Thời Lê Sơ (1428-1527), Tổ Chức Bao Nhiêu Khoa Thi Tiến Sĩ ... - Hoc24
Có thể bạn quan tâm
HOC24
Lớp học Học bài Hỏi bài Giải bài tập Đề thi ĐGNL Tin tức Cuộc thi vui Khen thưởng- Tìm kiếm câu trả lời Tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi của bạn
Lớp học
- Lớp 12
- Lớp 11
- Lớp 10
- Lớp 9
- Lớp 8
- Lớp 7
- Lớp 6
- Lớp 5
- Lớp 4
- Lớp 3
- Lớp 2
- Lớp 1
Môn học
- Toán
- Vật lý
- Hóa học
- Sinh học
- Ngữ văn
- Tiếng anh
- Lịch sử
- Địa lý
- Tin học
- Công nghệ
- Giáo dục công dân
- Tiếng anh thí điểm
- Đạo đức
- Tự nhiên và xã hội
- Khoa học
- Lịch sử và Địa lý
- Tiếng việt
- Khoa học tự nhiên
- Hoạt động trải nghiệm
- Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
- Giáo dục kinh tế và pháp luật
Chủ đề / Chương
Bài học
HOC24
Khách vãng lai Đăng nhập Đăng ký Khám phá Hỏi đáp Đề thi Tin tức Cuộc thi vui Khen thưởng - Tất cả
- Toán
- Vật lý
- Hóa học
- Sinh học
- Ngữ văn
- Tiếng anh
- Lịch sử
- Địa lý
- Tin học
- Công nghệ
- Giáo dục công dân
- Tiếng anh thí điểm
- Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
- Giáo dục kinh tế và pháp luật
Câu hỏi
Hủy Xác nhận phù hợp Chọn lớp Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Môn học Toán Vật lý Hóa học Sinh học Ngữ văn Tiếng anh Lịch sử Địa lý Tin học Công nghệ Giáo dục công dân Tiếng anh thí điểm Đạo đức Tự nhiên và xã hội Khoa học Lịch sử và Địa lý Tiếng việt Khoa học tự nhiên Hoạt động trải nghiệm Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp Giáo dục kinh tế và pháp luật Mới nhất Mới nhất Chưa trả lời Câu hỏi hay
- Phạm Đức Dâng
Thời Lê Sơ (Từ năm 1428-1527) tổ chức bao nhiêu khoa thi tiến sĩ ? Chọn được bao người làm trạng Nguyên ?
Xem chi tiết Lớp 7 Lịch sử Bài 20. Nước Đại Việt thời Lê Sơ (1428 - 1527) 2 0
Gửi Hủy
Phan Thùy Linh D. 26 khoa thi tiến sĩ. Chọn được 20 người làm trạng Nguyên
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
Nguyễn Văn Bé 20 tháng 5 2016 lúc 9:57 D. 26 khoa thi tiến sĩ. Chọn được 20 người làm trạng Nguyên
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
- khuê 123
Thời Lê Sơ (năm 1428- 14527) đã tổ chức đƣợc bao nhiêu khoa thi tiến sĩ A. 26 B. 27 C. 28 D. 29
Xem chi tiết Lớp 7 Lịch sử Bài 20. Nước Đại Việt thời Lê Sơ (1428 - 1527) 3 0
Gửi Hủy
Vũ Minh Tuấn Thời Lê Sơ (năm 1428- 1527) đã tổ chức được bao nhiêu khoa thi tiến sĩ
A. 26 B. 27 C. 28 D. 29
Chúc bạn học tốt!
