Thuyết Nhu Cầu & Một Số Gợi Ý Để Ứng Dụng Trong Đào Tạo
Có thể bạn quan tâm
Trong mảng đào tạo, có rất nhiều lý thuyết tâm lý học được áp dụng trong lĩnh vực này, có thể kể đến như thuyết học tập xã hội, thuyết hành vi… Hôm nay, GNTLH xin đề cập tới một số thuyết nhu cầu được các nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này đưa ra và kèm theo đó là đôi chút gợi ý để ứng dụng thuyết nhu cầu vào trong đào tạo.
- Thuyết nhu cầu của Maslow
Thuyết nhu cầu được phát triển bởi A. Maslow (1943, 1954), là một thuyết tạo động lực trong tâm lý học, bao gồm mô hình 5 cấp về nhu cầu của con người, thường được mô tả dưới dạng một kim tự tháp và được sắp xếp theo thứ tự từ dưới lên. Các nhu cầu đó bao gồm:

Tháp nhu cầu của Maslow
- Nhu cầu về sinh lý (ăn, uống, ngủ, tình dục…): Theo Maslow, một số nhu cầu cần được ưu tiên hơn các nhu cầu khác, chẳng hạn như nhu cầu sinh lý để duy trì sự sống của con người, chỉ khi nó được thỏa mãn, chúng ta mới có động lực thực hiện các nhu cầu ở các cấp bậc cao hơn của tháp. Trước khi nhu cầu sinh lý được đáp ứng, các nhu cầu khác sẽ bị kìm nén và không có khả năng ảnh hưởng tới hành động của chúng ta.
- Nhu cầu an toàn (an ninh, ổn định, trật tự…): Bao gồm cả về thể chất lẫn tinh thần. Chỉ khi chúng ta không còn bận tâm về những nguy hại xung quanh ảnh hưởng đến bản thân nữa thì ta mới đạt đến nhu cầu bậc kế tiếp.
- Nhu cầu xã hội (tình bạn, sự thân mật, liên kết…): Một khi nhu cầu về sinh lý và an toàn của chúng tôi đã được thỏa mãn tốt, chúng tôi sẽ đáp ứng nhu cầu về sự yêu thương và thuộc về. Những nhu cầu này có thể được thể hiện thông qua mối quan hệ mật thiết với bạn bè, người yêu, bạn đời hoặc thông qua các mối quan hệ xã hội được hình thành trong một nhóm (tham gia vào lớp học, một tổ chức tình nguyện, câu lạc bộ…).
- Nhu cầu tôn trọng: Một khi chúng ta cảm thấy yêu thương và có cảm giác thuộc về, chúng ta có thể thấy mình bị thúc đẩy bởi hai hình thức nhu cầu tôn trọng. Chúng ta đòi hỏi sự yêu mếm và tôn trọng từ chính bản thân chúng ta, dưới hình thức cảm giác có giá trị, và từ người khác, dưới hình thức địa vị, sự công nhận, hoặc thành công trong xã hội. Thoả mãn về nhu cầu tôn trọng cho phép chúng ta cảm thấy tự tin về sức mạnh, giá trị và tính trọn vẹn của mình, điều này sẽ giúp chúng ta trở nên có thẩm quyền và phát triển trong tất cả các khía cạnh của cuộc đời chúng ta. Khi chúng ta thiếu lòng tự trọng, chúng ta cảm thấy kém cỏi, bất lực và nản lòng với sự tự tin trong khả năng đối phó của mình.
- Nhu cầu hiện thực hóa bản thân: Đây là bậc nhu cầu cao nhất trong hệ thống phân cấp của Maslow, nhu cầu này phụ thuộc vào việc nhận biết rõ và thực hiện tối đa tiềm năng, tài năng và khả năng của chúng ta. Mặc dù, một người có thể đáp ứng được tất cả các nhu cầu khác trong hệ thống phân cấp, nếu không hiện thực hóa bản thân, người đó sẽ cảm thấy bồn chồn, thất vọng và bất mãn. Quá trình hiện thực hóa có thể có nhiều hình thức, nhưng mỗi người, bất kể nghề nghiệp hoặc sở thích, có khả năng tối đa hóa các khả năng cá nhân và đạt được sự phát triển nhân cách đầy đủ nhất. Sự hiện thực hóa không chỉ giới hạn ở những siêu sao sáng tạo và trí tuệ như nhạc sĩ, nghệ sĩ và nhà thiên văn học. Điều quan trọng là để hoàn thành tiềm năng của mình ở mức cao nhất có thể, bất kể nỗ lực đã chọn của bạn.
