Thuyết Học Tập Xã Hội Về Hành Vi ủng Hộ Xã Hội
Có thể bạn quan tâm
1. Thuyết học tập xã hội của Bandura
Theo lý thuyết này, con người học tập thông qua quan sát kinh nghiệm của người khác và thông qua củng cố gián tiếp (theo Phạm Thành Nghị, 2013). Cụ thể là người học có xu hướng mô hình hoá hành vi của người được họ quan sát, trên cơ sở đó hình thành phản ứng mới, làm mạnh lên hay yếu đi các phản ứng có sẵn, trong một số trường hợp, làm phục hồi những phản ứng đã bị lãng quên. Tương tự xu hướng bắt chước người khác trong xã hội, con người thường thích mô hình hoá hành vi của những người có vị thế cao, được họ thích trong xã hội. Bên cạnh đó, hành vi của những người cùng tuổi cũng được con người thích mô hình hoá (David Clarke, 2003).
Học tập theo thuyết học tập xã hội được thực hiện thông qua hai hình thức: 1) Học tập thông qua quan sát để tạo ra những củng cố thay thế. 2) Bắt chước hành vi người làm mẫu, cho dù có hay không có sự củng cố. Bandura cho rằng có 4 quá trình tham dự vào học tập quan sát:
- Chú ý: nếu muốn học một điều gì đó, chúng ta sẽ tập trung vào điều đó. Nếu tập trung tốt, thì khả năng tiếp thu cao. Nếu bị phân tán thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập. - Giữ lại: Là khả năng lưu giữ trong trí nhớ về những gì chúng ta đã tri giác được nhờ tập trung chú ý. Chúng ta nhớ những gì đã được nhìn thấy hay qua những mô tả ngôn từ. Sau này, khi cần truy cập những dữ kiện đã được lưu trữ, chúng sẽ chỉ cần đến những hình ảnh trong hệ tâm thức hay những mô tả về nó. Từ đó, có thể diễn lại mô hình mẫu bằng chính những hành vi của chúng ta.
- Lặp lại: Vào lúc này, cá nhân sẽ chuyển tải những hình ảnh trong hệ tâm thức hay những mô tả ngôn ngữ thành hành vi thật sự. Tất nhiên sẽ có những hành động, thao tác không hoàn toàn diễn biến theo quá trình này. Chẳng hạn, khi ta quan sát một diễn viên xiếc cả ngày, nhưng chúng ta sẽ không thể bắt chước cách biểu diễn được (Bandura, 1997).
2. Hành vi ủng hộ xã hội theo thuyết học tập xã hội
Các nhà tâm lý học xã hội cho rằng trẻ em học tập hành vi ủng hộ xã hội theo cách học bất cứ một hành vi nào khác (David Clarke, 2003). Thông thường có 3 cách để trẻ em học được hành vi ủng hộ xã hội:
1) Trẻ quan sát mô hình hành vi ủng hộ xã hội của bố mẹ và của người lớn khác trong xã hội và lấy đó làm mô hình hành vi của chúng.
2) Cha mẹ và những người lớn khác thưởng cho những hành vi giúp đỡ của trẻ bằng những lời khen ngợi, những món quà nhỏ.
3) Cha mẹ và người lớn giới thiệu cho trẻ em những mô hình hành vi ủng hộ xã hội khác. Midlarsky cũng phát hiện ra rằng cách tốt nhất để dạy trẻ hành vi ủng hộ xã hội là cho đứa trẻ quan sát hành vi, sau đó, có phần thưởng cho chúng nếu chúng làm theo. Hình thức khen thưởng khác nhau có tác động khác nhau đến khả năng làm theo hành vi giúp đỡ của trẻ. Những lời khen cụ thể có hiệu quả với trẻ em hơn những lời khen chung chung (ví dụ, cháu làm tốt lắm) (David Clarke, 2003).
Bryan và Test nghiên cứu thực nghiệm và phát hiện ra rằng, mô hình hành vi ủng hộ xã hội không chỉ có tác dụng đối với việc thực hiện loại hành vi đó ở trẻ em, mà cả ở người lớn (David Clarke, 2003). Hai nhà nghiên cứu này đã xây dựng nghiên cứu thực nghiệm bằng cách tạo ra các tình huống khác nhau. Tình huống thứ nhất, để cho những người đi xe máy đi qua một bến xe, nơi mà một phụ nữ đang được một người đàn ông giúp đỡ thay lốp xe; Tình huống thứ hai: những người lái xe máy đi qua một bến xe khác có một phụ nữ cần giúp đỡ vì lốp xe bị hỏng, nhưng không nhận được sự giúp đỡ của ai cả. Sau đó, dọc trên một đoạn đường gần đó, một phụ nữ khác đề nghị được giúp đỡ vì gặp hoàn cảnh tương tự, quan sát của hai nhà khoa học cho thấy, trong 4.000 người lái xe đi qua, có khoảng 50% số người dừng lại giúp đỡ người phụ nữ có nhu cầu được giúp đỡ, trong số đó,tỷ lệ số người đã chứng kiến tình huống thứ nhất lớn hơn tỷ lệ số người đã chứng kiến tình huống thứ hai.
