Thu Vịnh Thuộc Thể Thơ Gì? - TopLoigiai

Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Thu vịnh thuộc thể thơ gì?” và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Ngữ văn 11.

Mục lục nội dung Trả lời câu hỏi: Thu vịnh thuộc thể thơ gì?Kiến thức tham khảo về bài Thu vịnh1. Bài thơ Thu Vịnh2. Vài nét về tiểu sử, cuộc đời, những mốc quan trọng3. Sự nghiệp sáng tác, những tác phẩm chính, vài nét về một số tác phẩm tiêu biểu4. Tổng thể bài thơ5. Phân tích bài thơ

Trả lời câu hỏi: Thu vịnh thuộc thể thơ gì?

- Thu vịnh thuộc thể thơ thất ngôn bát cú đường luật

Cùng Top lời giải hoàn thiện hơn hành trang tri thức của mình qua bài tìm hiểu về bài thu vịnh dưới  đây nhé!

Kiến thức tham khảo về bài Thu vịnh

1. Bài thơ Thu Vịnh

Thu vịnh

Tác giả: Nguyễn Khuyến

"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

 

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào".

 Thu vịnh thuộc thể thơ gì?

- Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát ngâm thơ.

2. Vài nét về tiểu sử, cuộc đời, những mốc quan trọng

- Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), hiệu Quế Sơn, quê Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam.    

 Thu vịnh thuộc thể thơ gì? (ảnh 2)

- Gia đình: Nhiều người đỗ đạt, làm quan to dưới triều Lê – Mạc. Đến đời cụ thân sinh thì nghèo túng.    

- Đỗ đầu cá ba kì (Hương, Hội, Đình) nên được gọi là Tam nguyên Yên Đồ. Từng làm các chức quan dưới triều Nguyễn.  

- Năm 1884, Nguyễn Khuyến xin về hưu, ở làng quê. 

3. Sự nghiệp sáng tác, những tác phẩm chính, vài nét về một số tác phẩm tiêu biểu

- Về số lượng: Nguyễn Khuyến để lại hơn tám trăm tác phẩm.

 - Vẻ thể loại: thơ, câu đối, hát nói (viết bằng chữ Hán và chữ Nôm).

4. Tổng thể bài thơ

- Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. 

5. Phân tích bài thơ

a. Đề: Giới thiệu tổng quát cảnh mùa thu

- Hình ảnh “Trời thu xanh ngắt...": màu xanh quen thuộc của Nguyễn Khuyến khi tả mùa thu, “mấy tầng cao": vẽ được cái cao vút, thăm thằm của khung trời mùa thu. Hình ảnh “cần trúc lơ phơ" tạo nét động cho bức tranh thu. "Hắt hiu": diễn tả được cái se lạnh của gió mùa thu. Cách giới thiệu rất khéo và rất đạt.

b. Thực: Cảnh trăng nước của mùa thu

- Màu sắc (nước biếc) hoà hợp trong tranh của Nguyễn Khuyến. Cách so sánh “trông như tầng khói phủ" làm cho cảnh dịu nhẹ, mờ nhạt. Ta hình dung được mùa thu trong màu biếc lẫn với màu khói. Hình ảnh "Song thưa để mặc ánh trăng vào" quen thuộc mà vẫn nên thơ. Cách nói của Nguyễn Khuyến “để mặc" cho thấy cảnh của ông phóng khoáng, tâm hồn ông rộng mở. Cảnh đẹp, màu sắc dịu nhẹ. Cảnh cho thấy sự hoà nhập của con người với ihiên nhiên. Ta có cảm tưởng Nguyễn Khuyển đang thả mình trong thiên nhiên với làn nước, với ánh trăng.

c. Luận: Cảnh hoa và tiếng chim (ngỗng) của mùa thu

- Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh “mấy chùm" hoa và “một tiếng" ngỗng. Hình ảnh “hoa năm ngoái" có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái" có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái (gợi lên cho ta hiểu) mà nước hôm nay thì đã trở thành “nước nào". Hình ảnh “hoa năm ngoái" làm ta nhớ cách dùng chữ của Nguyễn Du: “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Nói tóm lại, hai câu luận cũng là tả về mùa thu, nhưng qua cảnh, ta thấy được tâm trạng của nhà thơ, thấy được sự thầm kín của một con người không thể dửng dưng trước cảnh mất nước.

d. Kết: Cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ

- “Nhân hứng" tức là cái hứng thú trước cảnh đẹp của mùa thu. "Toan cất bút" nghĩa là định làm thơ, cảnh thu đẹp và gợi hứng cho nhà thơ. "Nghĩ ra" tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Ông Đào tức là Đào Tiềm, một danh sĩ đồng thời là một nhà thơ nổi từ đời Tấn, đã “dũng thoái" treo ấn từ quan, về sống với ruộng vườn, với hoa cũ được giữ cho được cái khí tiết của mình. Bằng điển tích này, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ “cái tôi" của mình trong cảnh sắc mùa thu một cách khá đậm nét. "Thẹn với “ông Đào" là một cách nói bộc lộ được tấm lòng thanh cao của nhà thơ, thể hiện được cái tự hào khiêm tốn của ông trước lương tâm của mình “Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu". 

Từ khóa » Bài Thơ Thu Vịnh Là Gì