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
Trần Kim Thanh 2 tháng 2 2020 lúc 20:04 A.26
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
phạm Nguyễn gia hy 28 tháng 2 2020 lúc 9:45 A. 26
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
- Sử Chí Tiến Anh
nước ta tổ chức khoa thi từ năm bao nhiêu và khoa thi cuối cùng tổ chức vào năm nào ?
lấy đỗ gần bao nhiêu tiến sĩ ?
tổng cộng có bao nhiêu khoa thi ?
giúp mình với nha
Xem chi tiết Lớp 5 Chưa xác định Câu hỏi của OLM 5 0
Gửi Hủy
❖×✔ᴍê ʜọᴄ)ミ★ ❖(☂TΣΔM☂ST... 30 tháng 9 2021 lúc 8:20 Trạng nguyên (chữ Hán: 狀元) là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa đình thời phong kiến ở Việt Nam của các triều nhà Lý, Trần, Lê, và Mạc, kể từ khi có danh hiệu Tam khôi dành cho 3 vị trí đầu tiên. Người đỗ Trạng nguyên nói riêng và đỗ tiến sĩ nói chung phải vượt qua 3 kỳ thi: thi hương, thi hội và thi đình.
Khoa thi đầu tiên được mở ra dưới thời Lý năm 1075, lúc đó vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh chưa được gọi là Trạng nguyên. Danh sách cụ thể những người đỗ đầu các kỳ thi này xem bài Thủ khoa Đại Việt. Phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua Trần Thái Tông (1247) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là Đình nguyên). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là Trịnh Tuệ đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
Phạm Gia Nghĩa từ năm 1075 tơi năm 1919
lấy đỗ gần 3000 người và có 185 khoa thi nha
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
𝟸𝟿_𝟸𝟷 30 tháng 9 2021 lúc 8:22 Trả lời :
Chế độ khoa cử ngày xưa là trụ cột xây nên lâu đài văn hoá và văn minh quốc gia, nó cũng là một mặt biểu hiện của tiến bộ xã hội. Khoa cử là đường công danh của con người trong xã hội phong kiến. Mỗi triều đại có các hình thức và chế độ đãi ngộ khác nhau, nhưng tựu trung lại là muốn phát hiện và thu nạp nhân tài phục vụ đất nước. Chế độ khoa cử đầu tiên của Việt Nam được tiến hành dưới triều vua Lý Nhân Tông, năm Ất mão (1075) và cáo chung vào năm Kỷ mùi (1919) dưới triều vua Khải Định nhà Nguyễn. Trong gần ngàn năm tồn tại và cải biến, chế độ khoa cử Việt Nam đã tuyển trạch được hàng vạn nhân tài cho đất nước. Phần nhiều trong số họ đã làm rạng danh non nước Việt Nam. Họ trở thành niềm tự hào dân tộc - Bia đá bảng vàng- và là những tấm gương sáng chói để hậu thế noi theo như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trãi, Lê Văn Hưu, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn...
Triều Lý đã tổ chức được 6 khoa thi; triều Trần được 14 khoa; triều Hồ được 2 khoa; triều Lê được 28 khoa, dưới triều Lê Trung Hưng hay Lê - Trịnh tổ chức thêm được 73 khoa; triều Mạc 22 khoa và triều Nguyễn tổ chức được 39 khoa. Vậy, trong suốt lịch sử khoa cử nước ta có tổng cộng là 184 khoa thi.
Dưới triều Lý, mỗi khoa thi cách nhau 12 năm, sau đó rút xuống còn 7 năm. Đến đời vua Lê Thái Tông thì 6 năm mở một khoa. Năm Quang Thuận thứ bảy (1466) triều Lê Thánh Tông thì khoảng cách giữa các khoa thi là 3 năm, và khoảng cách này được duy trì cho đến khoa thi cuối cùng ở nước ta. Thông thường thì khoa thi được tổ chức ở những năm cố định. Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam vốn không phẳng lặng cho nên nhiều khi khoa thi không được tổ chức đúng vào hạn kỳ của nó, hoặc giả, do nhu cầu cần tài năng phục vụ nước nhà, nhà vua có thể cho tổ chức khoa thi sớm hơn thời gia đã định - đó gọi là Ân khoa.
Khoa cử dưới các triều đại phong kiến được tổ chức rất nghiêm túc và chia làm ba kỳ thi là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Danh hiệu của các tân khoa đỗ đạt cũng khác nhau giữa các triều đại. Thi Hương có nhiều trường thi, mỗi tỉnh có khả năng thì được mở một trường thi, nhưng phổ biến là nhiều tỉnh lân cận cùng khu vực gộp lại thành một trường. Các trường thi này cũng khác nhau giữa các thời kỳ, các triều đại. Thi Hội và thi Đình thì được tổ chức tập trung ở kinh đô.