Tuy nhiên, có một vấn đề là nếu trẻ em được thưởng thường xuyên, chúng sẽ tin rằng việc giúp đỡ người khác chỉ có giá trị khi chúng được nhận phần thưởng vì việc làm đó (David Clarke, 2003). Như vậy, việc tăng cường khen thưởng để khuyến khích hành vi ủng hộ xã hội dễ dẫn đến việc giúp đỡ người khác vì ích kỷ. Rushton đã thiết kế một số nghiên cứu để giải quyết vấn đề này. Kết quả nghiên cứu cho phép ông khẳng định rằng mọi hành vi từ thiện đều xuất phát từ động cơ nhân đạo. Hành vi ủng hộ xã hội của trẻ em là hành vi học được. Ông tìm thấy hoàn toàn đúng điều ông kỳ vọng: những trẻ em trực tiếp nhìn thấy mô hình tặng quà từ thiện, thì tặng quà nhiều hơn những trẻ không trực tiếp thấy mô hình đó, nó ít liên quan đến việc các em có được khen thưởng hay không.
Các nhà tâm lý học xã hội cũng chỉ ra rằng trẻ em có hành động ủng hộ xã hội ở một tình huống này, nhưng không chắc chắn có hành động như vậy ở tình huống khác. Hartshorne và May cho thấy mối tương quan rất thấp giữa hành vi giúp đỡ trong một tình huống và hành vi giúp đỡ trong tình huống khác. Nhiều năm sau đó, Mangoo và Khann nhận thấy, trong sinh viên ở các trường đại học ở Ấn Độ, những người được đánh giá có tính nhân đạo cao thường không hiến máu nhiều hơn những người được đánh giá có tính nhân đạo thấp. Từ đó, các nhà khoa học rút ra nhận định rằng, mặc dầu học tập là một phần quan trọng để có hành vi ủng hộ xã hội, nhưng còn nhiều yếu tố khác là cơ sở để hình thành hành vi này (David Clarke, 2003).
Green và Schneider cũng nhất trí rằng hành vi ủng hộ xã hội là hành vi học được. Họ tìm hiểu sâu hơn chính xác điều gì trẻ em học được qua quan sát hành vi ủng hộ xã hội của người khác? Họ cho rằng cái quyết định hành vi ủng hộ xã hội không chỉ là sự cần thiết phải quan sát và bắt chước hành vi của người khác, mà cả khả năng hiểu được người khác (David Clarke, 2003).
Như vậy, theo thuyết học tập xã hội, hành vi ủng hộ xã hội là hành vi học được như bất kỳ những hành vi khác của con người. Hành vi ủng hộ xã hội cần được củng cố bởi sự kích thích như khen ngợi, phần thưởng. Tuy nhiên, các cách khen và phần thưởng khác nhau có tác động khác nhau. Cách học bằng quan sát trực tiếp mô hình hành vi ủng hộ xã hội có tác động mạnh hơn không được quan sát trực tiếp.
N.T.H Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thành Nghị (2013), Tâm lý học giáo dục. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Bandura A. (1997), Self – efficacy: the exercise of control. NewYork: Freeman. 3. Darvid Clarke (2003), Pro-Social and anti- social behaviour. Printed and bound in Great Bitain by TJ International Ltd. Padstow, Cornwall.
4. Knud Larsen và Lê Văn Hảo (2010), Tâm lý học xã hội. NXB Từ điển Bách khoa.
Từ khóa » Hành Vi ủng Hộ Xã Hội
-
Hành Vi ủng Hộ Xã Hội Của Sinh Viên - Tài Liệu Text - 123doc
-
[PDF] Thực Trạng Thái độ đối Với Hành Vi ủng Hộ Xã Hội - TẠP CHÍ GIÁO DỤC
-
Mối Quan Hệ Giữa Giá Trị Và Hành Vi ủng Hộ Xã Hội Của Thanh ... - VNU
-
So Sánh Xuyên Văn Hóa Về Hành Vi ủng Hộ Xã Hội - .vn
-
[PDF] HÀNH VI ỦNG Hộ XÃ HỘI TRONG GIA ĐÌNH CỦA HỌC SINH ...
-
Luận Án Tiến Sĩ - Hành Vi Ủng Hộ Xã Hội Của Sinh Viên
-
HÀNH VI ỦNG HỘ XÃ HỘI Tiếng Anh Là Gì - Trong Tiếng Anh Dịch
-
Hành Vi ủng Hộ Xã Hội Của Sinh Viên
-
Hành Vi ép Buộc Các Cá Nhân Trong Xã, Phường Tham Gia Quyên Góp ...
-
Hành Vi ủng Hộ Xã Hội Của Sinh Viên - Thư Viện đại Học Trà Vinh
-
Hành Vi Xã Hội – Wikipedia Tiếng Việt
-
Luận án Tiến Sĩ Tâm Lý Học: Hành Vi ủng Hộ Xã Hội Của Sinh Viên.pdf ...
-
Thực Trạng Thái độ đối Với Hành Vi ủng Hộ Xã Hội Của ... - Tailieunhanh
-
DSpace At HUHA: HÀNH VI ỦNG HỘ XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN