Thuốc Bảo Vệ Phóng Xạ (Phần 1) | BvNTP

ĐẠI CƯƠNG

Thuốc bảo vệ phóng xạ (BVPX) là những thuốc khi đưa vào cơ thể (trước khi chiếu xạ) có tác dụng tăng đề kháng chống PX của cơ thể, hạn chế hoặc giảm nhẹ các tổn thương do phóng xạ gây ra và tăng cường khả năng phục hồi các tổn thương đó.

Tình huống sử dụng:

Trong chiến tranh: có sử dụng VKHN, thuốc được sử dụng:

Khi có báo động chiến tranh hạt nhân

Trước khi vào hoạt động trong khu vực nhiễm xạ

Khi làm việc ở các bãi, trạm xử lý VS, tiếp nhận thương binh từ khu vực nhiễm xạ trở về.

Trong thời bình: thuốc được sử dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, KHKT vũ trụ, y học mà con người bắt buộc phải tiếp xúc với PX. Người ta thường chia thành 3 nhóm ngành nghề phải tiếp xúc với PX:

Những người làm ở các cơ sở sản xuất chất PX như: mỏ uran, nhà máy xử lý quặng và tách ĐVPX, các lò phản ứng nguyên tử hay trung tâm nghiên cứu về PX, điện hạt nhân, đơn vị vận chuyển và chứa chất PX.

Những người sử dụng các tia bức xạ ion hoá từ những ĐVPX:

Trong công nghiệp:

Đo độ dày, độ ẩm, tỷ trọng... kỹ thuật dựa vào tính đâm xuyên của tia phóng xạ

Chụp bằng tia gamma để xác định cấu trúc bên trong của vật thể như kim loại, gỗ, beton... để tìm khuyết tật.

Dùng PX làm chất chỉ thị đánh dấu... tìm đường đi của mạch nước ngầm, chỗ hở của đường ống nước...

Trong sinh học và sinh hoá:

Làm chất chỉ điểm để nghiên cứu hiện tượng sinh lý động vật hay thực vật (C14; S-35; I-131)

Khử trùng bảo quản thực phẩm, dụng cụ, nước...

Trong y học:

Dùng trong chẩn đoán, thăm dò chức năng, đánh giá tình trạng một số cơ quan. Các cơ quan này giữ lại một cách chọn lọc các nguyên tố PX...

Tia xạ trong, xạ ngoài điều trị bệnh

Xác định thành phần các chế phẩm dược

Trong nông nghiệp:

Nghiên cứu cáchiện tượng sinh lý thực vật, triệt sản

Nghiêncứu biến dị, kích thích tăng trưởng, diệt nấm...

Những người sử dụng máy phát tia X.

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỐC BVPX TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Giai đoạn 1: từ 1942-1951 là giai đoạn của việc tìm kiếm các thuốc BVPX, từ việc phát hiện tác dụng bảo vệ trên men, trên vi khuẩn, trên động vật, năm 1949 Patt H.M. và CS. thuộc phòng thí nghiệm Argoone (Chicago) cho thấy Cystein có tác dụng BVPX, chuột nhắt được uống cystein sống nhiều hơn nhóm chứng. Đây được coi như công trình nghiên cứu đầu tiên về thuốc BVPX. Năm 1951 Bacq Z.M và CS. chứng minh cysteamin và cystamin là 2 loại thuốc có tác dụng BVPX về sau được ứng dụng trên lâm sàng.

Giai đoạn 2: từ 1952-1961 hàng loạt thuốc mới được thí nghiệm, ngoài thành tựu của Doherty D. và Burnett W. (1955) công bố tác dụng BVPX của aminoethylisothiouronium – (AET), các chất khác có hiệu lực thấp hơn cystein và cysteamin. AET khi áp dụng thử trên người thấy có nhiều tai biến .

Giai đoạn 3: Từ năm 1962 trở lại đây, trong những năm 60 phát hiện thêm những thuốc mới có tác dụng bảo vệ khá mạnh thuộc nhóm Thiophosphat. Nói chung, những thuốc BVPX đầu tiên được nghiên cứu thường chỉ có tác dụng ngắn hạn. Những năm 70 đã nghiên cứu được một số thuốc có tác dụng bảo vệ kéo dài như Thiazolidine (duy trì tác dụng khoảng 6 giờ).

Các tác giả thường nghiên cứu kết hợp các thuốc với nhau chẳng hạn như Cystamin với Etiron, Cystamin với Gutimin, Cystein với Mexamin...

Các thuốc BVPX còn có những nhược điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu, đó là:

Thuốc mới có hiệu lực với thể bệnh phóng xạ cấp tính mức độ vừa và nhẹ. Với bệnh phóng xạ cấp tính mức độ nặng (thể não, thể ruột) thì thuốc không đạt hiệu quả. Chưa có thuốc cho bệnh phóng xạ mạn tính.

Các thuốc BVPX hiện có hầu như không có tác dụng trong trường hợp vị chiếu bởi chùm neutron.

Thuốc BVPX hầu như không có hiệu lực bảo vệ, ngăn chặn những hậu quả xa của tổn thương do phóng xạ.

Các thuốc BVPX hoá học nói chung đều có độc tính, dùng nhiều lần không có lợi. Đôi khi thuốc BVPX hoá học còn làm tăng độc tính của một số thuốc và hoá chất khác.