Thí sính đỗ đạt trong kỳ thi Hương được chia làm hai loại (lấy người đỗ từ trên xuống dưới theo danh sách chấm thi):
- Tốp đầu bảng (số lượng lấy đỗ bao nhiêu do nhà vua quy định và khác nhau ở từng khoa thi, thường là khoảng 50 người cho một trường thi) có danh hiệu là Cống sĩ hoặc Hương cống, đến đời Minh Mệnh triều Nguyễn thì đổi thành Cử nhân [chúng tôi gọi chung là Cử nhân], và những người này được phép thi Hội. Người đỗ đầu trong kỳ thi Hương (đứng đầu bảng) được tuyên dương danh hiệu Giải nguyên (Cử nhân đệ nhất cấp).
- Tốp sau đó gọi là Sinh đồ, đến đời Minh Mệnh triều Nguyễn thì đổi thành Tú tài [chúng tôi gọi chung là Tú tài], những người đỗ tốp này không được đi thi Hội. Họ có thể dự các khoa thi Hương sau đó để cải thiện vị trí, nếu được lên tốp đầu bảng và đạt danh hiệu Cử nhân họ sẽ được thi Hội. Được thị Hội thì đường công danh mới thực sự mở đối với kẻ sĩ khoa trường.
Con đường khoa cử của một người không hề đơn giản, có thể nói đó là sự nghiệp của cả một đời người. Khi lên 6 hoặc 7 tuổi thì được đi học, chương trình học của lứa tuổi này gồm: Sơ học vấn văn, Tam tự kinh, Tứ tự kinh và Ngũ ngôn để người học làm quen với chữ Hán; tập làm câu đối 2 chữ, 4 chữ; biết phân biệt vần trắc, vần bằng. Khoảng 10 tuổi thì đước huấn đạo kỹ lưỡng hơn - Tiên học lễ, hậu học văn - chương trình học gồm: Tứ thư, Ngũ kinh, Lịch sử Việt Nam, Lịch sử Trung Quốc; tập là câu đối 5 chữ, 7 chữ; tập làm thơ phú... Và họ phải tự chui rèn chữ nghĩa, văn phong của mình, tự nâng cao kiến thức của mình qua sách vỡ trong suốt cuộc đời.
Người đi thi Hương không giới hạn về độ tuổi, nhưng phải dự kỳ thi Tiền ích được tổ chức trước đó khoảng một năm nhằm kiểm tra trình độ. Trước khoa thi Hương 4 tháng lại sát hạch một lần nữa, lần này quy mô khá giống với thi Hương cho sĩ tử làm quen và ‘cấp giấy phép’ dự thi. Học tài thi phận, trong hàng nghìn sĩ tử lều chõng đi thi mà lấy đỗ có vài mươi người, nên kẻ khóc người cười sau mỗi khoa thi là chuyện thường. Khi đến dự thi Hương sĩ tử phải mang theo lều chõng, phải đến trường thi từ tờ mờ sáng để nghe xướng danh (gọi tên), đến tên mình thì tiến lên nhận quyển (giấy bút) rồi vào trường dựng lều. Khi nhận được đề thi thì sĩ tử bắt đầu làm bài, thời gian làm bài là cả ngày, làm bài xong trước có thể nộp quyển và dở lều về, chờ kì thi tiếp theo. Dĩ nhiên là muốn dự kỳ thi tiếp theo sĩ tử phải đậu trong kỳ thi trước đó. Và cảnh tượng chen nhau xem kết quả thi cũng là một cảnh tượng náo nhiệt, đáng nhớ trong đời sĩ tử. Chúng ta có thể tìm hiểu cảnh tượng thi cử, nhất là khoa thi Hương trong tác phẩm Lều chõng của nhà văn Ngô Tất Tố.
