nhất là dân nhập cư không kiểm soát được, nên nhà cửa xây cất bừa bãi. Theo thống kê chính thức, dân số Sài Gòn năm 1975 là 3.498.120 người.82 Tính đến năm 2012, dân số toàn thành phố Hồ Chí Minh đạt gần 7.750.900 người, với diện tích 2095,6 km2, mật độ dân số đạt 3699 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 6.433.200 người, chiếm 85% dân số toàn thành phố và dân số sống tại nông thôn đạt 1.317.700 người, chiếm 15% dân số.83 Dân số nam đạt 3.585.000 người84 , trong khi đó nữ đạt 3.936.100 người85 . Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 7,4 ‰86 Trong các thập niên gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh luôn có tỷ số giới tính thấp nhất Việt Nam, luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào Thành phố Hồ Chí Minh luôn có số nữ nhiều hơn số nam.87 . Năm 2015, Thành phố có 8.224.000 triệu người

Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong khi một số quận như 4, 5,10 và 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km², thì huyện ngoại thành Cần Giờ có mật độ tương đối thấp 98 người/km²88 . Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 2,5%.89 Những năm gần đây dân số các quận trung tâm có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh, do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh đến sinh sống. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, con số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu.90

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn thành phố có 13 Tôn giáo khác nhau đạt 1.983.048 người, nhiều nhất là Phật giáo có 1.164.930 người, tiếp theo là Công giáo đạt 745.283 người, đạo Cao Đài chiếm 31.633 người, Đạo Tin lành có 27.016 người, Hồi giáo chiếm 6.580 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 4.894 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.387 người. Còn lại các tôn giáo khác như Ấn giáo có 395 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 298 người, Minh Sư Đạo có 283 người, đạo Bahá'í có 192 người, Bửu Sơn Kỳ Hương 89 người và 67 người theo Minh Lý Đạo.6

Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống.6 Trong đó, nhiều nhất là người Kinh có 6.699.124 người, các dân tộc khác như người Hoa có 414.045 người, người Khmer có 24.268 người, người Chăm 7.819 người, người Tày có 4.514 người, người Mường 3.462 người, ít nhất là người La Hủ chỉ có một người.6

Y tế

Bệnh viện tim Tâm Đức tại Quận 7

Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh của những quốc gia công nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh91 . Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 73,19, con số ở nữ giới là 77,0092 .

Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 200293 . Toàn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh94 . Thế nhưng mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố95 . Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ91 .

Sở Y tế thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng chất lượng phục vụ.

Giáo dục

Về mặt hành chính, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cơ sở giáo dục từ bậc mầm non tới phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, toàn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III.96 Ngoài ra, theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành phố có 1.169 cơ sở công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục.97

Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Trong khi đó, những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào bốn huyện ngoại thành Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ, một trường dạy Hán Nôm, bốn trường dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán, công ty giáo dục đầu tư.98

Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (Trường Đại học Sài Gòn và Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với 6 trường đại học thành viên thuộc Chính phủ.99 Nhiều đại học lớn khác của thành phố như Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Kinh tế, Đại học Sư phạm, Đại học Mở, Đại học Tài chính - Marketing đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia.100

Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây nhưng giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không biết chữ vẫn còn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều trường học sinh phải học ba ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thành.100

Giao thông vận tải

Hầm Thủ Thiêm, hầm vượt sông dài nhất Đông Nam Á Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất Bến Nhà Rồng, thương cảng cũ của Sài Gòn

Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm một tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông khoảng chiếm 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tại hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành khách101 . Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là sân bay lớn thứ hai Việt Nam về diện tích và lớn nhất về công suất nhà ga102 . Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng.103 Đến tháng 9 năm 2011 toàn thành phố có 480.473 xe ôtô và 4.883.753 xe môtô.104

Đường bộ

Những năm gần đây hạ tầng đường bộ của thành phố đã có nhiều đổi thay ngoạn mục. Hiện nay, Thành phố được kết nối với các vùng qua hai đường cao tốc chính–Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây và Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương. Ngoài ra, các tuyến Quốc lộ và Xa lộ cửa ngõ cũng đã được đầu tư mở rộng đáng kể, như tuyến Đại lộ Nguyễn Văn Linh (Nam Sài Gòn), Xa lộ Hà Nội (đi Biên Hoà) và Đại lộ Đông - Tây cùng Hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn. Thành phố cũng đầu tư nhiều cầu lớn để tăng cường giảm tải lưu lượng xe cộ ra ngoại thành, tiêu biểu là Cầu Phú Mỹ, Cầu Sài Gòn 2 và Cầu Thủ Thiêm.

