Thao Thức Sương Giăng - Báo Nhân Dân

ND - Trở lại Ðiện Biên lần này, tôi không quên dành hẳn một buổi tối dạo qua nhiều đường phố lãng đãng sương giăng ngổn ngang gạch vữa. Vẫn cái ánh sáng yếu ớt hắt ra từ những quán nhỏ, nhưng anh em đồng nghiệp ở đây cho biết, thành phố đang khẩn trương hoàn tất hệ thống đèn đường cho dịp kỷ niệm 55 năm Ngày chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Thầm nghĩ, chẳng riêng gì những ngọn đèn đường, với Ðiện Biên, một tỉnh vùng cao ôm gọn trong lòng di tích lịch sử vĩ đại như thế thì mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều phải gấp rút hơn, tăng tốc hơn cho xứng với tầm vóc. Ðó không chỉ là sức ép hay thách thức mà chính là nhu cầu, là mong mỏi chẳng những của mỗi người dân Ðiện Biên mà cả nước.

Từ lâu tôi đã nghe "Ðiện Biên Phủ là ngoại ô Hà Nội". Hẳn câu nói này phải có từ cái ngày mồng 7 tháng 5 lịch sử ấy. Quả vậy, sau 55 năm giải phóng, Ðiện Biên như càng gần Hà Nội hơn. Xưa nếu đi bằng ô-tô, nhanh cũng mất trắng một ngày vất vả với những đèo dốc, nay chỉ khoảng mười giờ đồng hồ. Còn nếu đi bằng máy bay thì chỉ 60 phút. Hơn thế, trước kia tuần có bốn chuyến, nay ngày nào cũng đều đều hai chuyến đi, về. Có điều, đường đi lại trong tỉnh, dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn khó khăn lắm. Nhiều chặng đi mãi không thấy bóng xe, bóng người. Chúng ta vẫn nói đường đi là lối thoát nghèo, là lối làm giàu. Ðường mở tới đâu, ánh sáng văn hóa và cung cách làm ăn mới sẽ theo tới đó. Cho nên Ðiện Biên cũng như các tỉnh miền núi hiện nay, cái quan trọng nhất là giao thông.

Hôm làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh Ðiện Biên, tôi đã đánh dấu đậm khá nhiều con số. Những con số vui đã đành, nhưng còn không ít con số chưa vui. Chưa vui, theo cách nói dân mình, còn nhiều người chưa thật sự thoát khỏi cung cách làm ăn cũ, cứ quen lối mòn bảo thủ lạc hậu, nên thấy người ta làm, biết là hay mà cứ hoang mang. Từ cỏ thơm đến chè, chuối..., ló ra sản phẩm nào là hết sản phẩm ấy. Chẳng biết họ mua nhiều thế để làm gì, trong khi ta có nơi phải nhập từ cái tăm. Chung quy cũng bởi "con đường". Nói đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao dân trí là những vấn đề mấu chốt, nhưng khởi thủy vẫn là "con đường"... "Vậy ách tắc ở đây là gì?". Có lần tôi hỏi một cán bộ ngành giao thông, và được trả lời rằng: "Bây giờ quy định, luật lệ đã chặt chẽ hơn. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về tiến độ thi công và chất lượng công trình, nhưng trách nhiệm giải phóng mặt bằng là của địa phương mà cụ thể là của mỗi người dân. Làm ra con đường thì hưởng lợi trước hết chính là những người dân. Tất cả phải bắt đầu từ sự thống nhất nhận thức ấy, nhưng đây lại là cái khó nhất".