Phép thi Hương được quy định chặt chẽ từ đời vua Lê Thánh Tông gồm bốn kỳ. Người đỗ kỳ thi thứ nhất mới được dự kỳ thi thứ hai, người đỗ kỳ thi thứ hai được gọi là Tú kép và được dự kỳ thi thứ ba, Người đỗ kỳ thi thứ ba được gọi là Tú Mền và được dự kỳ thi thứ tư. Kỳ thi thứ tư là kỳ thi cuối cùng trong thi Hương nhằm phân định hạng: danh hiệu Cử nhân cho tốp đầu bảng, Tú tài cho tốp kế đó, còn lài là Tú mền cả vì đã đỗ kỳ thi thứ ba trước đó. Mỗi một kỳ thi cách nhau 7 - 10 ngày, nên mỗi khoa thi Hương kéo dài khoảng 45 ngày. Nội dung ở mỗi kỳ thi được quy định chặt chẽ như sau:
Kỳ 1: Bài thi gồm 5 đề về Tứ thư và Ngũ kinh.
Kỳ 2: Bài thi gồm chiếu, chế, biểu được viết theo lối cổ thể.
Kỳ 3: Làm một bài thơ Đường luật, một bài phú theo lối cổ thể trên 300 chữ.
Kỳ 4: Làm một bài văn, gọi là văn sách, đề tài là các ý tưởng được rút ra từ kinh sách, là ý thức giúp đời, giúp nước... Một bài văn sách trong khoa thi Hương phải viết trên 1000 chữ.
Khoa thi Hương được tổ chức nghiêm túc không chỉ quy định điều kiện dự thi, nội dung thi, mà công tác tổ chức, chấm thi cũng cực kỳ nghiêm túc. Triều đình cắt cử các quan cho một trường thi bao gồm: 1 chánh chủ khảo, 1 phó chánh chủ khảo, 1 tri cống tử, 2 viên chánh phó đề điệu, 2 viên giám đằng lục và quan giám thí để giữ trật tự trường thi.
~ HT ~
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy Xem thêm câu trả lời
- Đinh Tuấn Duy
Trong bài tập đọc “Nghìn năm văn hiến” thì từ khoa thi năm 1075 đến khoa thi cuối cùng vào năm 1919, các triều vua Việt Nam đã tổ chức được 185 khoa thi lấy đỗ bao nhiêu tiến sĩ ?
a. 3100 tiến sĩ b. 2896 tiến sĩ c. 2698 tiến sĩ d. 2968 tiến sĩ
Xem chi tiết Lớp 5 Toán Câu hỏi của OLM 12 0
Gửi Hủy
ádfghjklz 29 tháng 4 2016 lúc 17:18 D bạn nhé
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
Angle 3 tháng 1 2018 lúc 20:22 ko phải D nhé
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
bê con 6 tháng 1 2018 lúc 20:15 B bạn nhé
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy Xem thêm câu trả lời
- Nguyễn Thị Hải Anh
hey! bạn nào giúp mik nha nha!
Trong bài tập đọc “Nghìn năm văn hiến” thì từ khoa thi năm 1075 đến khoa thi cuối cùng vào năm 1919, các triều vua Việt Nam đã tổ chức được 185 khoa thi lấy đỗ bao nhiêu tiến sĩ ?
Xem chi tiết Lớp 5 Ngữ văn Câu hỏi của OLM 4 0
Gửi Hủy
Dương Thị Quỳnh Anh 9 tháng 3 2018 lúc 20:48 Đáp án là: 3000 tiến sĩ
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
Nguyễn Gia Hưng 9 tháng 3 2018 lúc 20:47 3000 tiến sĩ nha bạn.
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
Đỗ Phú Thịnh 9 tháng 3 2018 lúc 20:49 Tớ xin trả lời là 2896 tiến sĩ
chúc bạn học tốt
Đúng 1 Bình luận (0)
Gửi Hủy Xem thêm câu trả lời
- Phù Minh Huyền
Nước Đại Việt thời Lê sơ:
