Thành Tựu Và Kinh Nghiệm Trong 30 Năm đổi Mới Quân Sự, Quốc Phòng

Zalo Facebook Twitter Lưu bài viết Bản in Copy link Thành tựu và kinh nghiệm trong 30 năm đổi mới quân sự, quốc phòng ảnh 1Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. (Ảnh: Trọng Đức/TTXVN)

Nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện nhiệm vụ đổi mới quân sự, quốc phòng (1986-2016), ngày 16/12, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng sẽ tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: "30 năm đổi mới quân sự, quốc phòng-Thành tựu và kinh nghiệm."

Nhân dịp này, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài viết: "Thành tựu và kinh nghiệm trong ba mươi năm đổi mới quân sự, quốc phòng."

Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết:

Cách đây 30 năm, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng quy luật khách quan, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã tập trung phân tích, đánh giá đúng những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Đây là bước ngoặt quan trọng, góp phần tạo sự chuyển biến toàn diện đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đặc điểm lớn chi phối đến công cuộc đổi mới đất nước, đó là: Từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải trải qua thời kỳ quá độ, với không ít khó khăn, thách thức; trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ; các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình," thúc đẩy “tự diễn biến," "tự chuyển hóa”; tình hình biên giới và trên Biển Đông diễn biến phức tạp, khó lường... Điều đó khẳng định giá trị to lớn của những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được trong hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cùng với quá trình đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng có sự phát triển, được thể hiện tập trung thống nhất ở đường lối đổi mới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Đó là nhân tố quyết định những thành tựu, những thắng lợi to lớn trên các lĩnh vực của công cuộc đổi mới - mốc son mới trong lịch sử dân tộc. Trên nền tảng đó, Quân đội nhân dân Việt Nam tự hào là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và là lực lượng nòng cốt thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhìn lại 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật ở những nội dung cơ bản sau:

Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Đây là thành tựu cơ bản, bao trùm nhất trong 30 năm đổi mới quân sự, quốc phòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kết quả đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có đổi mới về quân sự, quốc phòng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trên cơ sở đó, các ban, bộ, ngành, cơ quan tham mưu chiến lược, nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn.

Bộ Quốc phòng đã thường xuyên chỉ đạo các lực lượng nắm chắc tình hình thế giới, khu vực và trong nước, kiểm soát chặt chẽ tình hình biên giới, vùng trời, vùng biển; chủ động xây dựng kế hoạch, phương án đối phó hiệu quả với các tình huống, không để bị động, bất ngờ về chiến lược. Đến nay, chúng ta đã rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quyết tâm, kế hoạch tác chiến ở tất cả các cấp và tổ chức luyện tập, diễn tập thuần thục các phương án, nhất là trên hướng và địa bàn chiến lược. Các lực lượng đã triển khai, thực hiện chặt chẽ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án về quân sự, quốc phòng gắn với phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn cả nước.

Đồng thời, tích cực tham gia xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp nảy sinh; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên các địa bàn, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Những năm gần đây, cán bộ, chiến sỹ Quân đội đã tích cực, chủ động phối hợp với các lực lượng, tham gia giúp đỡ nhân dân phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; xử lý bom mìn, chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh; đấu tranh phòng, chống tội phạm qua biên giới...; góp phần phát huy phẩm chất cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ," xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hai là, nền quốc phòng toàn dân được xây dựng ngày càng vững mạnh toàn diện; có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Có được kết quả đó là do sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.

Với đường lối đúng đắn, tư duy đổi mới, linh hoạt, sáng tạo, Đảng ta đã phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, tăng cường cả về thế và lực, nhất là tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh. Nhờ đó, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta có bước phát triển toàn diện, mang tính đột phá. Chúng ta đã nỗ lực xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại; với bản chất hòa bình, tự vệ. Đó là nền quốc phòng của dân, do toàn dân tham gia xây dựng, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.

Với cơ chế đó, các tiềm lực chính trị-tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ và tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân ngày càng được tăng cường, làm cho sức mạnh quốc phòng của đất nước không ngừng được nâng cao, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường.

Đến nay, thế bố trí các lực lượng được điều chỉnh hợp lý trên phạm vi cả nước; quy hoạch xây dựng công trình chiến đấu, công trình phòng thủ được triển khai tích cực, nhất là trên tuyến biên giới, biển, đảo. Chúng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh xây dựng và hoạt động các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), nâng cao khả năng phòng thủ quốc gia cả trong nội địa, trên các tuyến biên giới và vùng biển, đảo. Xây dựng khu vực phòng thủ là chủ trương chiến lược của Đảng và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của các ban, bộ, ngành, địa phương; trong đó, sự tham gia của các đơn vị Quân đội đứng chân trên địa bàn, nhất là vai trò trung tâm trong phối hợp tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan quân sự địa phương các cấp là rất quan trọng.

