Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn - 123doc
Có thể bạn quan tâm
Nicolaus Copernicus Nicolaus Copernicus 1473 – 1543 - nhà thiên văn học vĩ đại người Ba Lan, ngườiđầu tiên đề xuất học thuyết Nhật tâm coi Mặt trời là trung tâm của Thái dương hệ, các hà
Trang 1TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI KHOA SƯ PHẠM KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Trang 2MỤC LỤC
Trang 3Tiếp theo các cuộc thập tự chinh, các thương gia tìm những con đường mới để đi đếnbuôn bán với các quốc gia giàu có phương đông Trong những cuộc thám hiểm tìm đườngnhư vậy, Colombus đã phát hiện ra châu Mĩ (1492), Magellan đi vòng quanh Trái Đất (1519– 1522) và chứng minh bằng thực nghiệm là Trái Đất tròn
Sự phát triển kinh tế đó đòi hỏi phải xây dựng một nền khoa học mới đủ khả nănggiải quyết những vấn đề do thực tiễn đề ra Nhiều nhà khoa học đã đoạn tuyệt với phươngpháp kinh viện và tìm đường trở về với những tư tưởng tự do thời cổ Hy Lạp (phong tràoPhục Hưng), đề cao lí trí tự do của con người, đề cao thực nghiệm trong khoa học, khôngthừa nhận uy quyền và sự bảo trợ của giáo hội thiên chúa giáo
II Các nhà vật lý học nổi bật
2.1 Nicolaus Copernicus
Nicolaus Copernicus (1473 – 1543) - nhà thiên văn học vĩ đại người Ba Lan, ngườiđầu tiên đề xuất học thuyết Nhật tâm (coi Mặt trời là trung tâm của Thái dương hệ, các hànhtinh khác quay xung quanh Mặt trời và tự xoay quanh mình), làm đảo lộn học thuyết củaPtolemy được giáo hội Thiên chúa giáo chấp nhận cho đến thời điểm bấy giờ
2.1.1 Tiểu sử
Nicolaus Copernicus sinh ngày 19 tháng 2 năm 1473 ra tại thành phố cảng Torun, BaLan (Cảng Torun xinh đẹp và sầm uất nằm trên bờ sông Vistuyn, cách bờ biển Baltic chừng
Trang 4100 dặm) trong một gia đình thương gia và công chức Cha của Copernicus một nhà buônđồng giàu có và là một công dân được kính trọng ở Torun.Nhưng ông bị mồ côi cha khi vừatròn 10 tuổi.Mẹ ông, Barbara Watzenrode, có lẽ đã chết trước cha ông và ít được biết tới.Người cậu đằng mẹ của Copernicus là Łukasz Watzenrode, một giáo sĩ và sau này là Giámmục ủy viên Địa hạt Giám mục Warmia, nuôi dạy ông và ba anh chị em ruột sau khi cha mẹ
họ qua đời Địa vị của người cậu đã giúp Copernicus có một nghề nghiệp trong nhà thờ, chophép ông dành thời gian để nghiên cứu thiên văn Copernicus có một người anh và hai chị
em gái:
• Andrzej trở thành giáo sĩ ở Frombork
• Barbara trở thành một tu sỹ dòng thánh Benedict
• Katarzyna cưới một nhà buôn và là ủy viên hội đồng thành phố, Bartłomieja Gertnera
Năm 1491, Copernicus vào Học viện Kraków (hiện là Trường đại học Jagiellonian)
có thể ông đã làm quen với thiên văn học lần đầu tiên ở đây, và được Wojciech Brudzewskidạy dỗ Môn khoa học này nhanh chóng cuốn hút ông, như được ghi lại trong những cuốnsách của ông mà sau này những người Thụy Điển đã chiếm lấy làm chiến lợi phẩm vào thời
kì "Potop" ("đại nạn Ba Lan") và mang về thư viện trường đại học Uppsala) Sau bốn năm ởKraków, và một giai đoạn ngắn ở nhà tại Torun, ông đến Ý, nơi ông học Luật và Y Học tạicác trường đại học ở Bologna và Padua Ông cậu Giám mục tài trợ chi phí cho việc học tậpcủa ông và hy vọng ông cũng sẽ trở thành một Giám mục.Tuy nhiên, khi đang học luật giáo
sĩ và luật dân sự tại Ferrara, Copernicus đã gặp nhà thiên văn học nổi tiếng Domenico MariaNovara da Ferrara.Copernicus tham dự các buổi thuyết trình của ông và trở thành học trò vàngười trợ tá của ông Những quan sát đầu tiên của Copernicus được tiến hành năm 1497,cùng với Novara, chúng được ghi lại trong cuốn sách kinh điển của ông Về chuyển độngquay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium)
Năm 1497, cậu của Copernicus được phong chức Giám mục Warmia, và Copernicusđược bổ nhiệm làm giáo sĩ ở nhà thờ Frombork, nhưng ông ở lại Ý để đợi Lễ kỷ niệm vĩ đại(Roman Jubilee) vào năm 1500.Copernicus đến Roma, nơi ông đã quan sát thấy một hiệntượng nguyệt thực và giảng một số bài về thiên văn học và toán học.Vì vậy ông chỉ có thểtới thăm Frombork vào năm 1501 Ngay khi vừa tới nơi, ông đã yêu cầu và nhận được giấyphép quay trở lại Ý để hoàn thành các nghiên cứu tại Padua (với Guarico và Fracastoro) vàtại Ferrara (với Giovanni Bianchini), nơi ông nhận được bằng tiến sĩ luật giáo sĩ năm 1503.Người ta cho rằng chính Padua là nơi ông đã gặp những đoạn văn của Cicero và Plato về
Trang 5quan niệm cổ đại về chuyển động của Trái Đất, và từ đó hình thành trực giác đầu tiên về lýthuyết của chính mình trong tương lai Những lần quan sát và những ý tưởng thích hợp cho
lý thuyết của ông đã bắt đầu năm 1504
Sau khi hoàn thành việc nghiên cứu, ông rời Ý đến sống và làm việc ởFrombork.Một khoảng thời gian trước khi quay trở lại Warmia, ông đã nhận được một vị trí
ở Học viện Nhà thờ của Hội Thánh Linh (Holy Cross) ở Wrocław, Silesia, và ông đã từ chứcnày vài năm trước khi chết.Mặc dầu trong cả phần đời còn lại, ông đã thực hiện các quan sát
và tính toán thiên văn nhưng chúng chỉ diễn ra trong giờ nghỉ và không được coi là nghềnghiệp của ông
Copernicus đã làm việc nhiều năm với Nghị viện Phổ về cải cách triều đình và xuấtbản một số nghiên cứu về giá trị tiền tệ; với tư cách Thống đốc Warmia, ông tách thuế vàthương mại ra khỏi tư pháp Chính lần này (bắt đầu năm 1519, năm sinh của ThomasGresham là năm Copernicus tiến tới với một trong những sự lặp lại sớm nhất về lý thuyếtđược gọi là Luật Gresham Trong những năm này, ông cũng phải đi lại nhiều để giải quyếtcác công việc hành chính và ngoại giao, cho Tổng Giám mục Warmia
Năm 1514 ông viết Commentariolus — một bản viết tay ngắn nói về những ý tưởngcủa ông về những lý thuyết Nhật tâm - chỉ để trao đổi với những người bạn Sau đó ông tiếptục thu thập các bằng chứng cho một nghiên cứu chi tiết hơn Trong thời gian chiến tranhgiữa Quân kị sĩ Teutonic và Vương quốc Ba Lan (1519–1524) Copernicus đã bảo vệ thànhcông Olsztyn với cương vị chỉ huy các lực lượng hoàng gia bị bao vây bởi các lực lượng củaAlbert xứ Brandenburg
