THANH TỊNH: Những Bước Chân âm Thầm

Có thể là hình ảnh về 1 người

Mình yêu mến nhà văn Thanh Tịnh. Mỗi lần đạp xe thể dục ngang qua cầu chợ Dinh là mình nhớ ông, nhớ cái bến đò ngày xưa mẹ ông ngồi bán hàng nước. Đạp xe vô Tây Thượng lại nhớ con đường Thanh Tịnh. Những bài này mình đã đăng trên báo Giáo Dục Thời Đại.

Đoàn Xanh (FB. Xanh Doan)

***

Giữa mùa Phật Đản tôi bỗng nhớ Thanh Tịnh. Cái bút danh dịu dàng ấy đã nói lên tất cả vì sao mà nhớ?

Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, sau đổi là Trần Thanh Tịnh. Năm sinh 1911 ( có sách ghi 1913, 1917) tại làng Dương Nổ, Thừa Thiên Huế. Làng Dương Nổ có 7 họ. Trong đó 3 họ lớn nhất là Nguyễn, Trần, Đoàn. Thanh Tịnh gốc họ Trần, nhưng không ở chánh quán. Ông sinh trưởng ở Tây Thượng, một vùng đất cũng thuộc làng Dương Nổ, nhưng nằm trên địa phận xã Phú Thượng. Tương truyền, những ngài khai canh từ Bắc vào, ban đầu định cư ở Tây Thượng. Nơi đây vẫn còn đền thờ. Sau đó họ mới về Dương Nổ thành lập ngôi làng trù phú hiện nay. Thanh Tịnh đã đưa địa danh làng Mỹ Lý (? ) đi vào văn học sử trong truyện “Tôi đi học” ( Tập Quê mẹ), tương tự như Vỹ Dạ nổi tiếng nhờ Hàn Mặc Tử ( Đây thôn Vỹ Dạ ).

Thanh Tịnh được biết khá sớm với tập thơ đầu tay “Hận Chiến Trường”. Truyện ngắn đầu tay của ông là “Cha làm trâu, con làm ngựa” đăng trên Thần kinh tạp chí 1934. Bắt đầu nổi tiếng ở nửa cuối những năm 30 của thế kỷ XX. Từng đoạt giải nhất cuộc thi Thơ do Hà Nội Báo tổ chức năm 1936. Thơ văn của ông đăng trên các báo Phong Hóa, Ngày nay, Tinh Hoa, Tiểu thuyết thứ Năm…Văn nghiệp của ông gồm nhiều mãng như Khảo luận, Văn hóa, 5 tập truyện sáng tác hồi 1936 – 1941, 2 tập thơ, 1 tập truyện xuất bản hồi 1954 – 1980…

Gia cảnh nghèo, ông chỉ học đến bằng thành chung 1933. Rồi làm đủ nghề dạy học, viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo. Do vốn sống rộng, đi nhiều, biết nhiều, nhờ làm nghề đạc điền và nghề hướng dẫn du lịch, ông khẳng định mình bằng các tập truyện ngắn Quê mẹ, Chị và em, Ngậm ngải tìm trầm (1941-1943). Phong trào cách mạng mùa thu năm 1945, Thanh Tịnh tham gia cướp chính quyền ở Huế. Toàn quốc kháng chiến (1946), ông lên đường kháng chiến chống Pháp.

Những năm sống và làm việc ở tạp chí Văn nghệ quân đội, ông sống đạm bạc, lẻ loi, trong khi nhiều người cùng hoàn cảnh tập kết như ông đã “đi bước nữa” . Năm 1975, đất nước thống nhất, ông trở về Huế, gia đình ly tán. Ngày 17 tháng 7 năm 1988 ông mất đi, vẫn không gặp mặt vợ con. Mấy năm sau, người con trai biết tin về cha minh trở về tìm… nhưng đã quá muộn. Anh cải táng đưa ông về Huế, phần mộ đặt tại núi Thiên Thai.

Thơ văn Thanh Tịnh trước sau giữ sự thành thật, thấm đẫm vẻ dịu dàng, kín đáo. Bài thơ “Tơ trời với tơ lòng” ông viết:

Còn nhớ hôm xưa độ tháng này

Cánh đồng xao xác lá đùa cây

Vô tình thiếu nữ cùng ta ngắm

Một đọan tơ trời lững thững bay

Tơ trời theo gió vướng mình ta

Mỗi khắc bên nàng nhẹ bỏ qua

Ngiêng nón nàng cười, đôi má thắm

Ta nhìn vơ vẩn áng mây xa

Tìm dấu hôm xưa giữa cánh đồng

Bên mình chỉ nhận lúa đầy bông

Tơ trời lơ lửng vươn mình uốn

Để nối duyên mình với… cõi không.