Giao thông trong nội ô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường sá nhỏ... khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. Thành phố có 239 cây cầu nhưng phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện giao thông. Không những thế, một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá. Trong khi đó, hệ thống đường trải nhựa còn lại cũng trở nên quá tải, cần sửa chữa.101

Thành phố có 2 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Miền Tây cùng vài bến xe phụ trợ ở Quận 8, An Sương và Ngã Tư Ga. Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều hãng xe tư nhân cũng tham gia vận chuyển hành khách vào các bến bãi không chính thức ở nhiều khu vực nội đô, gần khu dân cư và trung tâm du lịch. Cũng theo số liệu từ 1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm, nhiều nhất qua quốc lộ 1A.101

Đường sắt

Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận do Xí nghiệp Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, tuyến Bắc - Nam và một vài đoạn đường chuyên dụng, hiện hầu như đã ngưng khai thác. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu, Gò Vấp. Do mạng lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6% khối lượng hành khách.101

Đường thuỷ

Thành phố hiện có tuyến đường thuỷ chở hành khách liên tỉnh là tuyến tàu cánh ngầm nối Cảng Nhà Rồng với Cảng Cầu Đá, Thành phố Vũng Tàu. Ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò, phà phục vụ giao thông hành khách, trong đó lớn nhất là Phà Cát Lái nối Quận 9 với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có bốn cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước. Cảng Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32 ha, tổng chiều dài cầu cảng 528 m, có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 - 20.000 tấn cập bến. Tuy năng lực của các cảng của Thành phố Hồ Chí Minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông gặp khó khăn. Tại hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị thiếu, vẫn phải bốc dỡ thủ công.101

Đường hàng không

Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất nằm trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố chỉ 5 km. Đây là sân bay lớn nhất Việt Nam và là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn của khu vực Đông Nam Á, với hơn 25 triệu lượt khách đi và đến.105 Hiện có 43 hãng hàng không quốc tế mở đường bay đến sân bay này. Trong tương lai, khi Sân bay quốc tế Long Thành được hoàn tất xây dựng và mở cửa, sân bay này sẽ gánh một lượng hành khách đáng kể từ Tân Sơn Nhất, giúp giảm tình trạng quá tải hiện tại.

Giao thông công cộng

Để giải quyết vấn đề giao thông đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh đang đầu tư cho hệ thống giao thông công cộng. Hiện nay Thành phố có 3.250 xe buýt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 6,2% nhu cầu đi lại. Trong đó, hệ thống xe buýt được phục hồi từ năm 2002 đóng vai trò chủ đạo của Thành phố. Mặc dù được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trợ giá trên hầu hết các tuyến, mạng lưới này chưa đem lại hiệu quả cao, 65% tuyến trùng lặp.106 Cùng mạng lưới xe buýt, dự án tàu điện ngầm Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đang tiến hành. Theo dự kiến, thành phố sẽ có bốn tuyến, tổng chiều dài 54 km, 6 đường rày và 22 nhà ga. Dự kiến đến năm 2018, tuyến metro đầu tiên sẽ đi vào hoạt động.107

Quy hoạch và kết cấu đô thị

Theo thiết kế đô thị ban đầu của người Pháp vào năm 1860, thành phố Sài Gòn sẽ là nơi sinh sống cho 500.000 dân. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tăng quy mô của thành phố lên đến 3 triệu dân. Tuy nhiên hiện nay thành phố này có dân số kể cả số lượng khách vãng lai là 10 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải.108 Sài Gòn từng là thành phố của cây xanh với không gian kiến trúc theo quy hoạch của Pháp trước đây. Sau này thành phố đã thay đổi với việc thu hẹp không gian xanh để xây dựng nhà cửa, không gian kiến trúc thành phố trở nên chật chội bởi nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất.109

Công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém. Đến thời điểm đầu năm 2008 mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1/2000 được thực hiện. Quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực hiện xong.110 Công tác xây quy hoạch và xây dựng đô thị mới vẫn mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp. Trong 10 năm gần đây, khu vực đô thị mới để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị Phú Mỹ Hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng, không phải là những quận, huyện được chính quyền địa phương thành lập.111

Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh tính tới thời điểm 2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện.