Tình hình nghiên cứu thuốc BVPX trên thế giới

Xu hướng nghiên cứu trong những năm gần đây là tìm các chất có hiệu lực cao, một mặt tìm thêm thuốc BVPX mới, mặt khác vẫn phải sử dụng những thuốc tốt hiện có nhưng phối hợp với những chất khác để tăng hiêụ lực, giảm độc tính. Hướng thứ hai hiện nay là nghiên cứu các thuốc có khả năng điều biến đáp ứng sinh học (Biological Response Modifier - BRM). Theo hướng này có hàng trăm các chế phẩm sinh học được thử, có nhiều chất có hiệu lực BVPX tốt. Phần lớn các thuốc này là các chất sinh thích nghi, có khả năng tăng cường miễn dịch của cơ thể, tăng sức đề kháng, chống lại các tác nhân độc hại nói chung và đề kháng chống phóng xạ nói riêng. Các thuốc BRM thông thường là những thuốc bổ, không độc hại, có tác dụng chậm hơn nhưng lại duy trì được lâu hơn .

Các BRM có tác dụng giúp cho cơ thể tăng cường sức đề kháng, chống lại bệnh tật. Các nhà nghiên cứu tìm kiếm nhiều BRM dùng trong điều trị ung thư, nhất là kết hợp với xạ trị và hoá trị liệu. BRM tăng cường khả năng hồi phục các tế bào bị tổn thương do ung thư, do tia xạ...

Nghiên cứu về thuốc BVPXcó nguồn gốc tự nhiên đang được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm, nhất là ở Nga.

Ogrưzov thấy dịch chiết của cây Salsolapestyera và Tamarixra-mosisima, Crostachus spinosa có tác dụng tăng tỷ lệ sống sót của chuột lên từ 35-100% sau chiếu xạ 7Gy.

Goncharenko E.N., Kudriasov, Antonova, Mazhul (1995) đã nghiên cứu chất MIGI-K (Mytilis Galloprovincialis) thu được bằng thuỷ phân thịt một loài nhuyễn thể trong môi trường axit. Trong MIGI-K có các axit amin, melanoidin, một số nguyên tố vi lượng: Co, Cu, Zn, Mn, Fe... Các axit amin có khả năng tăng kháng xạ của cơ thể, melanoidin có hoạt tính chống oxy hoá, còn các nguyên tố vi lượng cần thiết để thực hiện các chức năng miễn dịch, tạo máu và một số chức năng quan trọng khác của cơ thể .

Vasin và Antipov cho biết Indraline tăng khả năng kháng xạ của các tế bào hệ tạo máu, giảm sự rối loạn nhiễm sắc thể của tuỷ xương, tăng khả năng hồi phục tuỷ xương và lách, tái tạo BC, HC và TC nhanh hơn. HS giảm liều >1,5 .

Trong mươi năm gần đây, sự ô nhiễm phóng xạ ở một số nước như Ucraina sau thảm hoạ Chernobyl đã đặt ra nhiệm vụ: tìm biện pháp BVPX cho những người bị chiếu xạ liều thấp, trường diễn trong điều kiện tự nhiên .

Quan trọng là làm sao có được những chất có nguồn gốc tự nhiên (động vật, thực vật) có thể dùng trong điều kiện bị chiếu xạ liều thấp, trường diễn. Các chất này phải không độc, có khả năng duy trì hiệu lực tác dụng tương đối lâu và dùng dưới dạng "ăn, uống" được. Chúng làm tăng các phản ứng không đặc hiệu của cơ thể, tăng sức đề kháng, có tính giải độc và sinh thích nghi, có khả năng kích thích hệ tạo máu, hệ miễn dịch, tác dụng lên hệ thần kinh nội tiết, tăng các amin sinh học, các thiol, giảm các chất cảm xạ nội sinh- sản phẩm của quá trình oxy hoá lipit (các peroxit) .

Gần đây, còn có một hướng mới nữa là dùng các chất có nguồn gốc vi sinh để nâng cao tính kháng xạ của cơ thể. Các chất có nguồn gốc vi sinh thường có hoạt tính sinh học cao, chúng kích thích tạo kháng thể, tăng cường chức năng thực bào của bạch cầu, kích thích tái tạo tế bào máu, tăng số lượng tiểu cầu, hồng cầu lưới, tăng các quần thể tạo huyết ở lách, tuỷ xương...

Tác dụng có lợi của các sản phẩm vi sinh lên hệ tạo máu có thể được thực hiện thông qua hệ miễn dịch. Điều hoà hệ tạo máu bởi các cơ chế miễn dịch nhờ các lympho bào T và đại thực bào. Các tế bào này khi được kích thích sẽ tiết một số yếu tố chủ yếu điều khiển quá trình tạo máu GM-CSF, M-CSF và G-CSF, hoặc tiết các yếu tố tác động lên quá trình tăng sinh và biệt hoá cũng như chức năng của nhiều loại tế bào miễn dịch như interleukin-1, g-interferon.

Vladimirov [64] sử dụng vacxin và các chất có nguồn gốc vi khuẩn tiêm vào cơ thể trước khi chiếu xạ để tăng sức đề kháng cho cơ thể đồng thời tăng khả năng kháng xạ của cơ thể. Dupliseva và một số tác giả nhận thấy polysaccarit của vi khuẩn thương hàn, các kháng nguyên nội độc tố phó thương hàn nhóm B đều có tác dụng BVPX. Hàng loạt các nghiên cứu theo hướng này cho thấy các polysaccarit tách từ vi khuẩn đường ruột, từ nấm men Sacharomyces cerevisiae hoặc một số độc tố của một số vi khuẩn đều có hiệu lực BVPX tương đối tốt. Stelnikov đã tổng kết được có khoảng 80 loại vacxin và các sản phẩm vi sinh có khả năng BVPX thể hiện qua tỷ lệ động vật sống sót sau chiếu xạ được tăng lên.