Copernicus qua đời ngày 24 tháng 5 năm 1543, hưởng thọ 70 tuổi
2.1.2 Thành tựu
Từ năm 1503 đến 1510, Copernicus sống trong lâu đài Giám mục của cậu ông, thamgia hành chính của địa phận Ông in quyển sách đầu tiên, dịch từ tiếng Latin quyển sách vềđạo đức của một tác giả xứ Bizance thuộc thế kỷ thứ VII, Theophylactus de Simocatta
Từ 1507 đến 1515, ông hoàn thành bài về Thiên văn: De Hypothesibus MotuumCoelestium a se Constitutis Commentariolus được biết dưới tựa đề Commentariolus mà mãiđến thế kỷ thứ XIX mới được in Trong công trình này, ông đưa ra những nguyên tắc củathuyết Thiên văn mới của ông: thuyết Nhật tâm (Héliocentrique) - được coi là giả thuyết
Trang 6hiện đại và từ đó là khoa học hiện đại, khuyến khích các nhà thiên văn trẻ, các nhà khoa học
và các học giả có thái độ hoài nghi với những giáo điều đã tồn tại từ trước
Sau năm 1512, ông tham dự vào công việc sửa đổi lịch (1515)
Năm 1517 ông viết một bài về tiền tệ và bắt đầu tác phẩm chính của ông: DeRevolutionibus Orbium Coelestium (Chuyển động quay của những thiên thể) Công trìnhnày ông hoàn tất từ năm 1530 nhưng mãi đến năm 1543 mới được in tại Nuremberg
2.1.3 Hệ nhật tâm
Các lý thuyết có sớm hơn:
Trước đó, đã có nhiều tài liệu viết về lý thuyết hệ nhật tâm
• Những dấu vết đầu tiên về một mô hình nhật tâm được tìm thấy trong nhiều bản Kinh
Vệ Đà bằng tiếng Phạn được viết ở Ấn Độ cổ trước thế kỷ thứ 7 TCN: các cuốn VệĐà,Aitareya Brahmana và Shatapatha Brahmana Bài luận Vishnu Purana bằng tiếng Phạn ởthế kỷ thứ 1 viết kỹ về nhiều khái niệm nhật tâm
• Philolaus (thế kỷ thứ 4 TCN) cũng có một trong những giả thuyết đầu tiên về chuyểnđộng của Trái Đất, có lẽ có cảm hứng từ các lý thuyết của Pythagoras về Trái Đất hình cầu
• Aristarchus xứ Samos vào thế kỷ thứ 3 TCN đã phát triển một số lý thuyết HeraclidesPonticus (nói về chuyển động của Trái Đất trên trục của nó) từ đó cho thấy, đối với những gìtừng được biết, nó là mô hình chính thức đầu tiên về một hệ nhật tâm Tác phẩm của ông về
hệ nhật tâm nay đã thất truyền, do đó người ta chỉ có thể đoán ông đã đi tới những kết luận
đó như thế nào Theo Plutarch, thì có lẽ việc đáng chú ý nhất là một người cùng thời vớiAristarchus đã buộc tội ông là nghịch đạo khi "bắt Trái Đất quay"
• Aryabhata ở Ấn Độ đã đi trước khám phá của Copernicus 1000 năm và đã thiết lậpmột mô hình nhật tâm mà trong đó Trái Đất quay quanh trục của nó và chu kỳ của Trái Đất
và các hành tinh được xác định theo Mặt Trời đứng yên Ông cũng là người đầu tiên pháthiện ra rằng ánh sáng từ Mặt Trăng và các hành tinh khác là phản chiếu lại ánh sáng MặtTrời, và rằng các hành tinh quay theo một quỹ đạo hình elíp quanh Mặt Trời
• Tác phẩm của những nhà thiên văn học Ả Rập thế kỷ thứ 14 ibn al-Shatir cũng chứađựng những khám phá tương tự của Copernicus, và người ta cho rằng Copernicus có thể đã
bị ảnh hưởng từ đó
Copernicus đã trích dẫn Aristarchus và Philolaus trong một bản chép tay đầu tiên củacuốn sách của ông hiện vẫn còn, cho rằng: "Philolaus tin vào sự chuyển động của Trái Đất,
Trang 7và một số người nói rằng Aristarchus xứ Samos ủng hộ ý kiến này." Vì một số lý do cònchưa biết, ông đã bỏ đoạn này trước khi xuất bản cuốn sách.
Ý tưởng đến với Copernicus không phải từ việc quan sát các hành tinh, mà từ đọcsách của hai tác giả đó.Trong Cicero ông đã thấy trích dẫn lý thuyết của Hicetas.Plutarchcũng trích dẫn từ Pythagoras, Heraclides Ponticus, Philolaus và Ecphantes.Các tác giả đó đã
đề xuất một Trái Đất chuyển động quanh một Mặt Trời ở trung tâm.Copernicus không coi ýtưởng của mình có nguồn gốc từ Aristarchus như đã được nói đến ở trên
Khi cuốn sách của Copernicus được xuất bản, nó có một lời nói đầu, được đưa lên
mà không có ý kiến của ông, của nhà thần học Andreas Osiander Giáo sĩ này cho rằngCopernicus viết cuốn sách về nhật tâm cho rằng Trái Đất chuyển động chỉ là một giả thuyếttoán học, chứ không phải cho rằng đó là khả năng hay thậm chí là sự thật Điều này hiểnnhiên được viết ra để làm dịu đi phản ứng tôn giáo chống lại cuốn sách, nhưng không cóbằng chứng cho thấy Copernicus đã coi hình thức nhật tâm chỉ đơn giản thích hợp về mặttoán học, không liên quan tới thực tế Các lý thuyết của Copernicus phủ nhận lời giải thíchMặt Trời quay quanh Trái Đất trong Cựu Ước (Joshua 10:13)
Có tranh cãi rằng trong khi phát triển toán học về hệ nhật tâm, Copernicus đã sửdụng không chỉ toán học Hy Lạp mà cả toán học và thiên văn học truyền thống Hồi giáo,đặc biệt là các tác phẩm của Nasir al-Din Tusi, Mu'ayyad al-Din al-‘Urdi và ibn al-Shatir
Lý thuyết của Copernicus
Lý thuyết chính của Copernicus được xuất bản trong cuốn, De revolutionibus orbiumcoelestium (Về chuyển động quay của các thiên thể) vào năm ông mất, 1543, mặc dù ông đãtiến gần tới lý thuyết này từ nhiều thập kỷ trước
Cuốn sách này đánh dấu sự chấm dứt của thuyết địa tâm (và thuyết nhật tâm) coi TráiĐất ở trung tâm vũ trụ.Copernicus cho rằng Trái Đất là một hành tinh quay xung quanh MặtTrời một vòng trên một năm, và quay quanh trục một vòng trên một ngày.Ông đã khám pháđược vị trí chính xác của những hành tinh đã được biết và giải thích sự tiến động của nhữngđiểm phân một cách chính xác bởi sự thay đổi vị trí một cách chậm chạp của trục quay củaTrái Đất Ông cũng đưa ra giải thích rõ ràng về nguyên nhân gây ra các mùa: rằng trục củaTrái Đất không vuông góc với hành tinh trên quỹ đạo của nó Ông cộng thêm vào sự chuyểnđộng của Trái Đất, theo đó trục của nó được giữ hướng về đúng một điểm trên bầu trời trong
Trang 8suốt cả năm; từ thời Galileo Galilei, đã có thừa nhận rằng Trái Đất "không" giữ nguyên mộthướng khi nó chuyển động.