1. Vẽ sơ đồ tổ chức chính quyền và sơ đồ phân hóa xã hội của nước ta thời Lê sơ và nêu nhận xét.
2. Thành tựu về giáo dục và khoa cử, văn hoạc, khoa học và nghệ thuật nước ta thời Lê sơ.
Xem chi tiết Lớp 7 Lịch sử Bài 21. Ôn tập chương IV 1 0
Gửi Hủy
ʚLittle Wolfɞ văn học chữ hán và nôm phát triển , nội thi cử là các sách của đạo nho , dựng lại quốc tử giám v...v
bạn có thể tham khảo bên lời giải hay nó sẻ rõ ràn hơn của mình
Đúng 3 Bình luận (0)
Gửi Hủy
- Thảo Nguyên
1, Nêu tình hình giáo dục và khoa cử ở thời Lê sơ (1428 - 1527)
2, Nêu nền văn học, khoa học, nghệ thuật của nước ta thời đó.
Xem chi tiết Lớp 7 Lịch sử Bài 20. Nước Đại Việt thời Lê Sơ (1428 - 1527) 6 0
Gửi Hủy
Khánh Hạ 20 tháng 5 2017 lúc 9:54 1, Tình hình giáo dục và khoa cử ở thời Lê sơ (1428 - 1527)
a, GIáo dục
- Lê Thái Tổ cho xây lại Quốc Tử Giám, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi, người nào có học đều được dự thi.
- Ở các đạo, phủ có trường công, nhà nước tuyển chọn nhân tài, có đạo đức để làm thầy giáo.
- Nội dung học tập thi cử là các loại sách của đạo Nho; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế.
b, Thi cử
- Từ năm 1428 đến năm 1527: tổ chức được 26 khoa thi, lấy đỗ được 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. Tiêu biểu là ở thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ, lấy dỗ gần 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
2, Văn học, khoa học, nghệ thuật.
- Văn học: Chữ Hán chiếm ưu thế. Chữ Nôm giữ được vị trí quan trọng.
=> Nội dung: yêu nước sâu sắc, thể hiện niềm tự hào của dân tộc, khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc.
- Sử học có tác phẩm Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư.
- Y học có bản thảo thực vật quát yếu.
- Địa lý có Hồng Đức bản đồ, dư địa chí.
- Toán học có Đại thành Toán pháp.
- Nghệ thuật sân khấu: ca múa, nhạc, chèo, tuồng, . . .đều phát triển. Ngoài ra còn có các công trình kiến trúc và điêu khắc đạt đến trình độ cao, thể hiện được phong cách và kĩ thuật rất điêu luyện.
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
qwerty 1, Tình hình giáo dục và khoa cử thời Lê Sơ (1428 - 1527):
- Vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở kinh thành Thăng Long. Ở các đạo, phủ đều có trường công, hằng năm mở khoa thi để tuyển chọn quan lại.
- Đa số dân đều có thể tự đi học trừ kẻ phạm tội và người làm nghề ca hát.
- Nội dung học tập, thi cử là các sách của đạo Nho. Nho giáo chiếm địa vị độc tôn. Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế.
- Thi cử tổ chức chặt chẽ, qua 3 kì thi (Hương, Hội, Đình).
- Thời Lê Sơ (1428 - 1527), tổ chức 26 khoa thi và lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
2,
a) Văn học:
- Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế và văn chữ Nôm chiếm vị trí quan trọng.
- Văn thơ thời Lê Sơ có nội dung yêu nước sâu sắc, thể hiện niềm tự hào của dân tộc, khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc.
b) Khoa học:
- Sử học: Việt sử kí (10 quyển), Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển), Lam Sơn thực lục,...
- Địa lý: Hồng Đức bản đồ, Dư địa chí,...
- Y học: bản thảo thực vật toát yếu,...
- Toán học: Đại thành toán pháp,...
c) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật, kiến trúc và điêu khác đồ sộ, kĩ thuật độc đáo, tinh tế.
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
Lê Quỳnh Trang 20 tháng 5 2017 lúc 10:01 Câu 1,
Ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám ở kinh thành Thăng Long, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát. Ở các đạo, phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là các sách của đạo Nho. Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn ; Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế.
Thời Lê sơ (1428 - 1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.
Câu 2,
* Văn học
Sự phát triển giáo dục góp phần phát triển văn học.
Ban đầu, văn học mang nặng tư tưởng Phật giáo. Từ thời Trần, văn học dân tộc ngày càng phát triển. Hàng loạt bài thơ, bài hịch, bài phú nổi tiếng như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ. Bạch Đằng giang phú. v.v... cùng hàng loạt tập thơ chữ Hán đã ra đời, vừa thể hiện tài năng văn học vừa toát lên niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc. Văn thơ phát triển đến mức, cuối thế kỉ XIV, Trần Nguyên Đán đã thốt lên :
Tướng võ, quan hầu đều biết chữ,
Thợ thuyền, thư lại cũng hay tlrơ.
{Thơ văn Lý - Trần)
Ở thế kỉ XV, văn học chữ Hán và chữ Nôm (được sáng tạo từ thế kỉ XI - XII) đều phát triển với sự xuất hiện của hàng loạt tập thơ của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lý Tử Tấn v.v... có nội dung ca ngợi đất nước phát triển.
*Nghệ thuật
Nghệ thuật cũng có những bước phát triển mới. Trong các thế kỉ X- XIV, những công trình nghệ thuật Phật giáo được xây dựng ở khắp mọi nơi như chùa Một Cột (Diên Hựu), chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, tháp Báo Thiên, tháp Phổ Minh. Chuông, tượng cũng được đúc, tạc rất nhiều. Cuối thế kỉ XIV, thành nhà Hổ (Vĩnh Lộc - Thanh Hoá) được xây dựng và trở thành một điển hình của nghệ thuật xây thành ở nước ta. Ở phía nam, nhiều đền tháp Chăm được xây dựng thêm mang phong cách nghệ thuật đặc sắc.
Xuất hiện nhiều tác phẩm điêu khắc mang những hoạ tiết hoa văn độc đáo như rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bỏng cúc nhiều cánh, bệ chân cột hình hoa sen nở... cùng nhiều bức phù điêu có hình các cô tiên, các vũ nữ vừa múa vừa đánh đàn.
Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng, ra đời từ sớm và ngày càng phát triển. Múa rối nước là một nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ thời Lý.
Văn bia Sùng Thiện diên linh (ở Hà Nam, khắc năm 1121) viết: “Hàng nghìn chiếc thuyền bơi giữa dòng nhanh như chớp... Làn nước rung rinh, rùa vàng nổi lên đội ba quả núi... lộ vân trên vỏ và xoè bốn chân, nhe răng trợn mắt... Các thần tiên xuất hiện, nét mặt nhuần nhị thanh tâm há phải đâu vẻ đẹp của người trần thế, tay nhỏ nhắn mềm mại múa điệu hồi phong...”
Âm nhạc phát triển với nhiều nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm, đàn tranh, chiêng cổng v.v... Các na;hệ nhấn sáng tác nhiều bản nhạc đế tấu hát trong các buổi lễ hội.
Ca múa được tổ chức trong các lễ hội, ngày mùa ờ khắp các làng bản miền xuôi cũng như miền ngược. Cùng với các điệu ca, điệu múa, còn có các cuộc đua tài như đấu vật, đua thuyền, đá cầu...
*Khoa học - kĩ thuật
Cùng với sự phát triển của giáo dục và ý thức dân tộc, nhiều ngành khoa học — kĩ thuật cũng đạt được những thành tựu có giá trị. Thời Trần, bộ Đại Việt sử kí (của Lê Văn Hưu) — bộ sử chính thống của nhà nước - được biên soạn, ở các thế kỉ sau, nhiều bộ sử khác như Lam Sơn thực lục, Đại Việt sử kí toàn thư... được soạn thảo, về địa lí có Dư địa chí, Hồng Đức bản đồ ; về quân sự có Binh thư yếu lược ; về các thiết chế chính trị có bộ Thiên Nam dư hạ ; về toán học có Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ Hữu.
Nhu cầu quốc phòng đã tạo điều kiện cho các quan xưởng, dưới sự chỉ đạo của Hồ Nguyên Trừng, chế tạo súng thần cơ và đóng các thuyền chiến có lầu. Thành nhà Hồ (ở Thanh Hoá) cũng là một thành tựu kĩ thuật quan trọng.