Chiến lược quy hoạch của Thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành, đồng thời phát triển một số khu đô thị mới góp phần làm giảm mật độ dân số vốn đã quá cao như hiện nay.

Du lịch

Nhà hát lớn nằm tại khu vực trung tâm thành phố

Trong khoảng 4,3 triệu khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2007, 3 triệu khách đã tới thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tức khoảng 70%.75 Năm 2007 cũng là năm thành phố có được bước tiến mạnh mẽ, lượng khách tăng khoảng 12% so với 2006, doanh thu ngành du lịch đạt 19.500 tỷ VND, tăng 20%.112 Là một thành phố trẻ chỉ với 300 năm lịch sử, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được không ít công trình kiến trúc và sở hữu một nền văn hóa đa dạng.

Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh có 641 khách sạn với 17.646 phòng.113 Phục vụ những khách cao cấp, thành phố có 11 khách sạn 5 sao, gồm: Caravelle, Sheraton, Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Legend, Renaissance Riverside, Windsor Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng. Hầu hết các khách sạn này đều do những tập đoàn quốc tế như Accor, Furama, Mariot hay Sheraton quản lý và tập trung nhiều nhất tại Quận 1. Bên cạnh đó thành phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.621 phòng. Do sự phát triển của du lịch, số phòng cao cấp tại thành phố hiện đang thiếu trầm trọng. Mặc dù nhiều nhà đầu tư có ý định xây dựng tiếp các khách sạn sạng trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm. Theo dự kiến, đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10 nghìn phòng 4 hoặc 5 sao.

Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng, chủ yếu về đề tài lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Việt Nam về số lượng bảo tàng. Bảo tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với 30 nghìn hiện vật. Trong khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài114 thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là Bảo tàng Hồ Chí Minh.115 Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một đô thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay có hơn một nghìn ngôi chùa, đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn các nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19 theo các phong cách Roman, Gothic. Nhà thờ lớn và nổi tiếng nhất của thành phố là nhà thờ Đức Bà, nằm ở Quận 1, hoàn thành năm 1880. Thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng, như Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát lớn, Bưu điện trung tâm, Bến Nhà Rồng... Dinh Độc Lập và Thư viện Khoa học Tổng hợp được xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Kiến trúc hiện đại ghi dấu ấn ở thành phố bằng các cao ốc, khách sạn, trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Saigon Trade Centre... Khu vực ngoài trung tâm, Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức cũng là những địa điểm du lịch quan trọng.

Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí. Bên cạnh các phòng trà ca nhạc, quán bar, vũ trường, sân khấu, thành phố có khá nhiều khu vui chơi như Công viên Đầm Sen, Suối Tiên, Thảo Cầm Viên. Các khu mua sắm, như Chợ Bến Thành, Diamond Plaza... hệ thống các nhà hàng, quán ăn cũng là một thế mạnh của du lịch thành phố.

Văn hóa

Truyền thông

Bưu điện trung tâm Thành phố

Là một trong hai trung tâm truyền thông của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 38 đơn vị báo chí thành phố và 113 văn phòng đại diện báo chí trung ương và các tỉnh, 3 nhà xuất bản của thành phố và 21 chi nhánh nhà xuất bản trung ương cùng mạng lưới thông tấn xã, các đài phát thanh, truyền hình địa phương và trung ương. Tổng cộng, trên địa bàn thành phố hiện nay có trên một nghìn người hoạt động trong lĩnh vực báo chí.116