Cùng với đó, công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân được coi trọng, đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực; góp phần tạo cơ sở, nền tảng cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng và toàn dân trong điều kiện mới. Đây là thành tựu rất cơ bản, phản ánh sâu sắc tính chất toàn dân, toàn diện, hòa bình, tự vệ của nền quốc phòng toàn dân ở nước ta.

Ba là, chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân không ngừng được nâng cao.

Đây là thành tựu quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và là nhân tố cơ bản, cốt lõi của sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân binh chủng, lực lượng hiện đại đã được triển khai một cách cơ bản, hệ thống, phù hợp với điều kiện của đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Đặc biệt, chúng ta đã có nhiều giải pháp mang tính đột phá trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân.

Việc đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy, quản lý kỹ thuật... được đẩy mạnh, có sự chuyển biến mới về chất lượng. Công tác hậu cần, kỹ thuật được thực hiện tốt, nhất là đảm bảo cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biển, đảo. Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16/7/2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) được thực hiện theo đúng lộ trình, kế hoạch, ưu tiên những dự án trọng điểm, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho toàn quân. Công tác nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học công nghệ quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự được chú trọng và có bước phát triển mới, trọng tâm hướng vào các vấn đề về chiến lược quân sự, quốc phòng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch và phương án xử lý các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, bảo đảm sát thực tế, phù hợp với điều kiện mới.

Quá trình đổi mới quân sự, quốc phòng, Bộ Quốc phòng căn cứ vào tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc tiến hành điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, linh hoạt, cơ cấu hợp lý, cân đối các thành phần nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội trong thời bình và thời chiến.

Bốn là, hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh, có bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động; góp phần nâng cao vị thế của đất nước, Quân đội và xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.

Chúng ta đã tích cực, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với các quốc gia, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, bạn bè truyền thống và các nước lớn; từng bước đưa quan hệ đó đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng ở các cấp độ khác nhau với hơn 80 nước, trong đó có các nước lớn. Trên bình diện đa phương, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực và có trách nhiệm của các diễn đàn khu vực và quốc tế, như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)... Đặc biệt, năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam cử lực lượng Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tạo bước đột phá trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung, đối ngoại và hợp tác quốc tế về quốc phòng nói riêng. Điều đó càng khẳng định Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trên thế giới. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã và đang tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước.

Năm là, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân đối với lĩnh vực quốc phòng.

Đây là thành tựu rất quan trọng trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng qua 30 năm đổi mới. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã khẳng định, quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, xuyên suốt trong mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng và quản lý, thống nhất của Nhà nước. Theo đó, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta từng bước thể chế hóa cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; về quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với đối ngoại thành luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để các cấp, ngành, lực lượng và địa phương triển khai thực hiện. Trong đó, công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được triển khai nghiêm túc, đồng bộ và tương đối toàn diện. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp năm 2013, các luật, pháp lệnh,… liên quan đến thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và đã phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn.

Đến nay, chúng ta đã bổ sung và hoàn thiện một bước về cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo chức năng, trên phạm vi cả nước.

Các phương thức quản lý nhà nước về quốc phòng về cơ bản là phù hợp, đúng chức năng, thẩm quyền của từng cấp, được kết hợp chặt chẽ, vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo đối với từng vùng lãnh thổ, địa phương, tạo cơ sở pháp lý để các cấp, ngành, lực lượng triển khai, thực hiện, góp phần đưa công tác quân sự, quốc phòng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, ngày càng hiệu quả. Như vậy, thành tựu đổi mới quân sự, quốc phòng trong 30 năm qua đã góp phần to lớn vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới đất nước.

Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, bất cập, đó là: Nhận thức về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế, nhất là nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược; về sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; về đối tác, đối tượng...

Việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tuy có chuyển biến tích cực nhưng chưa toàn diện, vững chắc. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; việc cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc còn chậm, chưa đồng bộ. Chất lượng tổng hợp của Lực lượng vũ trang nhân dân tuy đã được nâng lên một bước mới, nhưng có mặt còn hạn chế... Từ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân qua 30 năm đổi mới quân sự, quốc phòng có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối đổi mới, nhất là quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho hoạt động quân sự, quốc phòng.

Đây là bài học lớn vừa có tính nguyên tắc, vừa mang tính truyền thống và có ý nghĩa quyết định những thành tựu trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và toàn dân tộc. Trong 30 năm đổi mới vừa qua, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, xu thế của thời đại, với tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học sắc sảo, nắm vững nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Nhờ đường lối đó, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục vận dụng bài học kinh nghiệm này trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trước hết và quan trọng nhất là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Trên cơ sở đó thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thứ hai, coi trọng công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, đảm bảo giữ vững thế chủ động trong mọi tình huống.