Một số thuốc khác có nguồn gốc thực vật và động vật đã được các tác giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu như: antoxian tách chiết từ cánh hoa hồng Bungari, mật ong, nọc rắn, lách rùa Trung Á...

Khalikov, Rakhimov nghiên cứu tác dụng của nọc rắn Naja naja axiana, với các liều 50, 100, 150, 250 microgam/kg thấy chúng có tác dụng tăng tỷ lệ sống sót của chuột sau chiếu xạ lên 40-65% so với nhóm chứng .

Akhmadieva công bố antoxan (pelapronidin 3,5-diglucozit) đạt HSGL =1,7. Krasilnikov [80] thấy vikanin thuộc nhóm alcaloit, dẫn xuất của lindol, là một phomat thực vật, tăng tỷ lệ sống sót ở chuột cống trắng sau chiếu xạ liều 7,5Gy lên từ 24-65%.

Turdiev, Prus đã tách protein từ lách rùa Trung Á thấy chúng có tác dụng BVPX, tăng tỷ lệ sống sót của chuột, HSGL =1,46. Xeverin và CS nhận thấy cacnozin (một chất nội sinh có hàm lượng lớn trong cơ, xương của động vật có xương sống) có tác dụng tăng tỷ lệ sống sót của chuột nhắt lên 55%.

Lee và Yang (1999) nghiên cứu 2 bài thuốc cổ truyền Trung Quốc si-wu-tang và si-jun-zi-tang thấy si-wu-tang tăng cường tạo máu, si-jun-zi-tang là bài thuốc tăng lực. si-wu-tang có khả năng kéo dài thời gian sống thêm, hình thành quần thể lách nội sinh. Tác dụng BVPX của si-wu-tang có thể là chất chiết từ Danggui và Baishaoyao. Si-wu-tang có tác dụng BVPX rõ hơn, chúng lại là chế phẩm tự nhiên không độc

Kim K.C cho biết nước quả (dịch thân cây) của Ganoderma lucidum được dùng dự phòng và điều trị một số bệnh ở Á Đông. Chúng có khả năng chống ung thư, tăng cường miễn dịch, không gây độc mô, do đó có thể dự phòng chống oxy hoá. Polysaccharide tách từ Ganoderma lucidum có tác dụng tương tự, như vậy hỗn hợp polysaccharide có tác dụng chống PX.

Hai loại flavonoids orientin và vicentin chiết từ một loại lá cây ở Ấn Độ tiêm tĩnh mạch 50microg/kg 30 phút trước chiếu xạ. Vicentin khá hơn (không nhiều) orientin kéo dài thời gian sống thêm của chuột. Hệ số giảm liều (Dose modification factors -DMF) với vicentin là 1,37, orientin là 1,30. Cơ chế quét gốc tự do được bàn đến. So sánh với aminothiol (WR-2721) thấy có tác dụng tương đương, giảm tổn thương biến loạn nhiễm sắc thể tế bào tuỷ xương. Liều sử dụng cách xa liều độc, do đó có thể ocimum flavonoid sẽ là một thuốc BVPX ứng dụng cho người. Jagetia và Aruna nghiên cứu một loại chế phẩm thảo mộc abana thấy rằng nếu cho chuột uống trước khi chiếu xạ với liều 20mg/kg có thể giảm tần suất nhiễm sắc đa nhân khoảng 4 lần so với nhóm chứng.

Aminothiol (ký hiệu WR-1065) có tác dụng giảm tần suất biến loạn nhiễm sắc thể do chiếu xạ khi thử nghiệm in vitro đối với các lympho bào người với liều chiếu 3Gy tia gamma của nguồn Cs-137. Dùng bổ sung WR-1065 3 giờ sau chiếu xạ còn tăng thêm khả năng chống biến loạn nhiễm sắc thể. WR-1065 và các aminothiol tương tự có khả năng chống lại tác động gây biến loạn nhiễm sắc thể của bức xạ ion hoá giống như polyamine, tức là ổn định cấu trúc chromatin, ức chế phân chia tế bào, tác dụng tích cực đến quá trình tái thiết DNA.

Dùng các chất chống oxy hoá để hạn chế tổn thương nội bào do gốc tự do gây ra đang là sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Dung dịch 2', 7' - dichlorofluorescin diacetate (DCFH-DA) khi bị chiếu xạ 10Gy nguồn Co-60 đã tăng vận tốc chuyển thành 2',7' dichlorofluorescein (DCF).

Ganasoundari, Devi và Rao cho biết dịch chiết một loại lá Ocimum sanctum thử nghiệm trên chuột chiếu xạ 1-6Gy, dùng 10mg/kg trong 5 ngày, lần cuối 30 phút trước chiếu xạ đã giảm các biến loạn nhiễm sắc thể (cả dicentric, chuỗi) hiệu ứng giảm liều đạt 2,63 đối với liều chiếu 2Gy. Liều chiếu dưới 3Gy, thuốc có tác dụng hồi phục các biến đổi nhiễm sắc thể trong 2 ngày. Dịch chiết Ocimum giảm gốc tự do hydroxyl.