Một trong những thế mạnh cơ bản mà Ðiện Biên đã và đang dốc sức triển khai là du lịch (du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch lịch sử...) Vậy nền tảng để quyết định lựa chọn hướng đi và cách triển khai là gì? Vả lại, xem xét kỹ kết quả bước đầu để nhìn thấu những khó khăn bất cập, Ðiện Biên cần có những điều chỉnh gì cho một tầm nhìn không chỉ là trước mắt? Nói cho cùng vẫn là làm thế nào để biến tiềm năng "thành tiền thành của" thật sự mà ta cầm chắc được, có thể dùng nó để "tiêu" cho đường - trường - trạm và những nhu cầu rất lớn khác. Ðến bao giờ tiềm năng ấy có thể mang lại niềm vui thật sự tự tin như hạt gạo ở cánh đồng Mường Thanh... Và đến bao giờ một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ được người dân Ðiện Biên tin tưởng trên hiện thực như họ từng tin vào cây lúa? Lúc ấy hẳn Ðiện Biên còn tiến xa hơn nhiều. Và khi ấy sẽ có những "mỏ vàng" của thế mạnh Ðiện Biên được mở bung. Thí dụ như du lịch lịch sử trong tổng thể các giá trị thành Bản Phủ của tướng áo nâu Hoàng Công Chất, bia Lê Lợi thắng quân Nguyên - Mông và di tích lịch sử Ðiện Biên Phủ chấn động địa cầu. Ấy là chưa kể đến những động Pá Thơm, hồ Pá Khoang, suối nước nóng U Va... mang đậm nét riêng vùng Tây Bắc. Ai cũng nói đến tiềm năng lớn, cả chúng ta cùng nói thế. Nhưng đứng trước thành phố, đứng trước mỗi di tích lịch sử, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và bùi ngùi, day dứt. Cảnh quan và hiện trạng cụm di tích lịch sử Ðiện Biên Phủ đã bị biến dạng khá nhiều, người ta thật khó hình dung nổi tính chất khốc liệt của trận chiến nơi đây và như vậy làm sao hình dung nổi tầm vóc "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" của cuộc đụng đầu lịch sử ấy.

Vậy là còn có một con đường khác cần được song song mở lối. Ðó là con đường đến với bà con dân bản, nhất là những người ở vùng sâu, xa, hẻo lánh. Những ngày đi bản, tôi có đề cập đến lĩnh vực này qua một thắc mắc: Dường như Ðiện Biên chưa khai thác được nhiều giá trị văn hóa dân gian còn tiềm ẩn trong thôn bản, nhất là văn hóa Thái, nơi phát nguyên ra một đỉnh cao là trường ca Xống Chụ xôn xao? Phải chăng chúng ta còn có những điều chểnh mảng với dân? Hay chính sách chế độ có những mặt nào đó do điều kiện kinh tế mà còn bất cập, thành ra các hiện tượng xa dân, không nắm bắt được dân vẫn là một thiếu sót? Dân thì ai cũng cầu mong ấm no hạnh phúc, nhưng điều kiện để đáp ứng lại rất xa vời; vận dụng khoa học kỹ thuật lại chậm; lực lượng giáo viên vùng sâu, vùng xa còn thiếu và nhiều khó khăn quá... Những bất cập ấy từng dẫn đến hiện tượng người mang văn hóa, văn minh đến dân thì ít mà người lợi dụng để mở quan hệ buôn bán thì nhiều, phải chăng vì vậy mà một số dân mình còn thiếu tin ở cán bộ? Ðôi khi chúng ta quy về nguyên nhân dân trí thấp, song đúng như một số chuyên gia văn hóa từng nhận xét, nếu nói về kiến thức phổ thông thì bà con dân bản mình còn hạn chế thật, nhưng nhận thức xã hội thì chưa hẳn đã kém. Người Thái cũng như người Mông, người Cống... ở đây hiểu rõ cái gì tốt, cái gì không tốt. Vậy đừng lầm mà chỉ đánh giá qua mặt chữ viết. Người ta nhìn cán bộ với tấm lòng đến với họ có thực vì dân hay không để liệu thế ứng xử. Vả lại đừng khăng khăng nghĩ một cách phiến diện là cán bộ văn hóa "mang văn hóa đến cho dân", bởi lẽ khi sinh hoạt văn hóa đã trở thành nhu cầu giãi bày của dân thì thật sự nó sống trong lòng dân, do dân khai thác và dân hưởng thụ. Nói cho công bằng, đôi khi ta chỉ là người hướng dẫn thêm để phát huy những giá trị vốn có mà thôi! Ðặc điểm sống của bà con dân bản là tính cộng đồng rất cao, muốn đề cao tính cộng đồng đó thì việc đầu tư xây dựng bản văn hóa là một lựa chọn đúng. Nhưng ngay cả lĩnh vực này, cách làm của ta vẫn có vẻ chắp vá và khiên cưỡng thế nào ấy! Ðã là văn hóa đích thực thì nó đến rất tự nhiên. Tục chọc sàn, hát đối chẳng hạn, tưởng là lỏng lẻo mà lại rất chặt chẽ...