Copernicus cũng thay thế những vòng cân bằng của Ptolemy bằng nhiều ngoạiluân.Đây là nguồn chính cho rằng hệ của Copernicus thậm chí còn có nhiều ngoại luân hơn
hệ của Ptolemy.Với sự thay đổi này, hệ của Copernicus chỉ có một kiểu chuyển động trònduy nhất, sửa chữa lại những điều mà ông cho là không chính xác trong hệ củaPtolemy.Nhưng khi Copernicus đặt Mặt Trời vào vị trí trung tâm của mặt cầu của trời, ôngkhông cho nó là trung tâm của vũ trụ mà chỉ ở gần nó
Về mặt thực nghiệm, hệ của Copernicus không tốt hơn kiểu của Ptolemy Copernicusnhận thức được điều này và không thể đưa ra "bằng chứng" quan sát trong cuốn sách củamình, thay vào đó ông lại dựa vào những tranh luận về một hệ chính xác và đúng đắn hơn
Từ khi cuốn sách được xuất bản tới khoảng năm 1700, rất ít nhà thiên văn tin vào hệ củaCopernicus, mặc dù cuốn sách đó được truyền bá khá rộng (khoảng 500 bản sách được cho
là vẫn còn tồn tại, đó là một con số lớn so với tiêu chuẩn khoa học của thời đó) Tuy nhiên,nhiều nhà thiên văn học, đã chấp nhận một số khía cạnh của lý thuyết so với những thuyếtkhác, và hệ của ông đã có ảnh hưởng lớn đối với những nhà khoa học về sau này nhưGalileo và Johannes Kepler, những người đã chấp nhận, và đấu tranh cho nó và (đặc biệt làtrường hợp của Kepler) tìm cách cải thiện nó Những quan sát của Galileo về các tuần củaSao Kim đã cho thấy bằng chứng quan sát thực nghiệm đầu tiên cho lý thuyết củaCopernicus
Hệ của Copernicus có thể được nói gọn trong bảy đề xuất, như chính Copernicus đãtập hợp trong một Compendium của cuốn De revolutionibus orbium coelestium được tìmthấy và xuất bản năm 1878
Bảy phần của lý thuyết Copernicus là:
1. Không có một trung tâm của vũ trụ
2. Trung tâm của Trái Đất không phải là trung tâm vũ trụ
3. Trung tâm của vũ trụ gần Mặt Trời
4. Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời là không thể nhận thấy nếu so sánh với khoảng cáchtới các ngôi sao
5. Chuyển động quay của Trái Đất giải thích cho chuyển động thấy hàng ngày của các ngôi sao
6. Những chuyển động quan sát thấy hàng năm của Mặt Trời được gây ra khi Trái Đất chuyểnđộng quanh Mặt Trời
Trang 97. Chuyển động thụt lùi của các hành tinh được gây ra bởi chuyển động của Trái Đất, màngười quan sát đứng trên nó
Về chuyển động của các thiên thể
Tác phẩm chính của Kopernik, Về chuyển động của các thiên thể (1543), là thànhquả của hàng thập kỷ lao động Nó có một lời mở đầu vô danh do Andreas Osiander, mộtnhà thần học và là bạn của Kopernik viết, cho rằng lý thuyết này, bị coi là một công cụ chophép có được những tính toán đơn giản và chính xác hơn, không có ứng dụng bên ngoàiphạm vi thiên văn học Cuốn sách thực của Kopernik được bắt đầu bởi một bức thư củangười bạn ông (lúc ấy đã qua đời) là Nicola Schönberg, Tổng Giám mục Capua, thúc giụcKopernik xuất bản lý thuyết của mình Sau đó, trong một bài mở rất dài, Kopernik dànhtặng cuốn sách cho Giám mục Paul III, giải thích động cơ bên ngoài trong việc viết cuốnsách vì khả năng còn hạn chế của các nhà thiên văn học trước đó trong việc đưa ra một lýthuyết đầy đủ về các hành tinh, và chỉ ra rằng nếu hệ của ông làm tăng độ chính xác của các
dự đoán thiên văn học nó sẽ cho phép Nhà thờ phát triển một loại lịch chính xác hơn Lúc
ấy, việc cải cách lịch Julian được coi là cần thiết và là một trong những nguyên nhân chínhkhiến nhà thờ trợ cấp cho thiên văn học
Tác phẩm này được chia làm sáu cuốn:
1. Cái nhìn chung về lý thuyết nhật tâm, và một sự trình bày ngắn gọn về ý tưởngcủa ông về thế giới
2. Đa số là lý thuyết, trình bày các nguyên tắc của thiên văn hình cầu và một danhsách các ngôi sao (là một nền tảng cho những tranh cãi phát triển lên trongnhững cuốn sách tiếp theo)
3. Đa phần dành cho những chuyển động thực tế của Mặt Trời và những hiện tượngliên quan
4. Miêu tả Mặt Trăng và những chuyển động quỹ đạo của nó
5. Giải thích cụ thể về hệ thống mới
6. Trình bày cụ thể về hệ thống mới
Dù những ý kiến này có phải là "cách mạng" hay "bảo thủ" chúng là chủ đề tranhluận cho tới cuối thế kỷ 20 Thomas Kuhn đã cho rằng Copernicus đưa "một số tính chấtthiên văn học vốn trước đó được cho là của Trái Đất sang cho Mặt Trời." Một số nhà sử họckhác từ đó cho rằng Kuhn đã đánh giá thấp cái gọi là "cách mạng" của công trình củaCopernicus, và nhấn mạnh khó khăn mà Copernicus có thể gặp phải khi đưa lý thuyết thiênvăn học của mình ra mà chỉ đơn giản dựa vào hình học, mà không có bằng chứng thựcnghiệm
Trang 10Lý thuyết của Copernicus có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử văn minh loàingười Nhiều tác giả cho rằng chỉ hình học của Euclid và vật lý của Isaac Newton và Thuyếttiến hoá của Charles Darwin là có thể có ảnh hưởng ở mức so sánh được đối với văn hoáloàingười nói chung và khoa học nói riêng.
Nhiều ý nghĩa đã được gán cho lý thuyết của Copernicus một phần từ ý nghĩa khoahọc đúng đắn của nó Tác phẩm của ông ảnh hưởng tới cả tôn giáo và khoa học, giáo điềucũng như tự do của vấn đề khoa học Vị trí của Copernicus với tư cách là một nhà khoa họcthường được so sánh với Galileo Galilei
Công trình của Copernicus phản đối giáo điều tôn giáo được chấp nhận sau đó: nó cóthể cho thấy rằng không cần thiết phải có một (Đức Chúa) tuyệt đối trao linh hồn, quyền lực
và cuộc sống cho thế giới và con người - khoa học có thể giải thích mọi điều được cho làcủa Chúa
Tuy nhiên, chủ nghĩa của Copernicus cũng mở một lối đi cho tính nội tại, quan điểmcho rằng một lực lượng siêu nhiên, hay một vị thần thánh, thâm nhập vào mọi vật tồn tại -một quan điểm từ đó được phát triển thêm trong nhiều triết học hiện đại Chủ nghĩa nội tạicũng dẫn tới chủ nghĩa chủ quan: với lý thuyết rằng có thể nhận thức rằng những tạo vậtthực tế, rằng không có thực thể tồn tại độc lập với nhận thức Vì thế một số người cho rằngChủ nghĩa Copernicus đánh đổ những nền tảng của khoa học Trung Cổ và siêu hình học
Một hệ quả của Chủ nghĩa Copernicus là quy luật khoa học không cần thiết phải phùhợp với thực tế.Sự đối nghịch này với hệ của Aristoteles vốn đặt cao tầm quan trọng củanguồn gốc của hiểu biết thông qua các giác quan
Khái niệm của Copernicus đánh dấu một sự cách mạng khoa học.Thực vậy một sốcho rằng nó đứng ngang bằng với sự khởi xướng của "cuộc cách mạng khoa học".Immanuel Kant mang tính biểu tượng của cách mạng do Copernicus khởi xướng - chủ nghĩaduy lý ưu việt của nó - công nhận rằng chính sự hợp lý của con người là cách làm sáng tỏ vềnhững hiện tượng quan sát được Những nhà triết học gần đây cũng tìm thấy những giá trịtriết học trong chủ nghĩa Copernicus
2.2.Giordano Bruno
Giordano Bruno (1548 – 1600) nhà thiên văn học người Ý, được biết đến với các lýthuyết mở rộng hơn nữa thuyết Nhật tâm của Nicolaus Copernicus.Ông được coi là tấmgương đầu tiên hy sinh vì khoa học
Trang 112.2.1 Tiểu sử
Giordano Bruno sinh năm 1548 tại Nola, nước Ý Khi mới sinh ra, ông được đặt tên
là Filippo Bruno Bruno mồ côi từ nhỏ, được tu viện thuộc dòng Dominic nuôi dưỡng, cho
ăn học và trở thành linh mục
Ngay khi học tập ở tu viện, Bruno đã thoáng có những ngờ vực về những sách Giáo
lý của đạo Kito.Tình cờ một hôm, ông tìm thấy trên giá sách của tu viện cuốn Về sự chuyểnđộng của các thiên thể của Nicolaus Copernicus Ông rất khâm phục nhà bác học thiên tàingười Ba lan đó và ông đã phát triển thêm tư tưởng của Copernicus
Do có những tư tưởng tiến bộ, ông bị Tòa án tôn giáo truy sát và buộc phải trốn khỏinước Ý năm 1576, đi phiêu bạt sang nhiều nước châu Âu
Năm 1592, một tên quý tộc ở Venedia câu kết với giáo hội giả vờ viết thư mời ôngtrở về quê hương để dạy học cho hắn và sau đó báo cho toà án giáo hội đến bắt ông Ông bịbắt vào ngày 23 tháng 5 năm 1952 và bị giam cầm suốt tám năm sau đó Giáo hội dùng cựchình để buộc ông từ bỏ quan điểm của mình, nhưng ông kiên quyết giữ vừng chân lý
Năm 1593, Bruno bắt đầu bị Tòa án dị giáo Roma xét xử do việc chối bỏ một số giáo
lý Công giáo nền tảng (như về Ba Ngôi, thiên tính của Đức Kitô, sự đồng trinh của Maria,
sự biến đổi bản thể) Quan điểm phiếm thần của ông cũng là một vấn đề bị lưu ý nghiêmtrọng Tòa án đã kết tội và ông bị hỏa thiêu tại Roma vào ngày 17 tháng 2 năm 1600
Sau khi chết, ông trở nên nổi tiếng, đặc biệt là với các nhà bình luận thế kỷ 19 và đầuthế kỷ 20 coi ông là một tấm gương hy sinh vì khoa học
2.2.2 Thành tựu
Tổng quan
Nói chung, học thuyết về triết học của Bruno kế thừa những tư tưởng củaDemocritus, Epicurus, Heraclitus, Nó là sản phẩm của chủ nghĩa duy vật thời đại Phụchưng và sự tiếp nối, phát triển những gì mà Copernicus để lại trong Điều kiện mới
Thế giới quan
Đối với Bruno, thế giới này là thế giới vật chất, vô tận và vĩnh viễn.Hệ Mặt Trời chỉ
là một trong vô vàn các hệ thống của vũ trụ.Trái Đất chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ baola.Như vậy, thế giới của nhà triết học Ý là một vũ trụ không có điểm dừng.Nó đã vượt quathế giới của Copernicus bởi nhà thiên văn học vĩ đại này cho rằng thế giới có giới hạncủa
Trang 12Mặt Trời cũng có chuyển động của riêng mình và Khí quyển xoay chuyển cùng trái đất.Nếu ta nhìn vào hoàn cảnh khi đó, ta thấy ý kiến của Bruno có ý nghĩa như thế nào Cần biếtrằng đến thế kỉ 18, cơ bản là con người mới tin rằng Trái Đất quay quanh Mặt Trời Tức là ýkiến Trái Đất có chuyển động đã bị hoài nghi trong một thời gian dài.Nếu chuyển động củaTrái Đất còn bị nghi ngờ như thế thì mấy ai suy nghĩ đến xem Mặt Trời và bầu khí quyển cóchuyển động hay không.