Đọc văn Thanh Tịnh một lần, khó ai quên. Ông tiếp thụ thái độ khách quan hiện thực, gọn nhẹ, trong sáng. Giàu sự tinh tế của bút pháp nghệ thuật miêu tả chi tiết sự việc. Sở trường đặc biệt về truyện ngắn của ông là nghệ thuật gói gọn thông tin, vào trong những giới hạn cho phép. Chính khả năng này đã giúp ông viết thật dễ dàng, uyển chuyển, những hình ảnh như thể chứa đựng sẵn trong đầu. Thanh Tịnh ghi lại kỷ niệm lần đầu đi học, bằng đoạn văn “xuất thần” Tôi đi học trong tập Quê Mẹ.

Ấn tượng lần đầu gặp ông về làng ăn chạp, Dương Nổ (1976) là ông có cái dáng cao lớn, khuôn mặt đăm chiêu cố hữu. Một người nhạy cảm, từng trải. Lúc trò chuyện, ông giữ mãi cái giọng bùi ngùi. Tuy có cái nhìn buồn về hiện thực như vậy, nhưng vẫn dành nhiều tình cảm cho cho những người thuộc tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Các thiên truyện Thanh Tịnh đã viết nói lên một nỗi buồn thăm thẳm như thế (Bên con đường sắt, Tình thư, Con so về nhà mẹ, Con ông Hoàng). Hình ảnh quê hương, bạn chiến đấu vĩnh viễn khắc khoãi trong nỗi trầm mặc dằng dặc ấy. Bài thơ “Nhớ Huế quê tôi” ông viết:

Sông núi vươn dài tiếp núi sông

Cò bay thẳng cánh nối đồng không

Có người bảo Huế, xa, xa lắm!

Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng

Mười một năm trời mang Huế theo

Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo

Giọng hò mái đẩy, vờn mây núi

Man mác sông Hương lướt đỉnh đèo

Có bao người Huế không về nữa

Gửi đá ven rừng chép chiến công

Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất

Buồm phá tam giang gió thổi lồng

Lặng lẽ trăm năm bóng cổ thành

Bao lần mắu đỏ nhuộm đồng xanh

Cờ sao ngày ấy trùm cung cấm

Sông nước xôn xao núi chuyển mình.

Bài thơ này nằm trong nhóm 100 thi phẩm hay nhất Việt Nam của thế kỷ XX. Lời thơ da diết, mong chờ, khắc khoãi.

Cuộc đời văn nghiệp của Thanh Tịnh là ngọn cỏ để gió đùa. Mà lại là cỏ chỉ! Ông thì thoảng có cái sự hài hước của một người đã quá buồn! Tôi vốn không ưa những gì có hơi hướm bông đùa nên không chú ý nhiều về mãng ca dao, tấu nói của ông. Có lẽ nào sự tuyệt vọng về hạnh phúc gia đình đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của Thanh Tịnh đa dạng?

Con đường Thanh Tịnh đã đi, con đường bình dị như bao xiết con đường mà các nhà văn, nhà thơ khác đã đi. Nhưng tiếng động, của bước chân âm thầm trên chặng đường ấy, để lại trong người đọc, ngẫm lại thì thật sâu đậm.

BÀI 2- Hàng năm, cứ đến ngày khai trường, nhiều người bồi hồi nhớ đến bài văn xuôi đẹp như thơ “Tôi đi học” của Thanh Tịnh. Trong sách giáo khoa, nhiều thời kỳ, bài văn ấy được chọn cùng những tác phẩm kinh điển khác…được nhiều thế hệ học trò, thuộc nằm lòng…

Nỗi buồn ấu thơ

Một ngày tháng 7 âm lịch, mưa ngâu rơi nhẹ trên những cành phượng vỹ nở hoa lần cuối bên bờ sông Hương, tôi đi tìm nơi Thanh Tịnh đã sống thời niên thiếu. Con đường vào nhà ông bây giờ đổi thay nhiều (hiện nay thuộc xã Phú Thượng huyện Phú Vang Thừa Thiên Huế). Đường láng nhựa, nhà cửa san sát. Khi Thanh Tịnh trở lại Huế sau 30/4/1975, ông kể: Nhà mình ở sát bên phủ Định Viễn, gần bến đò chợ Dinh. Thanh Tịnh là con trai “độc đinh” của một người thợ mộc nghèo. Giòng tộc “độc đinh”, nội ông chỉ có cha ông là con trai duy nhất, sau này ông có một người con trai tên là Trần Thanh Vệ, anh này cũng chỉ sinh cho ông một cháu nội trai duy nhất. Ông tâm sự: “Anh có biết câu hò ru em mà các bà mẹ Huế hay ru “À ơ… ờ ru con cho théc cho muồi/ Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu/ Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu/ Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh” không? Chợ Dinh là quê tôi. Qua Đập Đá về Vỹ Dạ, rồi về một đoạn ngắn nữa, làng Dương Nỗ đó. Nhà tôi ở cạnh nhà của ba “đại gia” là nhà “Hồ Đắc”, “Nguyễn Khoa” và phủ “Định Viễn” (con vua Minh Mạng)”…