Vòng xòe đã bắt đầu tự khi nào và mỗi lúc như một nới rộng ra. Lúc này tôi mới được biết Mấng là con gái của một chiến sĩ Ðiện Biên năm xưa, từng được theo bố về Thủ đô viếng Lăng Bác Hồ và thăm các viện bảo tàng. Vừa dẫn tôi qua những đường xòe còn bỡ ngỡ, Mấng vừa ríu rít kể về những buổi sinh hoạt văn hóa như thế ở bản của cô. Chẳng biết tôi nghe được những gì. Chỉ thấy Mấng càng đẹp trong bộ trang phục dân tộc Thái với chiếc váy đen rộng mềm, chiếc thắt lưng hoa lý buông hờ rất gợi cảm cùng tấm áo trắng bó chẽn thân hình căng trẻ với hàng cúc bướm bằng bạc được khắc chạm rất công phu. Cũng trong vòng xòe ấy tôi còn biết Mấng có tên nữa mà bạn bè thường gọi: Hương. Chẳng hiểu sao vào chính lúc ấy tôi lại nghĩ về truyền thuyết hoa ban, nơi khắc dấu một chuyện tình bất diệt...

- Hà Nội cũng có Ðiện Biên Phủ phải không anh?

Tôi còn đang bỡ ngỡ trong nhịp múa, Mấng - tức Hương - đã tiếp:

- Ðiện Biên Phủ trên không ấy mà!

Tôi cười gật đầu. Còn Hương ửng hồng đôi má:

- Bố em bảo Hà Nội và Ðiện Biên sẽ ngày càng gần hơn...

Câu nói rất nhẹ của Hương hòa trong tiếng nhạc hội xòe. Tôi bỗng thấy mình hiểu ra nhiều điều lắm. Ðiện Biên đang tự vượt lên để xích lại gần Thủ đô hơn cả về kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội. Ðường đi cách trở chứ lòng người không bao giờ cách trở. Càng không cách trở cái khát vọng làm giàu, làm đẹp cho quê hương. Rồi những con đường mới sẽ được mở rộng, Ðiện Biên sẽ đủ tư thế và tiềm lực để giao lưu cùng mọi miền Tổ quốc. Tôi đã tin điều đó như tin những người dân chất phác và trung thực nơi đây. Những người biết nhìn thẳng vào khó khăn với thái độ nghiêm khắc nhưng điềm tĩnh và tự tin. Phải chăng đó là dũng khí Ðiện Biên, tư thế Ðiện Biên và bản lĩnh Ðiện Biên được tôi luyện từ linh khí của một vùng núi rừng từng thấm đẫm hy sinh! Cũng từ đây tôi bỗng nhận ra rằng, có những điều không thể hiểu qua sách vở hay những lời hỏi han, mà phải sống - sống thật sự cùng họ và thấm cùng họ từ nhiều bề nhiều phía mới thấy hết được những thách thức mà người dân nơi đây đang từng ngày từng giờ đối mặt và vượt qua bằng chính sức mình; cũng như ta không thể hiểu được có một sức mạnh rất lớn lao tiềm ẩn trong câu hát và điệu múa những buổi sinh hoạt văn nghệ từ bản, nếu chỉ là người đứng ngoài cuộc...