Bruno cũng đi theo trào lưu chống lại sự thống trị về tư tưởng của tôn giáo khi chorằng các hiện tượng tự nhiên có nguồn gốc từ vật chất Vật chất tự thiết định mình bằng sựthống nhất giữa nguyên nhân và cơ sở tồn tại của nó.Cơ sở tồn tại của vật chất nằm ngaytrong chính vật chất và đây là thứ thiết định nên kết cấu bên trong của vật chất, còn nguyênnhân thì thiết định cấu tạo bên ngoài Bruno chỉ ra rằngː
“Cái lúc đầu là hạt lúa mì thì trở thành cây lúa mì, sau đó là bông lúa mì, sau đó là
bánh mì, dịch ăn, máu, tinh dịch, động vật, phôi thai, con người, xác; sau đó làđất và đá.
Do vậy, ở đây chúng ta nhận thức được một cái biến hóa về thành vạn vật, nhưng tự nó luôn luôn là bất biến Như vậy thực sự thì không có gì bất biến, vĩnh cửu và xứng đáng với cái tên gọi bản nguyên, ngoài một mình vật chất Với tư cách là cái tuyệt đối, vật chất bao hàm trong mình mọi hình thức mà nó thể hiện qua đó, không phải từ ai khác nào đó, mà sản sinh
ra từ chính bản thân mình Một cái gì chết đi ở đâu đó, thì đó chỉ là sự ra đời của cuộc sống mới”
Tuy còn khiếm khuyết khi cho rằng vật chất hữu sinh ra đời trước vật chất vô sinh (tabiết rằng thực tế phải là ngược lại), Bruno cũng có một ý kiến đúng đắnː khi giải thích cáchiện tượng tự nhiên, đừng đi tìm các lực lượng tôn giáo nào đó mà hãy tìm ngay trong chínhvật chất
Bruno còn nêu ra phạm trù cái duy nhất.Đối với phiếm thần luận, đó là Thượng đếtồn tại dưới dạng tự nhiên.Trên thực tế, Thượng đế chỉ tồn tại trên danh nghĩa vì mọi sự vậtchỉ là những biểu hiện cụ thể của cái duy nhất.Nếu sự vật biến đổi không ngừng thì cái duynhất lại cho thấy sự bất biến Ở đây, tuy có màu sắc của chủ nghĩa đa thần, Bruno đã tỏ ramình là người đối lập với tôn giáo cầm quyền khi đó vì rõ ràng, tư tưởng của ông mang màusắc duy vật "Tự nhiên là Thượng đế trong mọi vật" và nó không được sáng tạo bởi bất kỳai
Trang 13Phương pháp luận
Bruno có những đóng góp không hề nhỏ cho sự phát triển của phép biện chứngːÔng đưa ra tư tưởng về sự phù hợp giữa các mặt đối lập.Bruno cho rằng thế giới là
sự phù hợp giữa cái tối thiểu và cái tối đa, cái này mất đi thì cái khác sẽ ra đời Ông viếtː
“Nếu suy nghĩ một cách chín chắn thì chúng ta sẽ thấy rằng tiêu diệt chẳng qua chỉ là phát
sinh, phát sinh chẳng qua chỉ là tiêu diệt Tình yêu là lòng căm thù, lòng căm thù là tình yêu.Rốt cục, căm thù là cái đối lập tức căm thù là cái thứ hai Do vậy, về mặt thực thể và gốc rễ, tình yêu và căm thù, hữu nghị và thù hằn là cùng một cái ”
Như vậy, các mặt đối lập không chỉ bài trừ lẫn nhau mà còn thống nhất với nhau.Qua trình tiêu diệt và phát sinh là hai quá trình độc lập, nhưng tiêu diệt chỉ đơn thuần làsựchuyển hóa từ cái này sang cái khác Trong quá trình nhận thức, con người chỉ nhận thứcđược một mặt trong mối quan hệ của nó với những cái đối lập với nó Từ sự đối lập với cămthù, ta định nghĩa thế nào là tình yêu và ngược lại
Kế thừa tư tưởng của Heraclitus, Bruno cho rằng tất cả mọi thứ đều tồn tại trong cáibiến đổi.Tư tưởng về phát triển là sự tiếp nối nguyên tắc về sự phù hợp giữa các mặt đối lập
Tuy nhiên, khi giải thích về vận động, nhà triết học lại cho thấy tư tưởng duy tâm khicho rằng linh hồn là thứ tạo ra lực đẩy Nó điều khiển mọi sự vật phát triển theo quy luật tấtđịnh
Nghiên cứu về đơn tử
Đây là học thuyết được Bruno xây dựng trên cơ sở học thuyết về nguyên tử củaDemocritus và toán học.Ông chỉ ra rằng về mặt vật lý, học thuyết này có giá trị vì nguyên tử
là cái tối thiểu (Đối với Bruno, có 3 loại tối thiểuː điểm trong toán học, nguyên tử trong vật
lý và đơn tử trong triết học).Cái tối thiểu phải phù hợp với cái tối đa.Cái tối đa là giới tựnhiên vô tận với tất cả các hình thức của nó.Vậy cái tối thiểu sẽ là đơn tử.Đơn tử là là phần
tử nhỏ nhất của triết học, có khả năng chứa đựng tinh thần.Nó là căn nguyên của tất cả các
sự vật trong vũ trụ Bruno có viếtː
“Cái được sản sinh ra, cái sinh ra cái khác và cái là nguồn gốc của sự sản sinh bao
giờ cũng về một thực thể Nhờ đó, người ta không lấy làm lạ khi Heraclitus cho rằng mọi vật thật ra là một khối thống nhất, nhờ biến đổi nên khối thống nhấ bao hàm tất cả. ”
Trang 14Nhận thức luận
Bruno tỏ ra cùng quan điểm với những đồng nghiệp đương thời khi khẳng định giá trịcủa con người được thể hiện thông qua nhận thức.Nhận thức là hướng tới chân lý, nhưngchỉ có một chân lý duy nhất là chân lý của triết học và khoa học.Còn nếu có cái thứ hai thìthật là hoang đường, phi lý
Đối với ông, tự nhiên là đối tượng của nhận thức.Nhà triết học đã đưa ra nguyên tắcnghi ngờ trong nhận thức.Theo quan điểm của Bruno, không nên dựa vào quá khứ khi phánđoán sự vật mà phải dựa vào lý trí của thợc nghiệm để đảm bảo tính xác thực của tri thức.Tri thức chân chính không phải là thứ của uy quyền và lòng tin mù quáng
Bruno đã chia quá trình nhận thức thành 3 giai đoạnː
• Cảm tínhː Cảm giác sẽ là điều cần thiết chúng ta tiếp nhận chủ thể Tuy nhiên, đó chỉ là bềngoài của chủ thể đó
• Lý tríː Lúc này, con người đã phát hiện ra chân lý Tuy nhiên, chân lý mới chỉ là một phầnthôi, chưa bộc lộ hết Nó giống như "ánh mặt trăng được phản chiếu bởi ánh mặt trời"
• Trí tuệ (hay còn gọi là intellectus)ː Lúc này chúng ta mới biết được chân lý đầy đủ là gì.Chính vì vậy, đây là đỉnh cao của nhận thức
Dù có hạn chế, Bruno đã cho thấy nhiều điểm hợp lý trong nghiên cứu về nhận thức luận.Về
cơ bản, nhận thức luận của ông mang tính chất duy vật
có một em trai song sinh (chết non), một chị gái, Kirstine Brahe, và một em gái, SophieBrahe Chính cô em gái Sophie sau này đã trở thành người phụ tá đắc lực cho Tycho Brahetrong các việc quan sát thiên văn
Thời trẻ, Tycho Brahe nhắm theo ngành khoa học tại Đại học Rostock, nhưng cha lạimuốn chàng phải học ngành luật học và ngoại giao Vì vậy, năm 1559 chàng phải bắt đầu
Trang 15học luật tại Đại học Copenhagen, rồi Đại học Leipzig (năm 1560), nhằm tạo một kiến thứccăn bản đầy đủ cho một nhà quý tộc trẻ để nắm giữ một chức vụ trong triều đình thời đó.Tuy nhiên, chàng đã lén học toán học, thiên văn học, thuật luyện giả kim và chiêm tinh học.Sau đó Tycho Brahe sang học tại Đại học Wittenberg vào các năm 1565-66, rồi Đại họcRostock (Đức) và cuối cùng là Đại học Bâle (Thụy Sĩ).