Sinh ra trong một gia đình lao động nghèo, sống gần những gia đình quyền quý “danh gia vọng tộc” ở kinh đô Huế, ông có mặc cảm do đó nuôi chí học thật giỏi. Những lúc rảnh rỗi, ông được mẹ dẫn ra chơi nơi hàng nước của bà ở bến đò chợ Dinh, cách nhà khoảng 200 mét. Bến đò chợ Dinh thời ấy tấp nâp khách, sang sông Hương lên buôn bán ở các chợ Dinh, chợ Bao Vinh, chợ Đông Ba…Phương tiện duy nhất là chiếc đò chèo tay, trể chuyến đò, khách thường vào hàng của mẹ ông uống nước chè xanh, ăn quà vặt đợi đò. Ông kể: Tôi còn bé, nhưng ngồi say mê hóng chuyện. Và ngày qua ngày cái khiếu kể chuyện phát triển khi nào không biết. Một số truyện ngắn của tôi ở tập “Quê mẹ” và “Chị và em” được lấy cái cốt cái sườn, nhân vật thực từ cái “trạm đó” . Tôi chỉ bịa đặt, thêm thắt hư cấu ít nhiều…

Ông nói đơn giản thế, nhưng tôi tin rằng, những điều trong bài “Tôi đi học” là những cảm xúc rất thật, in đậm dấu ấn vào tâm hồn cậu bé nhà quê trong sáng như tờ giấy trắng, để mãi mãi làm người đọc rưng rưng xúc động như thể tâm trạng buổi đầu đi học của mình. Bởi tuổi thơ của ông được hun đúc bằng những hình ảnh đẹp của người cha thợ mộc cần cù, người mẹ tần tảo chịu thương chịu khó.

Lần theo “Tôi đi học”

Theo lời kể của những bậc bô lão trong làng, đã vào hàng “thượng thọ”, mới biết thế hệ của ông và họ thường đi học chữ Hán trước khi học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Cậu bé Thanh Tịnh được học chữ Hán 3 năm với một vị sư chùa Ba La Mật, cách nhà ông 300 mét, nên Thanh Tịnh viết văn rất sinh động về tuổi học trò ê a câu Tam Tự kinh. Học với một vị sư hay chữ trong chốn thiền môn, ông được tiếp thụ nhiều điều lễ nghĩa.

Đi học chữ quốc ngữ, ông được mẹ dẫn đến trường trong “buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh….” Tôi lần theo trang văn ông viết: “Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quí và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.” Được bô lão thôn Tây Thượng, làng Dương Nỗ chỉ dẫn, tôi chạy xe dọc theo con sông nhỏ chảy vào chợ Phổ (xã Phú Thượng huyện Phú Vang Thừa Thiên Huế). Bây giờ con sông đã hẹp vì người ta đổ đất bán nền nhà đô thị hóa, cánh đồng cũng không còn. Nhà cửa san sát, con đường “Tôi đi học” của cậu bé Thanh Tịnh ngày xưa vẫn nhỏ hẹp nhưng được láng nhựa và đặt tên ông- đường Thanh Tịnh, nối với con đường mang tên nhà thơ Tùng Thiện Vương.

Đi đến chợ Vỹ Dạ (thành phố Huế), xem ngôi trường Thanh Tịnh miêu tả: “ Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần. Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng.” Hởi ôi! Ngôi trường xưa của ông (1975 trở về trước mang tên trường tiểu học Thế Dạ, sau 1975 đổi thành tiểu học Vỹ Dạ) nay đã bị san phẳng thành “khu đất vàng” mời chào nhà đầu tư, trơ lại hai chân cái cổng trường cụt lũn, tạm thời làm bãi đổ vật liệu xây dựng.