Indomethafen (IM) có khả năng kích thích tổng hợp DNA, RNA và các protein ở chuột. IM giảm nhẹ tổn thương do phóng xạ, kích thích tổng hợp protein và DNA bù đắp lại sự suy giảm hoạt tính RNA-reductase ở lách, tăng hàm lượng Fe-transferrin, cytochrome-C, cytochrome P-450, kích thích tổng hợp ATP, tăng các phản ứng bù trừ ở lách .

Spencer và Goa công bố Amifostine (ký hiệu WR-2721) có khả năng chống lại các tổn thương phóng xạ trên động vật.Chiu S., Oleinick N.L cho biết Spesmine là chất BVPX có hiệu quả của plasmid hoặc của axit nhân virus với cơ chế quét gốc tự do.

Akiyama M. nghiên cứu hậu quả muộn của bom A lên hệ miễn dịch 20 năm sau vụ nổ bom nguyên tử 1945 ở Nhật. Hầu hết phát hiện thấy có sự bất thường chức năng của tế bào T và B ở những người nằm trong vùng bị chiếu xạ >1Gy. Với lympho T: Giảm CD3 ở máu ngoại vi, giảm CD4, CD8, giảm chức năng tế bào T trong đáp ứng với mytogens và alloantigens. Với lympho B: tăng số lượng lympho B ở máu ngoại vi; trong huyết thanh thấy tăng immunoglobulin A ở nữ và immunoglobulin M, tăng yếu tố Rh ở cả 2 giới, tăng kháng thể virus anti-epstein-Barr .

Tình hình nghiên cứu thuốc BVPX ở trong nước

Trong nước, việc nghiên cứu thuốc BVPX được đề cầp đầu tiên với công trình tổng hợp về lý luận và phương pháp của Nguyễn Xuân Phách (1962). Một số cây thuốc, con thuốc được nghiên cứu như Hoàng kỳ, Hoàng hoa. Hoàng kỳ là một thuốc bổ đông y có nhiều tác dụng, có khả năng tăng sức bền mao mạch, tăng sức đề kháng cho cơ thể, HSGL = 1,3. Từ 1982- 1985 Nguyễn Xuân Phách cùng nhóm NCđã nghiên cứu một số chế phẩm có tác dụng BVPX như chè đen Việt Nam, tảo Spirulina platensis thuộc họ tảo lam (Cyanophyta), RPM (Radix polygoni multiflovi) là cao mềm chế từ rễ hà thủ ô đỏ. Phân tích thành phần bán định lượng RPM có các chất như Flavon, Catechic tannin, Anthraquinon, Amino-acid, Starch, Protein và rất nhiều nguyên tố vi lượng có hàm lượng cao như K, Fe, Zn, Br, Zr, Cu, Rb...RPM có tác dụng tăng hàm lượng các chất bảo vệ nội sinh như catecholamin, dopamin, hàm lượng nhóm SH phi protein trong gan và lách. PX là hỗn hợp của RPM với cao xương động vật, có HSGL = 1,41. RPM có tác dụng BVPX tốt khi dùng đường uống liều 1g/kg trong 3 ngày liên tiếp. RPM còn có tác dụng làm tăng ESC rất rõ so với nhóm đối chứng.

Năm 1990, Nguyễn Xuân Phách và CS nghiên cứu cho thấy Protein từ gan và lách rùa dùng khoảng 20mg/kg thể trọng có tác dụng hồi phục hệ tạo huyết tốt, cao quy bản chế từ yếm rùa cũng có tác dụng BVPX.

Hỗn hợp tinh chất rùa và hà thủ ô đỏ được chế thành viên quy hà, ứng dụng trên nhóm bệnh nhân liên quan đến vụ tai nạn Chernobyl và kết quả rất tốt: chỉ sau 1 tuần dùng thuốc (3-4 viên/ngày) nhịp tim trở lại bình thường, sau 2 tuần giảm triệu chứng suy giáp...

Một số thuốc BVPX chế từ nguồn gốc động- thực vật được nghiên cứu và ứng dụng trong những năm qua tại Học viện Quân y, bệnh viện 103, bệnh viện Hai Bà Trưng Hà Nội như bột Phylamin, bột Spirulina, cao quy bản, KT1 (dùng tẩm gạc đắp tại chỗ).

Nguyễn Thị Kim Ngân và CS. [11] nghiên cứu khả năng BVPX của một số chất như cepharanthin tách chiết từ củ bình vôi, gacavit- một chế phẩm từ quả gấc vừa có tác dụng điều trị ung thư, vừa có tác dụng BVPX.