Năm 1572, Tycho Brahe yêu và kết hôn với Kirstine Jørgensen, con gái mục sưJørgen Hansen Theo phong tục thời đó khi một nhà quý tộc kết hôn với một phụ nữ thườngdân, thì người vợ và các con không được hưởng tước hiệu quý tộc, cũng không được quyềnthừa kế sản nghiệp của người cha Họ có 8 người con, trong đó 2 người chết non, còn lại 6người theo cha mẹ sang Praha sống và không trở về Đan Mạch Bà vợ cũng qua đời tạiPraha năm 1604, sau khi chồng chết 3 năm
Khi vua Frederik II băng hà thì Tycho Brahe cũng mất sự tài trợ, ông gom góp tài sảncùng vợ và các con đi du lịch ít năm ở châu Âu, tới năm 1599 ông định cư tại Praha (nay làthủ đô Cộng hòa Séc) và làm việc với vai trò nhà thiên văn kiêm nhà toán học hoàng giatrong triều đình vua Rudolf II
Vua Rudolf II cho xây 1 trạm quan sát thiên văn trong lâu đài Benátky nad Jizerou,cách Praha khoảng 50 km Tycho Brahe làm việc tại đây 1 năm, sau đó Rudolf II yêu cầuTycho Brahe trở lại Praha cho tới khi chết
Ngày 13 tháng 10 năm 1601, sau khi dự tiệc tại nhà người bạn Peter Vok vonRosenberg, Tycho Brahe bị bệnh nặng (có lẽ tuyến tiền liệt bị nở phồng ra), ông ta tự điềutrị bệnh bằng một loại thuốc có hàm chất thủy ngân trong 11 ngày, nhưng không khỏi.Tycho Brahe từ trần ngày 24 tháng 10 năm 1601 và được an táng trong Nhà thờ Đức BàTýnem, gần đồng hồ thiên văn ở Praha (Một thuyết khác cho là ông ta bị đầu độc Ngàynay người ta đã làm một cuộc xét nghiệm râu của ông ta và đã tìm ra một lượng chì và thủyngân khá cao.)
2.3.2 Thành tựu
Khám phá siêu tân tinh
Trở về Đan Mạch năm 1570, Tycho Brahe tiếp tục nghiên cứu thiên văn và ngày 11tháng 11 năm 1572, Tycho Brahe khám phá ra một sao mới trong chòm sao Cassiopeia -cũng có độ sáng bằng Sao Kim - (nay là sao SN1572, cách Trái Đất 7.500 quang niên)
Trang 16Tycho Brahe đã hô lên "nova, nova" (sao mới, sao mới) Ngày nay người ta gọi loại sao đó
là supernova (siêu tân tinh) loại 1
Việc khám phá này của Tycho Brahe được cho là nguồn cảm hứng cho bài thơ nổitiếng "Al Aaraaf" của thi sĩ Edgar Allan Poe Năm 1998 tạp chí Sky & Telescope đã đăngmột bài của Donald W Olsen, Marilynn S Olsen và Russell L Doescher, đưa ra lý luậnrằng "tân tinh" của Tycho Brahe cũng chính là "ngôi sao từ cực đi về phía Tây" trong tácphẩm Hamlet của văn hào William Shakespeare
Thời đó người ta cho rằng các sao loại kể trên năm trong bầu khí quyển của Trái Đất,Tycho Brahe bác bỏ quan điểm đó Năm 1573 Tycho Brahe xuất bản một quyển sách mangtên De nova stella (các tân tinh), do đó từ nova được dùng để chỉ một ngôi sao đột nhiênsáng chói lên
Lập các đài quan sát thiên văn
Năm 1574, Tycho Brahe dạy nhiều giáo trình chuyên đề Lý thuyết về chuyển độngcủa các hành tinh tại Đại học Copenhagen.Tycho Brahe cho rằng ngành thiên văn sẽ chỉ tiếntriển nhờ vào các cuộc quan sát tỉ mỉ
Sau khi sang Đức lần nữa để gặp nhiều nhà thiên văn, Tycho Brahe nhận lời đề nghịcủa vua Frederik II, trở về Đan Mạch lập đài quan sát thiên văn Vua Frederik II cấp choTycho Brahe đảo Hven (tên Thụy Điển là Ven, một đảo nhỏ giữa Đan Mạch và Thụy Điển,thời đó thuộc Đan Mạch) làm thái ấp và cấp tiền cho để xây đài quan sát thiên văn tạiđó.Khoảng năm 1580 Tycho Brahe cho xây đài quan sát thiên văn, đặt tên là Uraniborg (lâuđài của Urania, tên nữ thần bảo trợ ngành thiên văn trong thần thoại Hy lạp).Đài quan sátnày trở thành đài quan sát thiên văn quan trọng nhất châu Âu thời đó Tuy nhiên TychoBrahe cho rằng đài này còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu, nên đã cho xây thêm một đàithứ hai ngay bên cạnh, đài này hoàn thành năm 1584, được đặt tên là Stjerneborg (lâu đàitinh tú) (Ngày nay chỉ còn hàng rào bao quanh lâu đài Uraniborg, nhưng người ta đã dựnglại Stjerneborg bằng bê-tông và hiện có các bản sao các dụng cụ đo lường của Tycho Brahethời đó.)
Tycho Brahe làm việc quan sát thiên văn rất tỉ mỉ và cẩn thận giữ gìn các dữ liệuquan sát của mình, nên được các đồng nghiệp đương thời coi là một nhà quan sát thiên vănchính xác nhất thời đó (Nên nhớ là thời đó chưa có các thấu kính và mãi năm 1610 mới cókính viễn vọng.)