Buồn! Tôi ghé thăm ông Trần Đại Vinh- nhà nghiên cứu Huế, người cùng họ, cùng làng Dương Nỗ với Thanh Tịnh. Ông Vinh có nhiều công trình nghiên cứu về làng xã ở Thừa Thiên Huế, ông cho biết: “ làng Mỹ Lý là cái tên hư cấu. Ông Thanh Tịnh họ Trần Văn (Trần Văn Ninh) có thể là người ngụ cư trên đất Dương Nỗ thôi. Họ Trần chính gốc có 3 phái là Trần Đại, Trần Phước và Trần Văn”. Địa phận làng Dương Nỗ rất đặc biệt, bắt đầu từ Bến Cạn giáp ranh phường Vỹ Dạ, đến tận chợ Mai xã Phú Thượng, trước đây gọi là thôn Tây Thượng thuộc về làng Dương Nỗ, có đình làng, nghĩa địa và khu dân cư họ Trần đông đúc, gia đình ông Thanh Tịnh sống ở đây. Sau đó các bậc tiền bối đi thêm 5 km, đến cuối làng Nam Phổ, khai canh khai khẩn thành làng Dương Nỗ hiện nay (nơi Bác Hồ thời niên thiếu đã sống cùng cha và anh).

Dừng lại ở giai đoạn ấu thơ và bắt đầu đi học của Thanh Tịnh, với cái mốc “Tôi đi học”, người viết bài cảm nhận trong ông tất cả văn mạch ray rứt nỗi buồn, thấp thoáng giữa ngôn ngữ và hình tượng văn chương, tạo thành nỗi rung động cho người đọc…

Có thể là hình ảnh về 10 người, trẻ em và mọi người đang đứng

BÀI 3- KỲ II: THANH TỊNH – TIẾNG THỞ DÀI CÓ THẬT…

Chuyện đời buồn

Lên 11 tuổi Thanh Tịnh học ở trường Pen-lơ-ranh, cách nhà Ga Huế khoảng 300 mét, trên đường Lê Lợi –Huế. Bạn học toàn con nhà giàu, gia đình danh giá. Con nhà nghèo, nên ông quyết tâm học thật giỏi. Năm 22 tuổi ông thi đỗ đip-lôm (trung học), bắt đầu sống tự lập, xin làm nhân viên thư viện ở trường Prô-vi-đăng (nay là cơ sở của trường Đại học Khoa học Huế), để vừa làm, vừa học thi Tú tài. Thi đỗ ông được nhận vào sở Điền địa. Do công việc chuyên môn, ông đi nhiều, về các vùng nông thôn. Đây là những chuyến đi thực tế quan trọng, mở rộng vốn hiểu biết về người nông dân, chuyện làng, xã, phong tục tập quán. Từ đó, phần lớn truyện ngắn của ông được hình thành như truyện “Ngậm ngãi tìm trầm”, là chuyện ông được nghe dân tiều phu ở núi Truồi Phú Lộc kể. Sau đó, do bất đồng với trưởng phòng người Pháp, Thanh Tịnh đến với nghề báo, làm thư ký biên tập cho tập san nghiên cứu nổi tiếng “Những người bạn của Huế cổ” (Les amis du vieux Huế), gần 6 năm, nhờ vậy ông biết nhiều về văn hoá, kiến trúc, phong tục của cố đô Huế. Trong thời gian làm thư ký tòa soạn, ông còn làm thêm hướng dẫn viên du lịch.

Sinh thời, Thanh Tịnh không muốn nói về gia đình. Do đó tên vợ ông, người ở đâu, nghề nghiệp…không có tài liệu nào công bố. Chỉ sau khi ông qua đời tại Hà Nội (17-7-1988 ), mới biết ông có vợ, và một con trai tên là Trần Thanh Vệ trước khi từ Huế, ra Việt Bắc họp Đại hội Văn hóa (năm 1946, Thanh Tịnh lúc ấy là Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung bộ). Đúng thời điểm Toàn quốc kháng chiến, ông đi theo cách mạng, vào bộ đội. Từ đó, chiến tranh đã chia cắt ông với quê hương, gia đình. Nguyễn Vỹ kể lại trên tạp chí Phổ Thông (Sài Gòn): Do hoàn cảnh chia cắt và điều kiện bất khả kháng, vợ Thanh Tịnh tái giá với một sĩ quan cộng hòa. Khoảng năm 1958 hay 1959 gì đó, một hôm nữ sĩ Trinh Tiên ở Nha Trang, vợ nhà văn Bửu Đáo vào Sài Gòn, ghé thăm ở tòa soạn. Sẵn điện thoại, bà Trinh Tiên gọi cho bà tỉnh trưởng Long An. Gọi xong, Trinh Tiên mỉm cười hỏi tôi:

– Anh có biết bà tỉnh trưởng Long An này là ai không?