Đây là bài học rất quan trọng, làm cơ sở để Đảng, Nhà nước hoạch định các chủ trương, chính sách đổi mới đất nước, trong đó có lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Thực tế đã chứng minh, nhờ thực hiện tốt công tác này, chúng ta luôn chủ động và có kế hoạch, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngay từ thời bình, bảo đảm “trong ấm, ngoài êm”, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy bài học này, thời gian tới, các cơ quan, đơn vị toàn quân cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng có liên quan, chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình để tham mưu, đề xuất kịp thời cho Đảng và Nhà nước, không để bị động, bất ngờ trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Cùng với nghiên cứu, đánh giá, dự báo những vấn đề tác động trực tiếp, gián tiếp đến quốc phòng, an ninh của đất nước, chúng ta cần chủ động nghiên cứu, nắm vững chiến lược, sách lược của đối tượng, đối tác và chiều hướng phát triển của nó, cũng như các nhân tố có thể dẫn tới những đột biến, bất lợi để xử lý khéo léo, linh hoạt, kịp thời. Đặc biệt, chú trọng nghiên cứu, dự báo những vấn đề chiến lược mang tính tổng thể, dài hạn về quân sự, quốc phòng, bảo đảm luôn ở thế chủ động trong mọi tình huống.

Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; tăng cường nội lực kết hợp với ngoại lực trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, lấy nội lực là chính để tăng cường sức mạnh quốc phòng đã trở thành bài học quý của cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới của Đảng khẳng định: Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quan trọng, quyết định.

Việc vận dụng bài học này nhằm đổi mới lĩnh vực quân sự, quốc phòng những năm tới, phải bảo đảm tính toàn diện, trên các mặt, lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh. Chúng ta phải tập trung tăng cường tiềm lực quốc phòng; nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp là Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ. Tiếp tục xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, trước hết là “thế trận lòng dân” gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới” và Nghị định số 02/2016/NĐ-CP ngày 05/01/2016 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 152/2007/NĐ/CP ngày 10/10/2007 của Chính phủ về “Khu vực phòng thủ.” Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với đối ngoại trong từng quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế-xã hội; trong đó, chú trọng mở rộng hợp tác quốc phòng với các nước.

Thứ tư, coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng.

Đây là bài học quan trọng, cấp thiết và là một tất yếu khách quan đối với bất cứ sự đổi mới nào, nếu muốn thành công. Trong 30 năm đổi mới đất nước, đổi mới quân sự, quốc phòng, mặc dù gặp không ít khó khăn, nhất là nhiều vấn đề chưa có tiền lệ trong thực tiễn, nhưng nhờ tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cả thực tiễn thành công và chưa thành công, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc vững bước tiến lên. Để tiếp tục vận dụng có hiệu quả bài học đó vào thực tiễn, cùng với nâng cao nhận thức, chúng ta cần tăng cường phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, lực lượng và địa phương trong xây dựng kế hoạch, xác định các vấn đề nghiên cứu, tổng kết, bảo đảm tính khoa học, hệ thống, chuyên sâu và có tính định hướng cao.

Hiện nay, trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiều vấn đề mới trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng đang đặt ra cấp thiết. Vì thế, việc nghiên cứu, tổng kết phải toàn diện, nhưng cần có trọng điểm; trong đó, cần đi sâu vào các vấn đề lớn, có tính xuyên suốt và mang tầm chiến lược; trên cơ sở đó, xác định cơ sở khoa học và thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện đường lối, chính sách quốc phòng cho phù hợp.

Thứ năm, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tạo đột phá trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Đây là bài học quan trọng về phương thức đổi mới nói chung, trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng nói riêng, nhằm tạo sự đồng bộ, vững chắc trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, lĩnh vực quân sự, quốc phòng đã có sự đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về nhận thức, tư tưởng và hoạt động thực tiễn; trong đó, các vấn đề về xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng có bước phát triển toàn diện, mang tính đột phá; góp phần tạo sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Việc vận dụng bài học này nhằm đổi mới lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong những năm tới phải được thể hiện trên từng mặt công tác, đảm bảo đổi mới phải toàn diện, đồng bộ từ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành đến tổ chức thực hiện ở tất cả các cấp, nhưng phải phù hợp với đặc điểm của từng lực lượng và có trọng tâm, trọng điểm.

Trong quá trình đổi mới, nhất là đối với những vấn đề lớn, hệ trọng phải có hình thức và bước đi phù hợp; kiên quyết khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, gây mất ổn định, kém hiệu quả; đồng thời, phải tích cực, chủ động, sáng tạo, từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo đột phá mới trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.

Ba mươi năm đổi mới đất nước nói chung, lĩnh vực quân sự, quốc phòng nói riêng là một giai đoạn lịch sử quan trọng với những thành tựu to lớn và bài học kinh nghiệm quý báu. Đây sẽ là tiền đề, nền tảng rất quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh đổi mới lĩnh vực quân sự, quốc phòng một cách toàn diện, với nhiều giải pháp đồng bộ, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

(TTXVN/Vietnam+)

Từ khóa » Thành Tựu Hạn Chế 30 Năm đổi Mới