Trang 17Công trình chính
Công trình chính của Tycho Brahe là phát hiện ra sao chổi C/1577 V1.Sao này làngôi sao đầu tiên mà Tycho Brahe đo được mức thị sai (parallax) của nó.Căn cứ trên cácquan sát của mình, Tycho Brahe đã chứng minh là nó không nằm trong bầu khí quyển củaTrái Đất như quan niệm thời đó Nó vẽ ra một quỹ đạo ê-lip quanh Mặt Trời, phía bên kiaMặt Trăng, cắt các quỹ đạo của các hành tinh khác Tycho Brahe rút ra kết luận là các hànhtinh không dựa trên các thiên cầu vững chắc trong suốt (các thiên cầu tinh thể)
Ngoài ra Tycho Brahe cũng khẳng định là các sao chổi ở cách xa Trái Đất hơn MặtTrăng
Thuyết hệ thống các hành tinh
Mặc dù vẫn theo thuyết địa tâm (geocentrism) của Claudius Ptolemy (khoảng 90 168), Tycho Brahe xét lại 2 điểm quan trọng của mô hình Ptolemy: tính vững chắc của cácthiên cầu và tính lưu chuyển của chuyển động của các tinh tú Johannes Kepler (1571 -1630) - học trò của Tycho Brahe - sau này đã khái quát hóa nguyên tắc là mọi hành tinh đều
-có quỹ đạo elip
Từ các quan sát của mình, Tycho Brahe suy diễn ra một hệ thống gọi là hệ TychoBrahe, mô tả cách nhìn vũ trụ của mình Hệ này xuất hiện sau hệ nhật tâm (heliocentrism)của Nicolaus Copernicus (1473 - 1543).Tycho Brahe bác bỏ thuyết nhật tâm, nhưng đồngthời cũng bác bỏ thuyết địa tâm
Tycho Brahe đưa ra một hệ lai tạp, cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng quay quanh TráiĐất, mọi hành tinh khác quay quanh Mặt Trời
Di cảo
Sau khi chết, Tycho Brahe để lại vô số tài liệu nhật ký quan sát thiên văn, được vuaFrederik III cho đưa từ Praha về Đan Mạch Sau đó Rasmus Bartholin (1625 - 98), giáo sưĐại học Copenhagen và nhà thiên văn Ole Rømer (1644 - 1710) tập hợp và chỉnh lý, nhưngkhông có phương tiện để xuất bản Các tài liệu này lại bị chuyển sang Paris, rồi lại trở vềĐan Mạch, mãi tới thời kỳ 1913 - 29 mới được nhà thiên văn Johannes Ludvig Emil Dreyerxuất bản thành 15 tập
Trang 182.4 Johannes Kepler
Johannes Kepler ( 1571 – 1630), là một nhà toán học, thiên văn học và chiêm tinhhọc người Đức Là một trong những đại diện của cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 17,Kepler được biết đến nhiều nhất bởi các định luật về chuyển động thiên thể mang tên ông
2.4.1 Tiểu sử
Kepler sinh ngày 27 tháng 12 năm 1571 tại thành phố tự trị Weil der Stadt thuộc Đếquốc La Mã Thần thánh (nay là một phần thuộc vùng Stuttgart ở bang Baden-Württembergcủa nước Đức, cách trung tâm Stuttgart 30 km về phía tây) Ông nội ông từng là Thị trưởngthành phố, nhưng lúc Johannes ra đời, gia đình đang rơi vào cảnh khánh kiệt Kepler là con
cả trong số 7 người con của mẹ ông, nhưng ba trong số đó chết yểu Người cha kiếm sốngbấp bênh với nghề lính đánh thuê, rời bỏ gia đình khi Johannes mới năm tuổi và về sau đượccho là đã chết trong Chiến tranh tám mươi năm ở Hà Lan Mẹ ông, con gái một chủ quántrọ, là một thầy thuốc chữa bệnh bằng thảo dược và về sau bị kết án là phù thuỷ
Do đẻ non, Johannes từ bé đã yếu ớt và hay ốm đau Bù lại Kepler thông minh hơnngười và người ta kể lại rằng khi còn nhỏ, cậu thường làm những khách trọ ở nhà ông ngoạingạc nhiên vì khả năng toán học kỳ lạ của mình
Kepler làm quen với thiên văn học từ rất sớm và gắn bó với nó trong cả cuộcđời.Năm 1577, khi mới lên sáu, cậu đã quan sát một siêu sao chổi, và sau này kể lại rằngcậu đã "được mẹ đưa lên một chỗ cao để nhìn nó" Năm 1580, Kepler quan sát một hiệntượng thiên văn khác - nguyệt thực, cậu nhớ là đã "được gọi ra ngoài" để nhìn nó và rằngMặt Trăng "có vẻ khá đỏ" Tuy nhiên bệnh đậu mùa thời trẻ đã giảm thị lực và liệt tay củaKepler, khiến cậu bé phải chú tâm tới toán học nhiều hơn là quan sát các khía cạnh thiênvăn học
Năm 1589, sau khi học qua trường văn phạm, trường tiếng Latinh, và trường dòng ởMaulbronn theo hệ thống giáo dục Lutheran, Kepler bắt đầu theo học tại Đại học Tübingen.Tại đây ông học triết học từ Vitus Müller và thần học từ Jacob Heerbrand (một học trò củaPhilipp Melanchthon ở Wüttenberg người sau trở thành hiệu trưởng của trường Kepler sớmchứng tỏ là một nhà toán học xuất chúng và nổi tiếng có tài chiêm tinh Dưới sự hướng dẫncủa giáo sư toán học Michael Maestlin , ông nghiên cứu cả hệ thống Ptolemy và hệ thốngCopernicus về chuyển động hành tinh và trở thành một người ủng hộ Copernicus từ lúc đó.Trong một buổi tranh luận của sinh viên, Kepler đã lên tiếng bảo vệ thuyết nhật tâm cả từ
Trang 19quan điểm lý thuyết lẫn thần học, khẳng định rằng Mặt Trời là nguồn năng lượng chínhcung cấp hoạt năng trong vũ trụ Dù muốn trở thành một mục sư, gần cuối thời gian học,Kepler được tiến cử vào vị trí giáo viên toán và thiên văn học tại trường dòng Kháng Cách ởGraz, Áo.Ông nhận vị trí đó vào tháng 4, 1594, lúc 23 tuổi.
Ngày 4 tháng 2 năm 1600, Kepler gặp Tycho Brahe và các trợ lý của ông là FranzTengnagel và Longomontanus tại Benátky nad Jizerou (cách Praha 35 km), nơi đài thiên vănmới của Tycho đang được xây dựng Hai tháng sau đó ông lưu lại như một vị khách, phântích một vài số liệu của Tycho về Sao Hỏa; Tycho canh giữ dữ liệu của mình rất cẩn thận,nhưng rất ấn tượng với những ý tưởng lý thuyết của Kepler và dần cho phép ông được tiếpcận nhiều hơn Kepler dự định kiểm chứng lý thuyết của mình trong MysteriumCosmographicum dựa trên dữ liệu Sao Hỏa, nhưng ông đánh giá rằng công trình có thể tốnđến hai năm (vì ông không được phép chép lại dữ liệu để dùng) Với sự giúp đỡ củaJohannes Jessenius, Kepler tìm cách thỏa thuận một chỗ làm chính thức với Tycho, nhưngchuyện này đổ bể sau một cuộc tranh cãi nóng nảy và Kepler rời Praha ngày 6 tháng 4 Haingười sau đó sớm hòa giải và cuối cùng đi đến một thỏa thuận về lương bổng cũng như chỗ
ăn ở, và vào tháng 6, Kepler trở về nhà ở Graz để dọn cả gia đình tới Praha
Ngày 2 tháng 8, sau khi từ chối cải sang Công giáo, Kepler và gia đình bị trục xuấtkhỏi Graz Vài tháng sau, Kepler đưa cả gia đình tới Praha.Trong suốt năm 1601, ông đượcTycho hỗ trợ trực tiếp, giao cho ông việc phân tích các quan sát về hành tinh và viết mộtđoản luận chống lại Ursus (đã quá cố) Vào tháng 9, Tycho đảm bảo cho ông một vị trí cộngtác viên trong một dự án mới mà ông đề xuất với hoàng đế: Bảng Rudolf thay thế cho danhmục sao trước đây của Erasmus Reinhold Hai ngày sau cái chết đột ngột của Tycho vàongày 24 tháng 10 năm 1601, Kepler được bổ nhiệm làm người kế nhiệm ở vị trí nhà toánhọc hoàng gia với trách nhiệm hoàn thành những công trình dang dở của Tycho 11 năm làmnhà thiên văn hoàng gia từ đó sẽ là những năm nghiên cứu sôi nổi nhất cuộc đời ông
Năm 1612, sự bất hạnh đến với gia đình Kepler: người con trai thứ hai của ông quađời rồi sau đó vài tuần lễ, người vợ yêu quý, bà Barbara Kepler cũng qua đời Nhưng chưaphải là hết, vua Rudolf II là người cấp dưỡng cho ông cũng bang hà ít lâu sau đó Vị vuamới không trọng dụng nhà Thiên văn nghèo nàn nữa và Kepler phải nhận một chân giáo sưToán tầm thường tại Linz
Năm 1613, Kepler làm đám cưới với người vợ thứ hai Susanna Reuttinger.Cuộc sống
Trang 20phải viết ra các cuốn sách tử vi để bán lấy tiền Đây là công việc của các nhà chiêm tinh tức
là những người sống nhờ vào lòng mê tín của người khác Đã có lần kelepr than thở mộtcách cay đắng: “Môn chiêm tinh là con đẻ của khoa Thiên văn, vì vậy việc người con đứng
ra nuôi sống bà mẹ sắp chết đói chẳng là hợp lý hay sao?”.Thật là đau khổ khi một nhà báchọc chân chính phải làm một công việc phản khoa học để sống còn
Năm 1623, Kepler hoàn thành Bảng Rudolf, mà sinh thời đó được xem là công trìnhchính của đời ông
Năm 1628, Kepler trở thành cố vấn chính thức cho tướng Wallenstein, cung cấp cáctính toán thiên văn cho các nhà chiêm tinh của Wallenstein và thỉnh thoảng lập lá số tử vi.Trong những năm cuối cùng, Kepler thường xuyên du hành khắp nơi, và cuối cùng tớiRegensburg.Ít lâu sau khi tới Regensburg, Kepler đổ bệnh.Ông mất ngày 15 tháng 11 năm
1630, và được chôn tại đây
2.4.2 Thành tựu
• Xuất bản cuốn sách với tên Mysterium Cosmographicum – Vũ Trụ Huyền Bí năm 1596
Tại Graz, Kepler bắt đầu phát triển một lý thuyết bảo vệ hệ thống Copernicus xuấtbản năm 1596 với tên Mysterium Cosmographicum – Vũ Trụ Huyền Bí Với sự giúp đỡ củathầy hướng dẫn là Michael Maestlin, Kepler nhận được hội đồng trường Đại học Tübingencho phép xuất bản bản thảo, trong lúc chờ để chỉnh sửa, loại bỏ phần chú giải Kinh Thánh
và thêm vào một đoạn mô tả đơn giản, dễ hiểu hơn hệ thống Copernicus cũng như những ýtưởng mới của Kepler
• Khám phá ra hai định luật lừng danh về khoa thiên văn và cho xuất bản cuốn AstronomiaNova - Thiên Văn Mới vào năm 1609
Tác phẩm này là một trong những cuốn sách lừng danh nhất của khoa học, được xếpngang hang với cuốn Principia – Nguyên lý của newton và cuốn De Revolutionibus OrbiumCoelestium – về chuyển động của các thiên thể của Copernicus
• Phát minh ra loại kính thiên văn mới
Kính viễn vọng (telescope) được nhà bác học galieo phát minh vào năm 1608 và đãđược dùng khắp châu âu Tại Linz, Kepler mượn được một kính viễn vọng, đã quan sát các
vì sao mà mắt thường không nhìn thấy được Ông đạ nghiên cứu quang học rồi phát minh ramột loại kính thiên văn mới Tác phẩm viết về quang học của ông có tên là Dioptrice –
Trang 21Khúc xạ học xuất bản vào năm 1611 đã là cuốn sách đầu tiên khảo sát về ánh sáng và thấukính.