Thật mừng là những suy nghĩ trên đây của chúng tôi đã nhận được sự đồng cảm của những người có trách nhiệm với Ðiện Biên cũng như bà con dân bản. Giống như hôm làm việc ở tỉnh, chúng tôi thấy an tâm hơn nhiều từ nỗi lo lắng và tâm huyết của những người đứng mũi chịu sào trước biết bao đòi hỏi ngày một cao hơn của Ðiện Biên. Rằng, phải đi vào cụ thể từng việc, từ rà soát lại đội ngũ, nguồn lực đến triển khai chính sách, bước đi cho từng dự án, công trình. Lại còn phải xoay xở làm sao để có thể đẩy nhanh hơn nữa tiến độ phát triển thủy điện vừa và nhỏ, tạo "cú hích" mạnh trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thậm chí phải lo cả vốn cho doanh nghiệp, thí dụ như thỏa thuận với các ngân hàng nâng hạn mức cho vay, tập trung đầu tư vào điện và vật liệu xây dựng, vân vân và vân vân... Sự lo lắng và trách nhiệm ấy còn thấm đẫm nỗi niềm: "Có đêm mưa nằm không sao ngủ được. Cứ tình trạng mưa như thế thì các công trình đang thi công sẽ phải chỉnh sửa lại hết. Ðã tính phải nói với anh em mua bao dứa bảo vệ công trình. Rồi lo lũ quét. Bài học lũ quét tang thương vẫn còn đó...". Nhưng dẫu sao chúng tôi cũng thống nhất với nhau rằng, đây vẫn chỉ là những cái trước mắt, vì nó không tạo ra việc làm lớn với những bước chuyển dịch lớn. Cái lớn ở đây là xoay quanh những giá trị của Ðiện Biên Phủ với tầm vóc thế giới, là bề dày văn hóa của 21 dân tộc anh em, làm sao để bảo tồn, khai thác và phát huy tốt nhất những giá trị quý báu ấy. Ðó hẳn cũng là nỗi băn khoăn rất lớn của mỗi chúng ta. Và cùng đó là vấn đề quy hoạch, phát triển thành phố sao cho khoa học, xứng tầm. Nếu cứ như hiện nay thì trở đi mắc núi trở lại mắc sông. Cho nên điều quan trọng là phải làm nổi bật những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan sinh thái cũng như sớm trả lại tuyến cụm di tích lịch sử - "mặt tiền" của trung tâm thành phố - đó chính là những thế mạnh thật sự của Ðiện Biên. Và chỉ như vậy, hoạt động du lịch mới đúng nghĩa là mũi nhọn kinh tế mà tỉnh đã lựa chọn. Mới đây thôi, Ðiện Biên đã kịp dừng lại một khu công nghiệp phía đông theo quy hoạch cũ, đó là sự điều chỉnh kịp thời, tính trước cho đồ án quy hoạch cơ bản cần hướng tới. Ngoài ra, lĩnh vực được quan tâm đặc biệt không chỉ của chúng ta mà cả du khách nước ngoài là vấn đề bảo tồn, phát huy những giá trị lịch sử của Ðiện Biên Phủ sao cho xứng với tầm vóc vốn có của nó. Ðược biết sang năm tỉnh sẽ xây dựng một khu bảo tàng mới, đủ điều kiện đón nhận về trưng bày hàng nghìn hiện vật lịch sử. Nhưng cùng đó, đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh... phải được chuẩn bị, đào tạo sao cho thích ứng với đòi hỏi của tính chuyên nghiệp cao, không chỉ chuyển tải chính xác mà có sức truyền cảm sâu sắc, góp phần làm sống động những giá trị. Rồi tổ chức lại, khôi phục và phát triển một số làng bản cổ theo đúng đặc trưng của từng dân tộc, làm cơ sở phát triển du lịch văn hóa, du lịch làng nghề và du lịch cộng đồng. Kêu gọi đầu tư phát triển du lịch sinh thái. Xây dựng kết cấu hạ tầng để liên thông các loại hình du lịch với nhau và với các khu dân cư. Tin rằng, từ những giá trị được phát huy hiệu quả đó sẽ trả lại chúng ta tất cả ở một tầm vóc cao hơn, sang trọng hơn.

Vậy là trở lại Ðiện Biên lần này, ít nhất có hai điều tôi cảm nhận được rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Ðó là nỗ lực thoát khỏi tư duy ỷ lại; đó là sự đồng tâm "dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm" của mỗi cán bộ và người dân. Cùng đó, một quan điểm được tiếp tục thống nhất là, dù bộn bề dự án và kinh phí chưa thể đủ để làm đồng loạt, nhưng nếu đặt được hòn đá thì đặt cho đúng chỗ, để sau này không phải sửa lại, tốn kém tiền của và công sức của nhân dân. Phải chăng đó chính là nền tảng để tinh thần Ðiện Biên tỏa sáng ở một tầm cao mới.

Bút ký của Lê Mạnh Tuấn

Từ khóa » Sương Giăng Hay Sương Giăng