THẬP HUYỀN MÔN

[1] Quả đức : Chỉ cho vô lượng công đức mà quả Phật có đủ. Như 4 đức thường, lạc, ngã, tịnh, 4 tứ vô úy …

[2] Những gì còn trong vòng đối đãi đều chưa phải là chỗ rốt ráo.

[3] Bản Hán là 3. Nhưng trong quá trình dịch thuật, không tìm thấy 3 mà chỉ thấy 2 nên ghi là 2.

[4] Nếu 1khác 10. Đã nói 1 tức phải có 2 , 3 … 10. Nghĩa là 2,3 …10 là nhân duyên làm nên 1. Cũng như 1 là nhân duyên làm nên 10 v.v… Không có 2,3 … 10 … không đặt vấn đề 1. Do sự dính liền mật thiết đó mà nói 1 không khác 10. KHÁC, nghĩa là không có sự dính líu liên hệ với nhau. Như chiếc ly này tách biệt độc lập với ly kia. Không có chiếc này, chiếc kia vẫn tồn tại. Vì thế thứ gì là nhân duyên của nhau thì những thứ đó luôn luôn có quan hệ với nhau, đều thuộc dạng KHÔNG KHÁC nói đây. Như vải là nhân duyên làm ra áo thì nói vải không khác áo, dù vải không phải là áo.  

[5] “Là duyên để 1 được thành” là muốn nhấn mạnh đến mặt duyên khởi của pháp. Khởi thì đồng khởi không có trước sau. 10 trong 1 là nói về mặt SỰ TƯỚNG của pháp. Sự tướng thì thấy có tướng sai biệt nên nói 10 chẳng phải 1. Song sự tướng thì không hề rời LÝ THỂ. Lý thể là chỗ không thể diễn tả bằng ngôn từ hay tri thức. Chỉ có thể dựa vào mặt sự tướng (hiện tượng) để biết sự có mặt của phần lý thể đó. Nó được biểu hiện thành cái “10 tức 1” nói đây. (Phần này sẽ được giải thích rõ ngay phần luận sau). Hàng Tiểu thừa chỉ nhận được mặt hiện tượng “Lìa 1 không có 10 mà 10 không phải 1” - là phần duyên khởi còn có thứ lớp trước sau - mà chưa thấu được mặt duyên khởi đồng thời của vạn pháp. Vì chưa nhận được cội nguồn chân thật nhất tâm.        

[6] Luận đạo : Những gì thuộc về ngôn thuyết, điều lý, thứ tự, nghiên cứu, lý lẽ v.v…

[7] So sánh giữa 2 cái TRONG của môn Đồng thể và môn Dị thể.

[8] DỊ THỂ là nói về mặt khác nhau của 10 số. ĐỒNG THỂ là nói đến cái chung của 10 số. Như tướng của con ngài khác tướng con bướm, là mặt dị thể của chúng. Nhưng ngài phải CÓ bản chất bướm thì ngài mới hóa thành bướm được, là mặt đồng thể của chúng. 1 CÓ 9 là nghĩa như vậy.  

[9] Đây là do nghe phân tích cái TRONG giữa 2 môn Đồng và Dị, mà người hỏi liên tưởng đến cái TỨC (là mặt đồng hiện) của môn Dị thể với cái TRONG của môn Đồng thể. Cái cùng hiện đó có giống với mặt đồng thể của 1 và 10 không? Căn cứ vào những lý giải đây thì cái CÓ và cái đồng hiện không thể giống nhau. Về mặt hiện tượng, ta thấy con ngài có trước, bướm có sau. Như 1 có trước 10 có sau. Với cái TỨC trong môn Dị thể thì chúng đồng hiện không có trước sau. Nên phần trả lời sau nói “1 khác thể với 10 mà 1 không lìa 10”. THỂ nói đây chỉ cho tướng của 1 và 10. Cái KHÔNG LÌA đó là muốn nói đến mặt đồng thời khởi. Con ngài không giống con bướm. Nhưng không có con ngài thì không có con bướm, không có con bướm thì không có con ngài. Vì thế một khi đã có ngài và bướm thì chúng phải xuất hiện không có trước sau. Thấy có trước sau như hiện nay là do còn mê, chỉ thấy được một mặt của pháp. Rõ ràng mặt đồng khởi không dính gì đến bản chất giữa ngài và bướm. Dù không có bản chất đó thì không có cái đồng thời khởi này. Cái CÓ nói đó được biểu hiện bằng câu “1 có 9 là có đối với tự thể của 9” trong câu trả lời sau. Đó là chỗ vi tế khác nhau giữa cái TỨC của Dị thể môn với cái TRONG của đồng thể môn.            

[10] Đây là so sánh giữa cái TRONG và cái TỨC trong cùng một cửa ĐỒNG THỂ.

[11] Phần TRONG của Đồng thể là nói đến bản chất của 1 và 10. Là nói đến bản chất của ngài chính là bướm nhưng ngài chưa phải là bướm, thuộc về nhân. Nên nói “1 có 10 mà 1 chẳng phải là 10”. Còn cái TỨC của Đồng thể môn là nói đến tánh thể rốt ráo của 1 và 10 v.v… Cái thể ấy, 1 hay 10, bướm hay ngài, chúng sanh hay Phật … đều như nhau.

[12] Hết, là nghĩa TẬN.

[13] Nói đầy đủ là nói hết tất cả số … là nói đến vô cực.

[14] Hậu tế : Bờ mé sau cùng, chỉ cho cội nguồn nhất tâm chân như. GIẢI nói đây là muốn chỉ đến phần lý thể chứng được, không còn nằm trên lý thuyết như của Tam thừa.

[15] Mượn hình ảnh ánh sáng hòa với nhau để hình dung chỗ này. Ngôn từ khó diễn tả.

[16]

[17] Bản Hán trg 3

[18] Không phải là chỗ mà việc tu hành thuộc phước báu nhân thiên có thể thấu được.

[19] Dụng cụ đo đếm. 10 thăng bằng 1 đấu.

[20] Đây là muốn hiển bày tính duyên khởi của pháp. Có cái này mới có cái kia. Có quả mới gọi là nhân. Có nhân mới gọi là quả. Không nhân thì không quả. Không quả cũng không nhân. Vì thế nhân là nhân của quả, quả là quả của nhân. Không có nhân riêng quả riêng.

[21] Đây nói đến thuyết ba đời thành Phật của tông Hoa Nghiêm : Lấy ba đời sánh với ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

. Quả hải : Chỉ cho trí tuệ và công đức lớn như biển của Phật.

[22] Tuệ thân: Một trong ngũ phần pháp thân, là thân đã được thành tựu từ tuệ vô lậu.

[23] 9 hội : Chin lần pháp hội của kinh Hoa Nghiêm.

[24] Kim Sắc Thế Giới : Chỉ cho cõi tịnh độ của ngài Văn Thù

Từ khóa » Thập Huyền Duyên Khởi