Nhiều tác giả sử dụng chỉ tiêu hàm lượng acid nucleic trong các mô để đánh giá ảnh hưởng của thuốc. PG-2 hạn chế giảm ADN sau chiếu xạ và sau 3 ngày tốc độ phục hồi nhóm PG-2 + 7Gy cao hơn nhóm ĐCCX. Tác giả cho rằng có thể do hệ enzym phục hồi trong các tế bào lách. A.V Popov (1987) đã biết rõ 5 enzym tham gia quá trình phục hồi ADN: endonucleaza I (nhận biết vị trí tổn thương); endonucleaza II...Khi chiếu xạ, các tính chất lý hoá của ADN, ARN và các enzym bị biến đổi mạnh. PG-2 tăng cường phục hồi hệ enzym này, nhất là trong các mô tạo máu. Tác giả cho thấy ADN-aza II trong lisosom tế bào 12 giờ sau chiếu xạ đã tăng lên rất mạnh (250% so với ĐCSH), tiếp tục tăng cao đến ngày thứ 3 (700%). PG-2 tăng ít hơn. Cơ chế BVPX của PG-2 có lẽ ức chế tạm thời sinh tổng hợp ADN trong mô lách chuột cống, giống như Cystamin, gammaphos, thiazolizin..., tăng phông kháng xạ nội sinh bằng cách tăng các chất Serotonin, histamin, cetecholamin, các chất chứa nhóm SH, các acid amin, giảm phông cảm xạ nội sinh: giảm các sản phẩm quá trình oxy hoá lipit: dialdehyd malonic, các chất dien, hydroperoxyt lipit .

Ngô Văn Thành, Triệu Duy Điệt nghiên cứu Catechin tách chiết từ vỏ cây xoan trà, thấy có tác dụng BVPX với hệ số giảm liều 1,205; dùng 400mg/kg tiêm phúc mạc 15 phút trước khi chiếu xạ. Hệ số alpha = 0,51 và beta = 0,49.

Mai Văn Điển nghiên cứu flavonoid chiết xuất từ vỏ đậu xanh có tác dụng BVPX với hệ số giảm liều 1,218. Tác giả đã giải thích một số cơ chế tác dụng như ảnh hưởng lên hệ tạo huyết, kích thích tạo quần thể lách nội sinh, giảm tổn thương hệ miễn dịch (lách, hạch, tuyến ức), ức chế các phản ứng peroxit hoá lipid màng, giảm MDA trong mô gan, lách, ruột non chuột nhắt trắng.

Đoàn Suy Nghĩ nghiên cứu nấm linh chi và thấy Linh chi có tác dụng kích thích hệ tạo huyết ở mô lách, ức chế hoạt tính enzym peroxydaza, hạn chế tốc độ giảm nhóm SH trong máu tuần đầu sau chiếu xạ, giảm nhẹ tổn thương cấu trúc mô một số cơ quan như ruột non, gan, lách, tinh hoàn...Hệ số giảm liều của linh chi đạt 1,278.

Đặng Trần Trung cho biết tắc kè được ngâm chiết trong dung dịch cồn 20 độ có tác dụng BVPX với hệ số giảm liều 1,25.

Phạm Mạnh Kiên và CS nghiên cứu tác dụng của artesunat có tác dụng BVPX trên chuột nhắt trắng qua các chỉ tiêu như hệ số giảm liều, số lượng quần thể tạo huyết nội sinh ở lách. artemisinin với liều 20mg/kg, artesunat với liều 10mg/kg thể trọng chuột có tác dụng giảm mức độ nhiễm khuẩn nội sinh ở chuột được chiều xạ liều 7Gy.

Nguyễn Xuân Phách thăm dò tác dụng bảo vệ phóng xạ của một số dạng chế phẩm từ củ hà thủ ô đỏ và nhận thấy chế phẩm hà thủ ô đỏ có tác dụng BVPX: alpha = 0,42, beta = 0,44. phục hồi chức năng hệ tạo huyết: ESC = 6,2.

PG-2 có hiệu lực BVPX rõ khi tiêm phúc mạc 15 phút trước chiếu xạ, liều 1200mg/kg hiệu lực BVPX cao nhất, HSGL đạt tốt nhất (1,45).

Hoàng Công Minh cho biết Hapatin- một chế phẩm trong thành phần có cao quy hà, hà thủ ô đỏ và tam thất - nếu cho động vật uống trước khi chiếu xạ 7Gy, có tác dụng giảm độ hấp thu I-131 ở tuyến giáp. Tác giả cho rằng Hapatin gây giảm chức năng tuyến giáp, gián tiếp làm giảm oxy ở tổ chức và có khả năng làm giảm tổn thương phóng xạ.

Trần Văn Hanh, Lê Thế Trung, Nguyễn Minh Thông cho biết cao lỏng và viên phylamin có tác dụng BVPX (1985, 1987), kích thích hồi phục các tế bào lympho bị huỷ hoại sau chiếu xạ. Phylamin có tác dụng hạn chế sự phát triển ung thư. Tác giả đã nêu vấn đề có thể do trong phylamin có 9 axit amin, đặc biệt là methionin có thể là có tác dụng phòng chống hậu quả lâu dài của phóng xạ, chứa một số flavonoid có tác dụng điều hoà miễn dịch, một số vitamin và nguyên tố vi lượng giúp nâng cao thể trạng của cơ thể.

Thuốc thải xạ do nhiễm xạ trong

Hiện nay, tình trạng ô nhiễm phóng xạ do các sự cố hạt nhân vẫn xảy ra. Hoặc trong chiến tranh ở Côsôvô, Mỹ đã sử dụng uran nghèo. Do đó ngoài việc bị chiếu xạ ngoài, có thể còn xảy ra nhiễm xạ trong. Chất phóng xạ có thể xâm nhập vào cơ thể qua da, qua hô hấp và qua đường tiêu hoá.