Trong lĩnh vực xuất bản, từ năm 1995 tới nay, ba nhà xuất bản của thành phố chiếm 1/7 số đầu sách xuất bản của cả Việt Nam. Ước tính khoảng 60 đến 70% số lượng sách của cả nước được phát hành tại Thành phố Hồ Chí Minh.116 Những năm gần đây, nhiều trung tâm sách, cửa hàng sách hiện đại xuất hiện. Sài Gòn cũng là nơi ra đời tờ Gia Định báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên. Sài Gòn giải phóng, Thanh Niên, Tuổi Trẻ nằm trong số những tờ báo lớn nhất Việt Nam hiện nay. Ngoài ra còn có thể kể đến những báo và tạp chí lớn khác như Công an thành phố, Người lao động, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Thời trang, Thế giới mới, Kiến thức ngày nay... Ngoài báo chí tiếng Việt, Thành phố Hồ Chí Minh còn có Saigon Times daily, Thanhniennews bằng tiếng Anh, một ấn bản Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa.

Truyền hình đã xuất hiện tại Sài Gòn từ trước năm 1975, khi miền Bắc còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Ngay sau ngày chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Đài truyền hình Giải phóng đã bắt đầu phát sóng. Đến nay, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh – HTV trở thành đài truyền hình địa phương quan trọng bậc nhất Việt Nam. Ngoài sáu kênh phát trên sóng analogue, HTV còn một số kênh truyền hình kỹ thuật số và truyền hình cáp. Đối tượng chính của HTV là dân cư thành phố và một số tỉnh lân cận.

Thể dục, thể thao

Sân vận động Thống Nhất

Theo số liệu thống kê vào năm 1994, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 492,7 hecta dành cho hoạt động thể thao, tức trung bình 1,02 m²/người, trong đó nội thành là 0,26 m²/người. Với sự gia tăng dân số, con số thực tế hiện nay thấp hơn.117 Vào năm 2005, toàn thành phố có 91 sân bóng đá, 86 bể bơi, 256 phòng tập thể thao.118 Sân vận động lớn nhất thành phố hiện nay là sân Thống Nhất, với 25 nghìn chỗ ngồi. Sân vận động lớn thứ hai là sân Quân khu 7, nằm ở quận Tân Bình. Không chỉ dành cho thi đấu thể thao, đây còn là địa điểm tổ chức nhiều chương trình ca nhạc quy mô lớn. Một địa điểm thể thao quan trọng khác của thành phố là Trường đua Phú Thọ. Xuất hiện từ thời thuộc địa, Trường đua Phú Thọ hiện nay là trường đua ngựa duy nhất của Việt Nam. Sở Thể dục - Thể thao thành phố cũng quản lý một số câu lạc bộ như Phan Đình Phùng, Thanh Đa, Yết Kiêu.

Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những câu lạc bộ thể thao giàu thành tích. Môn bóng đá, Câu lạc Thép Miền Nam - Cảng Sài Gòn, có sân nhà là sân Thống Nhất, từng 4 lần vô định V League. Đội Công an Thành phố cũng từng một lần vô địch vào năm 1995. Các bộ môn thể thao khác có thể kể đến Câu lạc bộ Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh môn bóng chuyền, các câu lạc bộ bóng rổ, cờ, điền kinh, bóng bàn... của thành phố.

Trung tâm văn hóa, giải trí

Khách sạn Park Hyatt Saigon tại Quận 1

Những lý do lịch sử và địa lý đã khiến Sài Gòn luôn là một thành phố đa dạng về văn hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của Sài Gòn đã thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Kinh, Hoa, Chăm... Thời kỳ thuộc địa rồi chiến tranh Việt Nam, Sài Gòn hấp thụ thêm nền văn hóa Âu Mỹ. Cho tới những thập niên gần đây, những hoạt động kinh tế, du lịch tiếp tục giúp thành phố có một nền văn hóa đa dạng hơn.