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy Xem thêm câu trả lời
- Cc
1 Đến Văn Miếu ,khách nước ngoài ngạc nhiên vì điều gì?
A:Từ năm 1075 nước ta đã mở khoa thi tiến sĩ có gần3000 tiến sĩ 82 tấm bia khắc tên tuổi 1306 tiến sĩ
B: Thời Nhà lê nước ta đã mở khoá 104 số khoa thi có 1780 người đỗ tiến sĩ và 27 người đỗ trạng Nguyên
C:Từ năm 1075 nước ta đã mở khoa thi tiến sĩ mở sớm hơn cả châu âu các các triều vua Việt Nam đã tổ chức 185 khoa thi lấy đỗ 3000 tiến sĩ
2 Triều Đại Tổ chức nhiều khoa thi nhất và có nhiều tiến sĩ nhất là:
A:Triều Lê. B:Triều Mạc. C:Triều Nguyễn
3:Bài Văn gúip em hiểu điều gì về truyền thống văn hoá Việt Nam
A: Việt Nam Có Truyền thống hiếu học
B:Việt Nam là nước Mở khoa thi tiến sĩ sớm hơn cả Châu âu
C:Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời
4:Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của từ chứng tích?
a:Làm cho Thấy là đúng là thật bằng sự việc băngf sự việc lí lẽ.
b: Vật vết tích còn lại có giá trị làm chứng cho sự việc đã qua.
c:Cái viện ra để tỏ rõ việc đó là có thật
Xem chi tiết Lớp 5 Ngữ văn Câu hỏi của OLM 3 0
Gửi Hủy
Lê Hạnh Nga 28 tháng 10 2020 lúc 20:27 1 Đến Văn Miếu ,khách nước ngoài ngạc nhiên vì điều gì?
C:Từ năm 1075 nước ta đã mở khoa thi tiến sĩ mở sớm hơn cả châu âu các các triều vua Việt Nam đã tổ chức 185 khoa thi lấy đỗ 3000 tiến sĩ
2 Triều Đại Tổ chức nhiều khoa thi nhất và có nhiều tiến sĩ nhất là:
A:Triều Lê.
3:Bài Văn gúip em hiểu điều gì về truyền thống văn hoá Việt Nam
C:Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời
4:Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của từ chứng tích?
b: Vật vết tích còn lại có giá trị làm chứng cho sự việc đã qua.
c:Cái viện ra để tỏ rõ việc đó là có thật
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
Lê Hạnh Nga 28 tháng 10 2020 lúc 20:28 câu 4 là b nha, mình viết thừa ý c
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
Vũ Chứ 29 tháng 10 2020 lúc 21:27 1.a
2.a
3.c
4.b
Đúng 0 Bình luận (0) Khách vãng lai đã xóa
Gửi Hủy
- Kim Jennis
trong bài tập đọc nghìn năm văn hiến thì từ khoa thi 1075 đến cuối cùng vào năm 1919 các triều vua v.n đã tổ chức được 185 khoa thi ,lấy đỗ bn tiến sĩ
Xem chi tiết Lớp 5 Ngữ văn Câu hỏi của OLM 5 0
Gửi Hủy
Pinky Thỏ Ngọc 27 tháng 2 2018 lúc 20:02 lấy đỗ gần 3000 tiến sĩ
Đúng 1 Bình luận (0)
Gửi Hủy
Jemmy Girl 27 tháng 2 2018 lúc 19:59 Là sao bn câu hỏi đâu
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
hoàng văn việt 27 tháng 2 2018 lúc 20:01 gần 3000 tiến sĩ nhé
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy Xem thêm câu trả lời
- Linh Lê
Câu 1. Dựa vào sách giáo khoa Lịch sử 7, em hãy lập bảng thống kê một số tác phẩm văn học, sử học nổi tiếng thời Trần và Lê sơ theo mẫu sau:
Lĩnh vực | Thời Trần(1226-1400) | Thời Lê sơ(1428 - 1527) |
Văn học |
|
|
Sử học |
|
|
Câu 2. Em hãy gạch nối các mốc thời gian ở cột A tương ứng với các sự kiện chính ở cột B của cuộc khởi nghĩa Lam sơn sao cho đúng
(A)Thời gian | (B)Sự kiện chính |
1. Đầu năm 1416 | a.Chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang |
2. Tháng 2/1418 | b.Giải phóng Nghệ An |
3. Năm 1424 | c.Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa |
4. Năm 1425 | d.Tổ chức hội thề Lũng Nhai (Thanh Hóa) |