– Tôi không quen.

– Vợ của anh Thanh Tịnh đấy.

Đất nước 30 năm chiến tranh, bao người phải chịu nỗi đau chia ly, nhưng hoàn cảnh Thanh Tịnh bi đát nhất. Hầu như cả đời ông chịu cảnh “ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân” (chữ của Thanh Tịnh). Xót xa hơn, đất nước thống nhất, Thanh Tịnh chỉ về Huế duy nhất một lần, và việc ông làm trong lần ấy là viết đơn xin bảo lãnh cho người chồng sau của vợ. Một đại tá cách mạng bảo lãnh cho một đại tá chế độ cũ vì một người phụ nữ mà họ yêu thương!

Tiếng thở dài

Năm 1954, miền Bắc hòa bình, Thanh Tịnh là Đại tá QĐND, làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông cũng là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa I, II. Phụ trách tờ Văn nghệ Quân đội, ông gắn bó với mảnh đất Thủ đô đến cuối đời. Những bạn văn sống cùng thời, đều hiểu hoàn cảnh của ông, quê hương ở Huế, nhưng cả đời hầu như sống trên đất Bắc. Huế trong ông gắn liền với những hoài niệm buồn thương day dứt.

Tại lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thanh Tịnh (1911-2011), Đại tá nhà văn Ngô Vĩnh Bình – Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội, bùi ngùi thông báo: Trước đó một tuần, đã điện cho con trai Thanh Tịnh để mời ra dự lễ kỷ niệm, nhưng vì một lý do đặc biệt ông ấy không thể có mặt tại Hà Nội. Lý do là mẹ ông – người vợ “duy nhất” của nhà thơ Thanh Tịnh – vừa mất. Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, bà ra đi đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thanh Tịnh.

Còn rất nhiều câu chuyện, rất nhiều giai thoại mà anh em văn nghệ sĩ Hà Nội vẫn lưu truyền về nhà thơ Thanh Tịnh, trong đó có một kỷ niệm đến giờ nhớ lại nhiều người rơi nước mắt. Thời bao cấp khó khăn, các nhà văn, nhà thơ ở Tạp chí Văn nghệ quân đội, nơi Thanh Tịnh nhiều năm gắn bó, phải làm thêm “kế hoạch 3” là dán bìa các tông thành các hộp giấy. Cuối năm ấy cơ quan được phân mỗi người một cân thịt lợn. Tất cả ngồi rán phần của mình thành mỡ để mang về nhà ăn Tết, đến lượt một nhà thơ trẻ, do đãng trí nên khi rán xong đã đổ ngay mỡ đang nóng vào chiếc can nhựa, lúc quay lại thì thấy chiếc can đã nhũn ra, mỡ chảy hết! Thanh Tịnh nhìn thấy liền mang suất của mình tặng cho nhà thơ trẻ. Rất nhiều năm sau, nhà thơ ấy vẫn ân hận mãi “không hiểu sao lúc ấy tôi lại cầm suất thịt của bác, Thanh Tịnh, tại sao tôi không nghĩ ra là tiêu chuẩn Tết thì ai cũng cần…”.

Cũng là chuyện về ngày tết xa quê hương của Thanh Tịnh, các đồng nghiệp của ông ở Tạp chí Văn nghệ quân đội vẫn kể với nhau: Thanh Tịnh không chơi hoa đào, thủy tiên, hoàng mai như Xuân Diều, Huy Cận…ông chỉ thích…hoa giấy! Không hiểu, một số người lại nghĩ ông chơi Tết “tằn tiện”. Mãi về sau có người hỏi chuyện, ông bảo mình chơi hoa giấy để nhớ về quê mẹ -Huế, nơi ấy ngày Tết bao giờ cũng phải có hoa giấy làng Thanh Tiên…

Có thể nói, viết về Thanh Tịnh trong nỗi nhớ, nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã “ký họa” chân dung ông rất tài tình: “Muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào, phải nhìn lúc ông đi bộ. Ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn. Không trù tính định liệu, không ham muốn, ông nhìn thẳng về phía trước mà hoá ra chẳng nhìn gì cả. Đến cả bước chân của ông cũng không ai nghe tiếng nữa. Chỉ có tiếng thở dài của ông là có thật”.

FB. Xanh Doan

Nguyễn Thanh Huệ (T-HTK) st

Chia sẻ:

  • X
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Giai Thoại Về Nhà Văn Thanh Tịnh