Với vai trò một trung tâm văn hóa của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 22 đơn vị nghệ thuật, 9 rạp hát, 11 bảo tàng, 22 rạp chiếu phim, 25 thư viện.119 120 Hoạt động của ngành giải trí ở Thành phố Hồ Chí Minh nhộn nhịp hơn bất cứ thành phố nào ở Việt Nam. Hầu hết các hãng phim tư nhân lớn của Việt Nam hiện nay, như Phước Sang, Thiên Ngân, HKFilm, Việt Phim... đều có trụ sở chính ở Thành phố Hồ Chí Minh. Doanh thu các rạp của thành phố chiếm khoảng 60-70% doanh thu chiếu phim của cả nước.121 Thành phố Hồ Chí Minh cũng sở hữu những sân khấu đa dạng. Nhà hát kịch Sân khấu nhỏ tại Quận 3 với những vở kịch thử nghiệm, những vở thư giãn ở Sân khấu Hài 135 Quận 1, Sân khấu kịch IDECAF với những vở lấy từ tuồng tích cổ hoặc tái hiện các danh tác trên thế giới. Lĩnh vực ca nhạc, Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường sôi động nhất, điểm đến của phần lớn các ca sĩ nổi tiếng. Ngoài những sân khấu lớn như Nhà hát Thành phố, Nhà hát Bến Thành, Nhà hát Hòa Bình, Sân khấu Trống Đồng... hoạt động âm nhạc hoạt động âm nhạc ở thành phố ở những phòng trà, quán cà phê đa dạng: Tiếng Tơ Đồng, M&T, Catinat, ATB, Bodega, Carmen...

Thành phố kết nghĩa

Đến thời điểm năm 2008, Thành phố Hồ Chí Minh kết nghĩa với các thành phố sau122 :

  • Hàn Quốc Busan, Hàn Quốc
  • Lào Champasak, Lào
  • Nga Ekaterinburg, Nga
  • Philippines Manila, Philippines
  • Nga Moskva, Nga
  • Nhật Bản Hyogo, Nhật Bản
  • Pháp Lyon, Pháp
  • Trung Quốc Quảng Châu, Trung Quốc
  • Nhật Bản Osaka, Nhật Bản
  • Pháp Rhône-Alpes, Pháp
  • Campuchia Phnôm Pênh, Campuchia
  • Belarus Minsk, Belarus
  • Lào Viêng Chăn, Lào
  • Trung Quốc Thẩm Dương, Trung Quốc
  • Canada Toronto, Canada
  • Hoa Kỳ San Francisco, Hoa Kỳ
  • Trung Quốc Thượng Hải, Trung Quốc
  • Nhật Bản Yokohama, Nhật Bản.

Xem thêm

  • Danh sách vùng đô thị châu Á

Ghi chú

  1. ^ Vào thời điểm năm 2009, thành phố Hồ Chí Minh có số dân 11.162.864 người và là nơi sinh sống của 52 dân tộc Việt Nam. Trong số đó, người Việt (Kinh) là dân tộc có số dân đông nhất, 6.699.124 người, chiếm khoảng 93,5% dân số thành phố. Các dân tộc đông dân sau người Việt là người Hoa (414.045 người), người Khmer (24.268 người) và người Chăm (7.819 người). Ngoài ra còn có 1.128 người nước ngoài sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.6