5. Tháng 10/1427 | e.Giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá |
Gửi Hủy
︵✰Ah
| Thời Lý (1009 - 1225) | Thời Trần (1226 - 1400) | Thời Lê sơ (1428 - 1527) |
Các tác phẩm văn học | Nam Quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) | Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải) , Phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu), | - Văn học chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo,… - Văn học chữ Nôm: Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,… |
Các tác phẩm sử học | Đại Việt sử kí toàn thư. | Bộ Đại Việt sử kí gồm 30 quyển (Lê Văn Hưu). | - Có nhiều tác phẩm như: Đại Việt sử kí (10 quyển), Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển), Lam Sơn thực lục,Việt giám thông khảo tổng luận, Hoàng triều quan chế,… |
Đúng 1 Bình luận (3)
Gửi Hủy
︵✰Ah
| Thời Lý (1009 - 1225) | Thời Trần (1226 - 1400) | Thời Lê sơ (1428 - 1527) |
Các tác phẩm văn học | Nam Quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) | Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải) , Phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu), | - Văn học chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo,… - Văn học chữ Nôm: Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,… |
Các tác phẩm sử học | Đại Việt sử kí toàn thư. | Bộ Đại Việt sử kí gồm 30 quyển (Lê Văn Hưu). | - Có nhiều tác phẩm như: Đại Việt sử kí (10 quyển), Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển), Lam Sơn thực lục,Việt giám thông khảo tổng luận, Hoàng triều quan chế,… |
Đúng 0 Bình luận (0)
Gửi Hủy
︵✰Ah Thời gian | Sự kiện |
Năm 1416 | Bộ chỉ huy nghĩa quân được thành lập ở Lũng Nhai(Lê Lợi và 18 người) |
Năm 1418 | Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh hóa) và tự xưng là Bình Định Vương. |
Năm 1421 | Quân Minh huy động 10 vạn lính tấn công lên Lam Sơn, Lê Lợi phải rút quân phải rút lên núi Chí Linh |
Năm 1423 | Nghĩa quân tạm thời hòa hoãn với quân Minh |
Năm 1424 | Nghĩa quân rời miền núi Thanh hóa tiến vào Nghệ an |
Năm 1425 | Giải phóng Tân Bình- Thuận Hóa |
Tháng 9.1426 | Nghĩa quân chia quân làm ba đạo tiến ra Bắc |
Tháng 11.1426 | Chiến thắng Tốt Động – Chúc Động |
10.1427 | Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang, chiến tranh kết thúc |
12.1427 | Hội thề Đông Quan diễn ra, quan Minh rút quân về nước. |
Gửi Hủy Từ khóa » Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội
-
Giáo Dục Khoa Cử Thời Lê Sơ – Wikipedia Tiếng Việt
-
Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội?
-
Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội?
-
Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội? - Hoa Hong
-
Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội? A. Lê Thánh ...
-
Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội?
-
Tiến Sĩ Nho Học Triều Lê Sơ (1428 - 1527)
-
Nhà Lê Sơ – Wikipedia Tiếng Việt
-
Triều Vua Nào Thời Lê Sơ đã Tổ Chức 12 Khoa Thi Hội? - OnLuyen365
-
Giáo Dục Khoa Cử Thời Lê Sơ - .vn
-
Vua Lê Thánh Tông Tuyển Chọn Quan Lại Hiền Tài - Báo Nam Định
-
Chế độ Khoa Cử Thời Lê Sơ Phát Triển Thịnh Nhất Dưới Triều Vua Nào...
-
Hiền Tài Thời Lê Sơ - Báo Đấu Thầu
-
Bài 20. Nước Đại Việt Thời Lê Sơ (1428 - 1527) - SureTEST