Tháp nhu cầu năm giai đoạn của Maslow có thể được chia thành hai loại là nhu cầu thiếu hụt và nhu cầu tăng trưởng. Bốn cấp bật đầu tiên thường được gọi là nhu cầu thiếu hụt và bậc cao nhất được gọi là nhu cầu tăng trưởng. Người ta phải đáp ứng nhu cầu thiếu hụt ở mức thấp hơn trước khi tiến tới đòi hỏi để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng ở mức cao hơn (nghiên cứu đã chứng minh quan điểm này của Maslow là không chính xác). Khi nhu cầu về thiếu hụt đã được thỏa mãn, nó sẽ biến mất, và các hoạt động của chúng ta trở nên thường xuyên hướng tới việc đáp ứng các nhu cầu tiếp theo mà chúng ta vẫn chưa thỏa mãn. Những điều này sau đó trở thành nhu cầu nổi bật của chúng ta.
Khi nhu cầu tăng trưởng đã được thỏa mãn hợp lý, người ta có thể đạt đến mức cao nhất là hiện thực hóa bản thân. Mọi người đều có khả năng và có mong muốn đạt tới mức độ cao nhất này. Thật không may, tiến độ thường bị gián đoạn do không đáp ứng được nhu cầu cấp thấp hơn. Các kinh nghiệm sống, kể cả việc ly hôn và mất việc làm có thể làm cho một cá nhân dao động giữa các cấp độ trong hệ thống phân cấp nhu cầu. Do đó, không phải tất cả mọi người sẽ đi qua hệ thống phân cấp theo một hướng, nhưng có thể di chuyển qua lại giữa các loại nhu cầu khác nhau.
Từ khi ra đời, thuyết nhu cầu của Maslow đã được sự đón nhận rộng rãi, rất ít lý thuyết đã có sự tác động rộng lớn như vậy vượt ra khỏi một chuyên ngành. Giáo viên, nhà tham vấn, lãnh đạo doanh nghiệp và chính phủ, các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ, và nhiều người đang cố gắng giải quyết những rắc rối hàng ngày, đã tìm ra quan điểm của Maslow tương thích với nhu cầu của họ và hữu ích trong việc giải quyết vấn đề. Điều này cũng nói lên được vai trò lớn của thuyết này đối với cuộc sống của con người.
2. Một số thuyết nhu cầu khác
Thuyết ERG của Clayton Alderfer
Thuyết ERG của C. Alderfer là một phiên bản đơn giản của hệ thống thứ bậc tháp nhu cầu của Maslow, thuyết này cho thấy rằng tất cả nhu cầu của con người có thể được tiếp cận và thỏa mãn đồng thời, hơn là từ dưới lên. Dù bằng cách nào, khi nhu cầu được thỏa mãn, con người có động lực phấn đấu để đáp ứng nhu cầu mới. ERG là viết tắt của ba từ: tồn tại (existence), liên hệ (relatedness) và phát triển (growth). Và chúng được định nghĩa như sau:

- Tồn tại: những nhu cầu cơ bản cần thiết để tồn tại như an toàn và sức khỏe sinh lý.
- Liên hệ: nhu cầu về các mối liên hệ giữa các cá nhân, địa vị xã hội và sự công nhận.
- Phát triển: nhu cầu phát triển cá nhân, bao gồm công việc sáng tạo và có ý nghĩa.
Thuyết nhu cầu của McClelland
David McClelland và cộng sự đã đề xuất lý thuyết về nhu cầu với tên gọi là thuyết nhu cầu của McClelland (McClelland’s theory of Needs). Thuyết này cho rằng hành vi của con người bị ảnh hưởng bởi ba nhu cầu (nhu cầu quyền lực (power), thành tựu (achievement) và sự liên kết (affiliation):

- Nhu cầu thành tựu: sự thôi thúc vượt trội, hoàn thành liên quan đến một bộ tiêu chuẩn, phấn đấu để đạt được thành công.
- Nhu cầu quyền lực: mong muốn ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân khác theo mong muốn của bản thân. Nói cách khác, đó là mong muốn kiểm soát người và có ảnh hưởng đến người khác.