Chú thích

  1. ^ Saigon, Paris of the Orient, Shows War Tarnish, xuất bản trên báo Lodi News-Sentinel (California, Hoa Kỳ) ngày 7 tháng 4 năm 1971, tr. 14. Nguyên văn "Paris of the Orient" có nghĩa là "Paris của phương Đông".
  2. ^ a ă â b “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2015 phân theo địa phương”. Niên giám thống kê 2015, Tổng cục Thống kê. tr. 86. Truy cập 23 tháng 04 năm 2017. 
  3. ^ “Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương”. Niên giám thống kê 2015, Tổng cục Thống kê. tr. 97. Truy cập 23 tháng 04 năm 2017. 
  4. ^ “Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương”. Niên giám thống kê 2015, Tổng cục Thống kê. tr. 95. Truy cập 23 tháng 04 năm 2017. 
  5. ^ a ă â b Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
  6. ^ “Niên giám thống kê năm 2011”. Cục Thống Kê Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013. 
  7. ^ H.Hiệp, H.Việt (ngày 15 tháng 1 năm 2013). “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Phân định rõ trách nhiệm từng cán bộ cơ sở”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013. 
  8. ^ Nguyễn Sự (ngày 6 tháng 7 năm 2012). “Ban hành Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển TP.Hồ Chí Minh”. Báo điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013. 
  9. ^ Trần Lưu (ngày 7 tháng 7 năm 2012). “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2013. 
  10. ^ “Vùng Sài Gòn thời hoang sơ”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  11. ^ Người Man có thể là các dân tộc thiểu số như Mạ, Xtiêng...
  12. ^ “Con đường lập nghiệp của cha ông để có Sài Gòn - Gia Định”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  13. ^ a ă “Lập đồn thu thuế đầu tiên”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  14. ^ Hai nhóm người Hoa theo Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên bỏ xứ ra đi vì không cam chịu sự cai trị của Mãn Thanh, không phải mang danh nghĩa phản Thanh phục Minh.
  15. ^ “Lịch sử hình thành đất Sài Gòn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  16. ^ Lê Quỳnh, Chuyển giao quân sự: Trường hợp nhà Nguyễn. BBC Việt ngữ, 19 tháng 2 năm 2004.
  17. ^ “Công cuộc khai hoang ở Nam Bộ vào thời các chúa Nguyễn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  18. ^ a ă “Niên biểu 300 năm Sài Gòn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  19. ^ a ă â Quy hoạch Sài Gòn 1772 vượt xa tầm nhìn người Pháp 1865, Báo Tuổi trẻ, 22/03/2016
  20. ^ a ă “Sài Gòn biến đổi và hình thành một thành phố theo kiểu phương Tây”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  21. ^ Goodman, Allan E. Politics in War. Cambridge, MA: Havard University Press, 1973. tr 14
  22. ^ Phạm Quỳnh. Hành trình nhật ký': mười ngày ở Huế, một tháng ở Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký. Yerres: Ý Việt, 1997. tr 98.
  23. ^ Portraits de Saigonnais
  24. ^ “Viên ngọc Sài Gòn thời thuộc Pháp “sáng” cỡ nào?”. 
  25. ^ a ă â http://tuoitre.vn/tin/ban-doc/20160510/vien-ngoc-sai-gon-thoi-thuoc-phap-sang-co-nao/1093378.html
  26. ^ Bản đồ Đô thành Saigon
  27. ^ Pierre Brocheux và Daniel Hémery. Indochina, An Ambiguous Colonization 1858-1954. Berkeley, CA: University of California Press, 2009. tr 336-374.
  28. ^ Metzner, Edward. Reeducation in Postwar Vietnam. College Station, TX: Tẽas A&M University Press, 2001. tr 5-9.
  29. ^ “Saigon la perle de l'extreme orient”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015. 
  30. ^ Tiến sĩ James M. Carter (ngày 2 tháng 12 năm 2008). “'Kỳ tích xây dựng của thập kỷ'”. BBCVietnamese. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  31. ^ DIALECTICS OF URBAN PROPOSALS FOR THE SAIGON METROPOLITAN AREA. P.31-32
  32. ^ DIALECTICS OF URBAN PROPOSALS FOR THE SAIGON METROPOLITAN AREA. P.109
  33. ^ “Giai đoạn 1955”. Truy cập 10 tháng 8 năm 2016. 
  34. ^ “Sài Gòn dưới thời Mỹ Ngụy”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  35. ^ Nigel Cawthorne, Chiến tranh Việt Nam Được Và Mất, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm xuất bản 2007, tr. 396
  36. ^ The Columbia Guide to America in the 1960s
  37. ^ Nghị quyết của Quốc hội năm 1976 tại Wikisource tiếng Việt.
  38. ^ a ă Evans và Rowley, tr. 51
  39. ^ Evans và Rowley, tr. 53
  40. ^ Brown, David (ngày 7 tháng 7 năm 2013). “Saigon's Chinese--going, going, gone”. Asia Sentinel. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2013. 
  41. ^ “Sơ lược thành tựu công nghiệp Tp.HCM sau 25 năm đổi mới”. 