• Cho ra đời cuốn sách Harmonices Mundi - Vũ trụ Hài hòa
Năm 1617, Kepler nhận được tin mẹ của ông bị người ta cáo buộc là phù thủy và bịbắt giam tại Stuttgart Nếu ông không can thiệp ngay, mẹ ông sẽ bị hành hạ và thiêu sống.Chính trong hoàn cảnh đau khổ này, Kepler đã cho ra đời cuốn sách Harmonices Mundi -
Vũ trụ Hài hòa trong đó chứa đựng định luật lừng danh thứ ba của ông
• Năm 1623, Kepler hoàn thành Bảng Rudolf
Ông bổ túc 228 vì sao khác vào bảng liệt kê các tinh tú của Tycho Brahe.Đây là mộtcông trình khoa học to lớn của ông Trong suốt một thế kỉ, cuốn sách liệt kê các vì sao củaKepler đã chiếm địa vị độc tôn trong ngành hàng hải,
2.4.3 Ba định luật Kepler
Trong thiên văn học, Những định luật của Kepler về chuyển động thiên thể là ba địnhluật khoa học miêu tả chuyển động trên quỹ đạo của các vật thể, ban đầu dùng để miêu tảchuyển động của các hành tinh trên quỹ đạo quay quanh Mặt Trời
đó có quỹ đạo xấp xỉ hình tròn, do đó nếu chỉ quan sát sơ lược thì sẽ khó phát hiện ra quỹđạo hành tinh là hình elíp Những tính toán chi tiết từ dữ liệu quan sát của quỹ đạo Sao Hỏa
Trang 22quan sát, và từ đây ông suy luận tương tự cho các hành tinh khác quay quanh Mặt Trời cũngphải có quỹ đạo elip Ba định luật Kepler và kết quả phân tích dữ liệu quan sát của ông làmột thách thức lớn cho mô hình địa tâm của Aristotle và Ptolemy đã được chấp thuận từ rấtlâu, và ủng hộ cho mô hình nhật tâm của Nicolaus Copernicus (mặc dù quỹ đạo elip theoKepler khác với các quỹ đạo tròn theo Copernicus), bằng chứng tỏ Trái Đất quay quanh MặtTrời, vận tốc của các hành tinh trên quỹ đạo là biến đổi, và quỹ đạo có hình elip hơn là hìnhtròn
Khoảng tám thập kỷ sau, Isaac Newton chứng minh rằng các định luật Kepler có thểđược áp dụng trong những điều kiện lý tưởng và là dạng xấp xỉ tốt cho quỹ đạo của cáchành tinh trong hệ Mặt Trời, hay những định luật này là hệ quả của các định luật về chuyểnđộng và định luật vạn vật hấp dẫn của ông Bởi vì khối lượng của hành tinh khác không và
sự ảnh hưởng nhiễu loạn của các hành tinh khác, ba định luật Kepler chỉ áp dụng một cáchxấp xỉ và không miêu tả độ chính xác cao chuyển động của vật thể trong hệ Mặt Trời.Cuốnsách Eléments de la philosophie de Newton (Những nguyên lý của triết học Newton) củaVoltaire xuất bản năm 1738 là cuốn đầu tiên gọi các định luật Kepler là "các địnhluật".Cùng với các lý thuyết của Newton, các định luật Kepler có vai trò quan trọng trongthiên văn học và vật lý học cũng như ứng dụng cho các vệ tinh nhân tạo
2.5 Galileo Galilei
Galileo Galilei(1564 –1642) Galilei, là một nhà thiên văn học, vật lý học, toán học vàtriết học người Ý, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học, Galileo đãđược gọi là "cha đẻ của việc quan sát thiên văn học hiện đại,cha đẻ của vật lý hiện đại,cha
đẻ của khoa học,cha đẻ của Khoa học hiện đại
2.5.1 Tiểu sử
Tên đầy đủ của Galileo là Galileo di Vincenzo Bonaiuti de' Galileo sinh ngày 15tháng 2 năm 1564 tại Pisa, Italia, con cả trong số sáu người con của Vincenzo Galilei, mộtngười chơi đàn luýt và nhà lý luận âm nhạc nổi tiếng, Khi ông lên 8, gia đình ông chuyểntới Firenze, nhưng ông ở lại cùng Jacopo Borghini trong hai năm Sau đó ông đi học tại Tuviện Camaldolese ởVallombrosa, 35 km phía đông nam Firenze Dù khi còn trẻ ông nghiêmtúc đi theo con đường tu sĩ, nhưng ông cũng theo học y tại Đại học Pisa theo yêu cầu củacha mình Ông không hoàn thành khoá học, mà thay vào đó nghiên cứu toán học
Năm 1589, ông được chỉ định làm giáo sư toán tại Pisa
Trang 23Năm 1591 cha ông mất và ông được giao phó việc chăm lo người em traiMichelagnolo
Năm 1592, ông tới Đại học Padua, dạy địa lý, cơ khí, và thiên văn học cho tới năm1610
Năm 1610 Galileo xuất bản một cuốn sách về các quan sát thiên văn của mình vớicác vệ tinh của Sao Mộc, sử dụng quan sát này để ủng hộ lý thuyết nhật tâm của vũ trụ củaCopernicus chống lại thuyết địa tâm Ptolemaeus và các lý thuyết của Aristoteles Năm sau
đó, Galileo tới thăm Roma để chứng minh kính viễn vọng của mình trước các nhà triết học
và toán học của Học viện Dòng Tên Rôma (Collegio Romano), và để họ tự thấy bằng mắtmình sự thực về bốn vệ tinh của Sao Mộc Khi ở Roma ông cũng trở thành một thành viêncủa Accademia dei Lincei
Năm 1612, xuất hiện sự chống đối thuyết nhật tâm của vũ trụ đang được Galileo ủnghộ
Năm 1614, từ bục giảng kinh của Vương cung thánh đường Santa Maria Novella,linh mục Tommaso Caccini (1574–1648) lên án các ý kiến của Galileo về sự chuyển độngcủa Trái Đất, cho rằng chúng là nguy hiểm và gần với sự dị giáo Galileo tới Roma để bảo
vệ mình trước những cáo buộc đó, nhưng, vào năm 1616, hồng y Roberto Bellarmino đíchthân khiển trách Galileo bắt ông không được ủng hộ cũng như giảng dạy thiên văn họcCopernicus
Trong năm 1621 và 1622, Galileo đã viết cuốn sách đầu tiên của mình, Người thínghiệm (Il Saggiatore), được phê duyệt và cho phát hành năm 1623
Năm 1630, ông quay lại Roma để xin giấy phép in cuốn Đối thoại về hai Hệ thốngThế giới, được xuất bản tại Firenze năm 1632 Tuy nhiên, vào tháng 10 năm ấy, ông bị bắtphải ra trước Thánh bộ Giáo lý Đức tin ở Roma Sau một phiên xử của Giáo hoàng, theo đóông bị nghi ngờ mạnh mẽ là dị giáo, Galileo bị quản thúc tại gia và các hoạt động của ông bịGiáo hoàng kiểm soát
Từ năm 1634 trở về sau, ông sống tại ngôi nhà thôn quê ở Arcetri, bên ngoài Firenze.Ông bị mù hoàn toàn năm 1638 và bị chứng thoát vị và mất ngủ đầy đau đớn, vì thế ôngđược cho phép tới Firenze chữa bệnh Ông tiếp tục tiếp khách cho tới năm 1642, sau khi quađời vì sốt và chứng tim đập nhanh
Trang 242.5.2 Thành tựu
Thiên văn học