- Nhu cầu liên kết: nhu cầu về các mối quan hệ giữa các cá nhân cởi mở và hòa đồng. Nói cách khác, đó là mong muốn có mối quan hệ dựa trên sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau.
3. Một số gợi ý để ứng dụng thuyết nhu cầu vào trong đào tạo:
Các lý thuyết về nhu cầu gợi ý rằng để thúc đẩy học tập, người thực hiện công tác đào tạo nên xác định rõ nhu cầu của các học viên và xây dựng, truyền đạt nội dung chương trình đào tạo liên quan đến việc đáp ứng những nhu cầu của họ (phát triển kỹ năng trong công việc, mối quan hệ…). Ngoài ra, nếu một số nhu cầu cơ bản của học viên (ví dụ như nhu cầu về sinh lý và an toàn) không được đáp ứng, họ sẽ không có động lực học hỏi. Điều này cũng có thể giải thích là tại sao trong công tác đào tạo, phải lựa chọn địa điểm đào tạo an toàn, thoải mái nhất cho học viên, có đồ ăn và thức uống, nghỉ giữa giờ, lại phải tính đến chi phí mà học viên phải chi trả, đào tạo mang lại ổn định cho công việc…
Một giả thuyết về ứng dụng thuyết nhu cầu vào đào tạo khác, liên quan đến việc cung cấp cho người muốn đào tạo một sự lựa chọn của các chương trình đào tạo để tham gia. Cung cấp cho họ một sự lựa chọn về khóa học để tham gia có thể làm gia tăng động lực của họ để tìm hiểu. Điều này xảy ra bởi vì các học viên có thể lựa chọn các chương trình phù hợp nhất với nhu cầu của mình.
Tóm lại, ứng dụng các học thuyết nhu cầu trong đào tạo mang điểm chung là tìm hiểu và xác định, cũng như thỏa mãn các nhu cầu của người được đào tạo. Nếu làm được như vậy, sẽ giúp công việc đào tạo trở nên hiệu quả hơn, tối ưu hóa năng lực người được đào tạo, từ đó nâng cao hiệu suất của công việc.
Minh Trí
Nguồn dịch và tổng hợp:
- Gerrig, R. J. (2016). Tâm lý học và cuộc sống. NXB Lao động Hà Nội, trang 428-429.
- Schultz, D. P., & Schultz, S. E. (2013). Theories of personality (10th ed). CA: Wadsworth, Cengage Learning, pp 247-249, 262.
- Noe, R . A. (2010). Employee Training and Development (5th ed). NY: McGraw-Hill/Irwin, pp 147
- http://study.com/academy/lesson/alderfers-erg-theory-employee-motivation-in-the-workplace.html
- http://www.managementstudyguide.com/mcclellands-theory-of-needs.htm
- Ảnh: madhurikanojiya, businessjargons
Chia sẻ:
- X
Liên quan
Từ khóa » Thuyết 3 Nhu Cầu
-
Lý Thuyết động Lực Và Nhu Cầu Của McClelland - Kinh Tế Quản Trị
-
Thuyết Nhu Cầu đạt được (Acquired Needs Theory) Của David ...
-
Thuyết Nhu Cầu đạt được Của David McClelland Là Gì? Đặc điểm Và ...
-
Lý Thuyết Tạo Động Lực Cho Nhân Sự Của McClelland
-
Lý Thuyết McClelland Về Nhu Cầu
-
Học Thuyết Ba Nhu Cầu (McClelland) - Tài Liệu Text - 123doc
-
Lý Thuyết Về Nhu Cầu Của McClelland / Tâm Lý Học - Sainte Anastasie
-
Thuyết Nhu Cầu Của Maslow Và Vận Dụng Thuyết Nhu Cầu Trong ...
-
Top 20 Thuyết 3 Nhu Cầu Của David Mcclelland Hay Nhất 2022
-
Tháp Nhu Cầu Của Maslow – Wikipedia Tiếng Việt
-
Thuyết Của David Mc. Clelland - Dân Kinh Tế
-
Các Học Thuyết Về Nhu Cầu - Góc Học Tập
-
[PDF] Quản Trị Nhân Sự - Thế Giới Luật
-
[PDF] 7. Luan Van 2 - Trường Đại Học Lao động Xã Hội