  42. ^ “Khám phá”. 
  43. ^ a ă â http://www.thesaigontimes.vn/125900/TPHCM-Dan-so-co-the-tren-10-trieu-nguoi-vao-2020.html
  44. ^ “Saigon's Chinese--going, going, gone”. bizlive. Ngày 7 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016. 
  45. ^ “Sài Gòn xưa - Lịch sử vùng đất”. Liên minh Hợp tác xã Tp.HCM. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 20088. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.  Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate= (trợ giúp)
  46. ^ “Giới thiệu khái quát về thành phố Hồ Chí Minh”. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2012. 
  47. ^ “Thành phố với vẻ đẹp trời cho”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  48. ^ “Ðịa hình”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  49. ^ “Ðịa chất - đất đai”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  50. ^ a ă “Nguồn nước và thủy văn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  51. ^ a ă “Khí hậu, thời tiết”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  52. ^ “World Weather Information Service – Ho Chi Minh City”. World Meteorological Organization. Truy cập 5 tháng 9 năm 2012. 
  53. ^ “Weatherbase: Historical Weather for Ho Chi Minh City”. Weatherbase. Truy cập 11 tháng 8 năm 2012. 
  54. ^ “Solar Energy and Solar Photovoltaics in Vietnam”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013. 
  55. ^ "The Mekong river"
  56. ^ Ô nhiễm môi trường và tình trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  57. ^ “TP.Hồ Chí Minh: Chưa có giải pháp cụ thể hạn chế ô nhiễm sông Sài Gòn”. Báo Lao động. Ngày 21 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  58. ^ Kiều Anh, "Thành phố Hồ Chí Minh: Đối mặt với ô nhiễm môi trường". Báo Khoa học và Phát triển, 25 tháng 7 năm 2008.
  59. ^ “Tp. Hồ Chí Minh: Giải pháp nào chống ngập nước?”. Báo Giao thông Vận tải. Ngày 30 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  60. ^ “Sài Gòn phải ngập vì các dự án chống ngập”. Báo nguoi-viet. Ngày 26 tháng 9 năm 2016. 
  61. ^ Ô nhiễm môi trường tại Thành phố Hồ Chí Minh: Hiểm họa mới SGGP Online, truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2010.
  62. ^ Đơn vị hành chính, Đất đai và Khí hậu Niên giám thống kê 2011, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
  63. ^ Quy định của luật tổ chức Hội đồng Nhân dân trên trang của Hội đồng Nhân dân thành phố
  64. ^ Thông tin tổ chức hành chính Thành phố Hồ Chí Minh trên trang của Thành phố.
  65. ^ “Danh sách Ủy viên UBMTTQ Thành phố nhiệm kỳ X (2014 - 2019)”. Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. 
  66. ^ Thu Hoài (22 tháng 2 năm 2017). “Bà Tô Thị Bích Châu giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh”. Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2017. 
  67. ^ “Số liệu 2005”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  68. ^ Nguồn lao động trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  69. ^ Dân số và Lao động Việt Nam Niên giám thống kê 2011, Tổng cụ thống kê.
  70. ^ Thành phố Hồ Chí Minh: Thời điểm "nước rút" hoàn thành kế hoạch 2012, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
  71. ^ TP HCM đặt mục tiêu thu nhập bình quân 4.000 USD mỗi người, Theo báo VnExpress.
  72. ^ “Chỉ tiêu tổng hợp giai đoạn 2001 - 2006”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  73. ^ Vũ Văn Hòa. “Thư ngỏ”. Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  74. ^ Hàn Ni, "Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu thu hút vốn FDI vì biết cách bứt phá". Sài Gòn giải phóng, 3 tháng 11 năm 2007.
  75. ^ a ă â “TPHCM sau 1 năm gia nhập WTO - Vượt lên chính mình…”. Thông tin Thương mại Việt Nam. Ngày 14 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  76. ^ “PCI 2011: Lào Cai và Bắc Ninh 'vượt vũ môn' ngoạn mục”. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012. 
  77. ^ Minh Anh, "Quy mô tiêu dùng 41,5 tỉ USD: Đầu kéo phát triển!". Tuổi Trẻ, 20 tháng 8 năm 2007.
  78. ^ Hình thành và phát triển, trên trang Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
  79. ^ Thành phố Hồ Chí Minh: Chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại, Mạng thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
  80. ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  81. ^ Việt Nam Cộng hòa bản đồ hành chánh. Đà Lạt: Phân cục địa dư, 1967.
  82. ^ Văn bản liên kết, Nhóm Nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long.
  83. ^ Dân số thành thị trung bình năm 2012 của TP HCM, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  84. ^ Dân số nam trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  85. ^ Dân số nữ trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  86. ^ Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  87. ^ “Phần II: Kết quả chủ yếu”. Tổng cục thống kê. tr. 12. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014. 
  88. ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam
  89. ^ “Dân số lao động xã hội”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014. 
  90. ^ “Dự báo số khách vãng lai có mặt trung bình mỗi ngày”. Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014. 
  91. ^ a ă Y tế và chăm sóc sức khỏe trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  92. ^ Các chỉ tiêu về thể lực trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  93. ^ Số liệu nhân lực y tế năm 1996 - 2005 trên trang của Sở Y tế thành phố.
  94. ^ Thống kê về y tế năm 2005 trên trang của Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  95. ^ Mạng lưới y tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  96. ^ Các thông kê về giáo dục năm 2008, trên trang của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  97. ^ Số trường, lớp, học sinh, giáo viên hệ mầm non... trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  98. ^ Danh sách các trường quốc tế trên trang Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh.
  99. ^ Đại học Quốc gia TPHCM - Lời giới thiệu
  100. ^ a ă Giáo dục và đào tạo I trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  101. ^ a ă â b c Giao thông vận tải I trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  102. ^ "Có nên xây sân bay quốc tế mới ở tỉnh Hải Dương", Tạp chí Hàng không, số tháng 10 năm 2007 của Cục hàng không dân dụng Việt Nam.
  103. ^ “Vận tải - Bưu điện”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014. 
  104. ^ Ngô Lực Tải, Tìm lời giải chung cho giao thông ở Hà Nội và TP. HCM. Bộ Giao thông Vận tải, 29 tháng 5 năm 2008.
  105. ^ “Sân bay Tân Sơn Nhất đón hành khách thứ 25 triệu”. Ngày 12 tháng 5 năm 2015. 
  106. ^ Duy Anh - Bình Minh (ngày 14 tháng 9 năm 2007). “TP.Hồ Chí Minh: Đi xe buýt lãng phí nhiều, hiệu quả thấp”. Đời sống & Pháp luật. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014. 
  107. ^ Phan Anh, "3 năm nữa TP HCM có tàu điện ngầm". VnExpress 30 tháng 4 năm 2007.
  108. ^ Phạm Cường (ngày 27 tháng 11 năm 2007). “Giải pháp giao thông TP.HCM: Chỉ là đối phó”. VietNamNet. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014. 
  109. ^ “Không gian đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Phần 2)”. Đài truyền hình Việt Nam. Ngày 25 tháng 5 năm 2005. 
  110. ^ Ngọc Huân (ngày 1 tháng 8 năm 2008). “TP.Hồ Chí Minh: Ngán ngẩm với quy hoạch”. Báo Lao động. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014. 
  111. ^ “Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh chưa xứng tầm”. Thư viện pháp luật. Ngày 2 tháng 5 năm 2008. 
  112. ^ Đổng Thị Kim Vui (ngày 13 tháng 12 năm 2007). “Du lịch thành phố Hồ Chí Minh: Chuyển biến rõ rệt sau 1 năm gia nhập WTO”. Báo kinh tế & Đô thị. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 20088. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.  Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate= (trợ giúp)
  113. ^ “Khách sạn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  114. ^ Lê Trần Phương (ngày 1 tháng 11 năm 2006). “Cảm nhận từ bảo tàng chứng tích chiến tranh”. Báo Bình Dương. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  115. ^ “Hệ thống bảo tàng”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  116. ^ a ă “Báo chí - xuất bản - phát hành - in ấn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  117. ^ Văn hóa thông tin - thể dục thể thao trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  118. ^ Thể dục thể thao, trang của Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  119. ^ “Văn hoá – Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. 
  120. ^ Văn hóa nghệ thuật, trên trang của Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  121. ^ Trần Đình, "Rạp chiếu phim ở Thành phố Hồ Chí Minh: Trở lại đúng vị trí "công nghệ giải trí"". Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, tháng 1 năm 2006.
  122. ^ Nguồn: Trang chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh

(Nguồn: Wikipedia)

Từ khóa » Dân Số Sài Gòn Trước 1975