Khi chất phóng xạ vào bên trong cơ thể, sẽ qua các giai đoạn hấp thu, tích đọng, tồn lưu và bài tiết. Khi chất phóng xạ thâm nhập vào đường tiêu hoá, đầu tiên phải ngăn ngừa chúng hấp thu vào máu và tích tụ ở các tổ chức, cơ quan. Muốn phong bế hấp thu, cần đưa vào đường tiêu hoá các chất hấp thu chất phóng xạ, biến chúng thành những hợp chất mới không hoà tan, không qua được nhung mao, không thâm nhập vào máu. Phong bế có hiệu quả nếu được dùng sớm mang tính dự phòng hoặc dùng ngay sau khi bị NX trong, 15 phút đầu có hiệu lực tốt.

Cần phải rút ngắn thời gian tồn tại chất phóng xạ trong cơ thể. Các thuốc sử dụng phải làm sao có tác dụng tăng thải chất phóng xạ ra khỏi đường tiêu hoá, hô hấp và vị trí chất phóng xạ tích tụ lại. Có thể dùng các chất chelateurs - là những phức chất dễ dàng kết hợp với kim loại và thải ra chủ yếu theo đường niệu. Trước đấy, năm 1981, Lâm Xuân Hải đã thăm dò tác dụng thải xạ Sr-85 của Natrialginat. Trần Cẩm Vinh nghiên cứu thực nghiệm trên thỏ cho thấy chế phẩm xoan trà với liều 0,5g/kg dùng ngay sau khi bị nhiễm xạ trong đã tăng tốc độ đào thải uran ở thỏ, chu kỳ bán thải sinh học từ 43 giờ rút xuống còn 13 giờ. Một số nghiên cứu tại Học viện Quân y còn cho thấy thuốc B76 có tác dụng thải xạ Strontium-85 và uranium U3O8 khi gây nhiễm độc thực nghiệm ở thỏ. Kết quả có so sánh với nhóm chứng, qua các chỉ tiêu lâm sàng, huyết học, mô bệnh học, xác định liều tích đọng bằng đo xạ toàn thân .

PHÂN LOẠI THUỐC BVPX

Các thuốc BVPX rất đa dạng về cấu tạo hoá học, hiệu lực bảo vệ, đặc điểm cũng như cơ chế tác dụng. Có nhiều cách phân loại khác nhau .

Thuốc BVPX có tác dụng ngắn hạn

Thuốc có tác dụng BVPX khi đưa vào cơ thể trước chiếu xạ một thời gian tương đối ngắn.

Các hợp chất có chứa lưu huỳnh

Cystein

Aminothiol và các dẫn chất của chúng: Cysteamin, Cystamin (dẫn chất của disulphua), AET, Cystaphos và Gammaphos

Các amin có hoạt tính sinh học cao

Các dẫn chất của indolylalkylamin: adrenalin, noradrenalin, ephedrin, mexamin, serotonin

Histamin, axetylcolin...

Các chất gây thiếu oxy tổ chức:

Amylnitrit, Natri nitrit, PAPP (Para-aminopropiophenol)

Oxyt cacbon

Muối xyanua

Morphin, heroin

Thuốc BVPX có tác dụng dài hạn

Thuốc có tác dụng chậm, kéo dài, có khi tới vài ngày

Hormon (Oestrogen)

Các hợp chất cao phân tử: axit nucleic, polysaccarit; Polyvinylsulphat, polyglutamat...

Vitamin E

Các chế phẩm có nguồn gôc sinh học chưa tinh chế: mật ong, nọc rắn, lách rùa Trung Á, nấm men và một số vi khuẩn, nhân sâm, đương quy, hà thủ ô đỏ ngũ vị tử, nấm linh chi, tam thất, phylamin, flavonoid...

Thuốc có tác dụng điều trị

Những chất có tác dụng chống phóng xạ sau khi đã bị chiếu xạ.

Có thể có những chất thuộc 1 nhóm, nhưng cũng có những chất có cả 2, 3 tác dụng khác nhau.

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG CỦA THUỐC BVPX

Hiện nay có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá hiệu lực của thuốc BVPX, tuỳ theo đối tượng và mục đích nghiên cứu mà chọn những phương pháp thích hợp nhất.

Đánh giá tác dụng BVPX trên cơ thể toàn vẹn - các chỉ tiêu chung

Đây là phương pháp cơ bản. Động vật thường dùng là chuột nhắt trắng, cho dùng thuốc BVPX (uống hoặc tiêm màng bụng) 15-30 phút trước khi chiếu xạ toàn thân. Có thể sử dụng các chỉ tiêu đánh giá sau:

Tỷ lệ động vật sống sót và thời gian sống trung bình sau chiếu xạ 30 ngày, hệ số giảm liều, hệ số bảo vệ anpha, beta, gamma.

a = [p(D) - p(DA)]/ p(D)

Trong đó p(D): xác suất chết của động vật bị chiếu xạ liều D, không dùng thuốc

p(DA): xác suất chết của động vật bị chiếu xạ liều D, dùng thuốc A.

Hệ số anpha cho thấy khả năng tăng tỷ lệ động vật sống sót của thuốc, không đề cập đến thời gian sống trung bình. a càng gần 1 thì thuốc càng tốt.

b = [Tth - Tc]/ [Ts - Tc]

Tth: thời gian sống trung bình sau chiếu xạ của động vật được dùng thuốc

Tc: TG sống trung bình của động vật bị chiếu xạ

Ts: TG sống trung bình của nhóm đối chứng sinh học.

Hệ số beta đánh giá được cả tỷ lệ sống chết và thời gian sống. Có thể tỷ lệ sống chết không chênh nhưng kéo dài thời gian sống thì thuốc vẫn có ý nghĩa. Hệ số beta càng gần 1 càng tốt.

g = [Gt - Gc]/ [Gs - Gc]

Gt, Gc, Gs: trọng lượng trung bình của các nhóm động vật có dùng thuốc trước chiếu xạ, chiếu xạ và nhóm ĐCSH.

Hệ số gamma đánh giá sự biến đổi trọng lượng cơ thể sau chiếu xạ.

Hệ số giảm liều (HSGL) (DRF - Dose Reduction Factor): Đó là tỷ lệ giữa 2 liều chiếu cùng gây một hiệu quả như nhau ở nhóm có dùng thuốc và nhóm không dùng thuốc. HSGL ³ 1,3 có thể coi là thuốc có hiệu lực tốt. Qua nghiên cứu HSGL có thể nhận định được thuốc BVPX có tác dụng đến liều chiếu nào. Đây là chỉ tiêu bắt buộc phải tiến hành đối với các công trình nghiên cứu về thuốc BVPX.

LD50/30 nhóm thí nghiệm

Hệ số giảm liều (HSGL) = -----------------------------------

LD50/30 nhóm chứng

Các chỉ tiêu về máu và cơ quan tạo máu

Không có tổn thương phóng xạ nào không liên quan tới bệnh lý máu và hệ tạo máu. Do đó các chỉ tiêu huyết học là rất phong phú.

Đánh giá sự thay đổi số lượng tế bào máu ngoại vi (HC, BC, tiểu cầu, hồng cầu lưới...Có thể theo dõi động học của quá trình hồi phục. Số lượng hồng cầu máu ngoại vi giúp đánh giá và tiên lượng bệnh phóng xạ cấp. Bạch cầu nhạy cảm nhất với PX, nhất là BC lympho, do đó giảm mạnh, nhất là từ ngày thứ 3-7 sau chiếu xạ.

Đánh giá sự thay đổi số lượng tế bào tuỷ xương

Đánh giá chỉ số quần thể tế bào lách nội sinh (ESC- Endogenous Spleen Colonies) Thường tiến hành vào ngày thứ 9 sau chiếu xạ, mổ lấy lách chuột, ngâm trong dung dịch Bouin 4 giờ, đếm các đốm nốt sần kích thước >1mm xuất hiện trên bề mặt lách.

Biến đổi đường huyết sau chiếu xạ: giảm tiêu thụ glucose nên gây tăng đường huyết, rõ nhất ở thời điểm 2 giờ sau chiếu xạ.

Đánh giá sự sinh sản hồng cầu bằng Fe-59: Sau khi tiêm Fe-59 sẽ từ huyết tương vào tuỷ xương để sử dụng cho quá trình tổng hợp huyết sắc tố. Sau khi tạo thành hồng cầu ở tuỷ xương, phần lớn HC sẽ ra máu ngoại vi. Tốc độ đưa HC ra máu ngoại vi là chỉ tiêu quan trọng của động thái hồng cầu. Nếu bị chiếu xạ, tuỷ xương bị tổn thương, do đó sự xuất hiện các hồng cầu đánh dấu Fe-59 trong máu ngoại vi sẽ giảm.

Tính đời sống hồng cầu bằng Cr-51: Theo dõi độ phóng xạ Cr-51 trong máu ta thấy giảm dần. Thời gian độ phóng xạ giảm xuống còn 1/2 ta gọi là thời gian sống 1/2 của hồng cầu. Sự thực thời gian đó không phải hoàn toàn sinh lý hoặc bệnh lý, nó bao gồm quá trình thoát bình thường của Cr-51 ra khỏi hồng cầu do thẩm thấu và do HC bị phá huỷ màng (chết). Giảm T1/2 có thể do giảm sự sinh sản hồng cầu của tuỷ xương, hoặc do tan huyết nhanh nên mất cân bằng.

Biến đổi ADN và chromosomes

Đánh giá các biến loạn thể nhiễm sắc: tăng, giảm, đứt gãy đơn, đứt gãy đôi, multinuclei... Thuận tiện nhất là nghiên cứu trên những tế bào lympho ở máu ngoại vi. Tế bào được nuôi cấy và dùng hoá chất để kích thích sự phân chia in vitro. Sai lệch nhiễm sắc thể có thể ghi nhận được ở metaphase của phân bào (mytosis). Sai lệch nhiễm sắc thể xảy ra khi 2 nhánh của DNA bị đứt gãy. Đầu đứt gẫy này có thể được nối lại với một đầu đứt gãy khác không tương ứng. Hiện tượng này thường gặp khi tế bào bị chiếu trong pha G1 của chu kỳ tế bào. Nếu tế bào bị chiếu ở pha G2, thì sẽ thấy có sai lệch nhiễm sắc tử (chromatid aberrations). Tần số sai lệch nhiễm sắc thể của tế bào lympho máu ngoại vi tương quan thuận với liều chiếu xạ trong một giới hạn nào đó.

Hàm lượng axit nucleic, hoạt tính ADN-ase, ARN-ase trong lách chuột. Thuốc có tác dụng BVPX khi có khả năng tăng cường sự hồi phục ADN, ARN; ức chế sự tăng hoạt tính ADN-ase và ARN-ase.

Các chỉ tiêu về hình thái, chức năng một số cơ quan và TB MD

Các cơ quan miễn dịch quan trọng như lách, hạch, tuyến ức là những cơ quan đặc biệt có nhiều tế bào non đang trong quá trình biệt hoá. Dưới tác động của bức xạ, các cơ quan này biến đổi rất mạnh. Có thể xác định:

Sự thay đổi trọng lượng của các cơ quan miễn dịch: lách, hạch, tuyến ức

Sự biến đổi hình thái, mô học của tế bào các cơ quan miễn dịch: các tiêu bản lách, hạch, tuyến ức nhuộm HE hoặc Carnoy được quan sát dưới kính hiển vi điện tử để phân tích hình ảnh vi thể: xung huyết, hoại tử, thoái hoá tế bào, mức độ tan rã, đông vón nhân của tế bào, sự đảo lộn cấu trúc vùng vỏ/vùng tuỷ. Các tế bào lympho giảm nhiều về số lượng ở vùng tuỷ trắng cũng như vùng tuỷ đỏ, giãn các xoang tĩnh mạch, trong các xoang tĩnh mạch ứ đầy hồng cầu.

Sử dụng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp để xác định các tiểu quần thể lympho T: TCD4, TCD8

Chức năng đại thực bào: kỹ thuật tạo hoa hồng của đại thực bào để đánh giá màng tế bào của đại thực bào: E, Ea của lympho T, EAC của lympho B.

Kỹ thuật thực bào (Killing test) đánh giá khả năng thực bào của bạch cầu trung tính máu ngoại vi. Đánh giá qua:

Số ĐTB có thực bào vi khuẩn

%Thực bào =--------------------------------- x100%

Tổng số ĐTB đếm được

Tổng số VK có trong ĐTB

Chỉ số thực bào = ------------------------------------- x100%

Số ĐTB có thực bào

Tổng số VK chết

Tỷ lệ giết = ------------------------------------- x100%

Tổng số VK đếm được

Đánh giá sự thay đổi tỉ lệ Th1/Th2: có một số công bố cho rằng bức xạ ion hoá tác dụng lên sự hình thành thụ cảm thể của tế bào T, làm biến đổi cân bằng Th1 và Th2. Bức xạ gây tổn thương Th2 nhiều hơn Th1. Tuy nhiên theo dõi xa sau chiếu xạ Th1 lại thiếu nhiều hơn vì Th1 chỉ sản sinh ở một vùng nhỏ cuả tuyến ức. Như vậy tỉ số Th1/Th2 lúc đầu tăng và sau đó lại giảm.

Về khả năng chống peroxit hoá lipid

Quá trình peroxit hoá lipid là quá trình chuyển hoá bình thường, điều hoà tính thấm của màng. Nếu xảy ra mạnh, kéo dài sẽ xuất hiện phân tử lipoperoxit làm thay đổi tính thấm của màng. Các lipoperoxit phản ứng với các nhóm -SH của enzym gây khóa hoạt động các enzym chuyển hoá năng lượng ở màng làm thay đổi quá trình phosphoryl hoá, các bơm canxi, natri, kali không hoạt động, dẫn tới tích tụ canxi ở bào tương.

MDA là một axit malolic dialdehyt sản phẩm cuối cùng của quá trình peroxit hoá lipit. MDA hình thành sẽ tiếp tục gây tổn thương các đại phân tử, đặc biệt với các axit nhân, có thể gây nên sự nối bắt chéo DNA trong hệ thống khuôn mẫu. Hiệu lực thuốc BVPX tốt khi có khả năng giảm MDA trong các tổ chức của động vật thí nghiệm.

Xác định in vitro khả năng ức chế phản ứng peroxit hoá lipit trong một số dịch nghiền đồng thể, trong ty thể tế bào gan chuột nhắt trắng. Tốc độ quá trình oxy hoá xác định bằng cách đo hàm lượng MDA hình thành.

Hệ thống chống oxy hoá có bản chất enzym:

SOD: Superoxit dimustase có mặt trong tất cả các tế bào có chuyển hoá oxy. Chức năng là xúc tác quá trình phân huỷ anion gốc superoxyl (O2-)

Bản chất enzym này là một protein có 2 đồng phân là MnSOD ở ty lạp thể và CuZnSOD ở bào tương. Hoạt độ CuZn SOD ở gan chuột là 122UI/mg protein và hoạt độ MnSOD là 35UI/mg protein.

Hiện nay đã chế tạo được SOD từ máu bò hoặc SOD tái tổ hợp bằng công nghệ gien và áp dụng trong các trường hợp viêm, giảm tác hại của PX. Tuổi thọ của các loài đều có quan hệ chặt chẽ với tỷ số hoạt độ SOD và chuyển hoá cơ bản. SOD giảm, tế bào mất khả năng chống đỡ với ngay các dạng oxy hoạt động nội sinh do hô hấp tế bào tạo nên.

Enzym catalase: là một chất chống oxy hoá vì nó xúc tác phản ứng phân huỷ hydrogen peroxit:enzym này chỉ được hoạt hoá khi H2O2 có nồng độ cao.

Enzym Glutathion peroxidase: xúc tác phản ứng loại bỏ các peroxit hữu cơ và vô cơ. Khi H2O2 có nồng độ cao sẽ ức chế glutathiol peroxidase, khi đó catalase sẽ hoạt động.

Xem tiếp phần 2

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

facebook.com/BVNTP

youtube.com/bvntp

Từ khóa » Hệ Số Kiềm Chế Liều