Chỉ dựa vào một số miêu tả không chính xác về chiếc kính viễn vọng thực tế đầutiên, do Hans Lippershey người Hà Lan phát minh năm 1608, Galileo, trong năm sau đó, đãlàm một chiếc kính viễn vọng có độ phóng đại 3×, và sau này làm những chiếc khác có độphóng đại lên tới 30×.Ngày 25 tháng 8 năm 1609, ông trưng bày chiếc kính viễn vọng đầutiên của mình trước những nhà lập pháp Venezia.Công việc chế tạo kính thiên văn của ôngcòn có tác dụng phụ mang lại khá nhiều tiền khi các lái buôn thấy nó hữu ích cho cácchuyến đi biển và đi buôn của họ Ông đã xuất bản các quan sát thiên văn học bằng kínhviễn vọng đầu tiên của mình vào tháng 3 năm 1610 trong một chuyên luận ngắn có nhan đềSidereus Nuncius
Ngày 7 tháng 1 năm 1610, Galileo quan sát bằng kính viễn vọng của mình cái ôngmiêu tả ở thời gian đó là "ba định tinh, hoàn toàn không nhìn thấy được bởi chúng quá nhỏ",tất cả nằm gần Sao Mộc và thẳng hàng qua nó, Trong vài ngày ông đã kết luận rằng chúngquay quanh Sao Mộc, Ông đã khám phá ra bốn vệ tinhlớn nhất của Sao Mộc: Io, Europa, vàCallisto Ông phát hiện ra vệ tinh thứ tư, Ganymede, ngày 13 tháng 1.Galileo đặt tinh chobốn vệ tinh ông đã phát hiện ra là những ngôi sao Medici, để vinh danh người bảo trợ tươnglai của ông, Cosimo II de' Medici, Đại Công tước Toscana, và ba người anh em củaCosimo.Tuy nhiên, các nhà thiên văn học sau này đổi tên chúng thành các vệ tinh Galileo đểvinh danh ông
Từ tháng 9 năm 1610, Galileo quan sát thấy Sao Kim có đủ các tuần tương tự nhưMặt Trăng Mô hình nhật tâm của hệ mặt trời được Nicolaus Copernicus phát triển tiên đoánrằng tất cả các pha phải được quan sát thấy bởi Sao Kim quay quanh Mặt trời sẽ khiến phầnđược chiếu sáng của nó quay về phía Trái Đất khi nó ở phía đối diện của Mặt trời và quay đikhi nó ở cùng phía với Trái Đất Trái lại, mô hình địa tâm của Ptolemaeus dự đoán rằng chỉtrăng lưỡi liềm và các tuần mới mới có thể được quan sát, bởi Sao Kim được cho là nằmgiữa Mặt Trời và Trái Đất khi nó quay quanh Trái Đất Các quan sát của Galileo về các tuầncủa Sao Kim chứng minh rằng nó quay quanh Mặt trời và là bằng chứng ủng hộ mô hìnhnhật tâm Tuy nhiên, bởi nó bác bỏ mô hình hành tinh hoàn toàn địa tâm của Ptolemaeus,dường như nó là quan sát có tính quyết định khiến đa số cộng đồng khoa học thế kỷ 17 quaysang ủng hộ các mô hình nhật-địa tâm và địa tâm như các mô hình Tycho vàCapella và vìthế được cho là quan sát thiên văn quan trọng nhất của Galileo
Trang 25Galileo là một trong những người châu Âu đầu tiên quan sát các đốm mặt trời, dùKepler đã không chủ tâm quan sát một đốm năm 1607, nhưng nhầm lẫn cho rằng đó là một
sự lướt qua của Sao Thuỷ
Galileo là người đầu tiên thông báo về các ngọn núi và hố va chạm trên Mặt Trăng,
mà ông cho sự hiện diện của nó bởi các kiểu mẫu sáng và tối trên bề mặt Mặt Trăng Thậmchí ông còn ước tính chiều cao của các ngọn núi từ các quan sát đó Điều này dẫn ông tớikết luận rằng Mặt Trăng là "xù xì và không bằng phẳng, và giống như chính bề mặt của TráiĐất," chứ không phải là một mặt cầu hoàn hảo như Aristoteles đã tuyên bố Galileo quan sátNgân hà, trước đó được cho là một tinh vân, và thấy rằng nó là tập hợp những ngôi saotrong một vùng quá đặc khiến nó trông như một đám mây từ Trái Đất Ông định vị nhiềungôi sao khác quá xa để có thể thấy bằng mắt thường Galileo cũng quan sát Sao Hải Vươngnăm 1612, nhưng không nhận thấy rằng nó là một hành tinh và không có chú ý đặc biệt đếnnó
Tranh cãi về các sao chổi và Người thí nghiệm
Năm 1619, Galileo bị lôi cuốn vào một cuộc tranh cãi với Cha Orazio Grassi, giáo sưtoán học tại Collegio Romano dòng Tên Nó bắt đầu như một cuộc tranh cãi về tính chất củacác sao chổi, nhưng tới khi Galileo đã xuất bản Il Saggiatore (Người Thí nghiệm) năm
1623, sự bảo lưu cuối cùng của ông trong cuộc tranh cãi, nó đã trở thành một cuộc tranh cãilớn hơn về trạng thái tự nhiên của chính Khoa học Bởi Il Saggiatore có chứa những ý tưởngcủa Galileo và việc Khoa học cần phải được thực nghiệm như thế nào, nó đã bị coi là sự thểhiện khoa học của ông
Đầu năm 1619, linh mục Grassi ẩn danh xuất bản một cuốn sách mỏng, De tribuscometis anni MDCXVIII disputatio astronomica (Một tranh cãi thiên văn về ba sao chổi củanăm 1618), bàn cãi về trạng thái của một sao chổi đã xuất hiện hồi cuối tháng 11 năm trước.Grassi đã kết luận rằng sao chổi là một vật thể bùng cháy chuyển động dọc theo một đoạncủa một vòng tròn lớn ở một khoảng cách xa từ Trái Đất, và rằng nó nằm ở ngoài xa MặtTrăng
Galileo, Kepler và các giả thiết thuỷ triều
Năm 1615, hồng y Bellarmino đã viết rằng hệ thống Copernicus không thể được bảo
vệ nếu không có "một minh chứng vật lý thực sự rằng Mặt Trời không quay quanh Trái Đất
Trang 26cung cấp bằng chứng vật lý cần thiết cho chuyển động của Trái Đất Lý thuyết này quá quantrọng với Galileo tới mức ban đầu ông dự định đặt tên cuốn Dialogo sopra i due massimisistemi del mondo (Đối thoại về hai hệ thống thế giới chính) là Dialogo sopra il flusso ereflusso del mare (Đối thoại về thuỷ triều và dòng chảy của biển) Với Galileo, thuỷ triềuđược gây ra bởi sự chuyển động tiến lùi của nước trong các biển khi một điểm trên bề mặtTrái Đất tăng tốc và giảm tốc vì chuyển động quay của Trái Đất quanh trục của nó vàchuyển động xung quanh Mặt Trời Galileo đã cho truyền bá những quan sát đầu tiên củamình về thuỷ triều năm 1616, chuyển tới hồng y Orsini.
Nếu lý thuyết này là đúng, thì chỉ có một lần thủy triều cao trong ngày Galileo vànhững người đương thời với ông biết về sự không chính xác này bởi có hai lần thuỷ triềucao hàng ngày tại Venezia chứ không phải một, khoảng 12 tiếng một lần Galileo cho sự bấtthường này như kết quả của nhiều nguyên nhân thứ hai, gồm hình dạng của biển, độ sâu, vàcác yếu tố khác.] Chống lại sự quyết đoán rằng Galileo dối trá khi đưa ra những lý lẽ đó,Albert Einstein đã đưa ra quan điểm rằng Galileo đã phát triển "các lý lẽ mê hoặc" của mình
và chấp nhận chúng mà không phê phán chỉ là vì ý muốn có bằng chứng vật lý cho chuyểnđộng của Trái Đất
Galileo đã coi ý tưởng của một người cùng thời với ông là Johannes Kepler rằng MặtTrăng gây ra thuỷ triều là "điều tưởng tượng vô nghĩa".Galileo cũng từ chối chấp nhận cácquỹ đạo elíp của các hành tinh do Kepler đưa ra,coi vòng tròn là hình dạng "hoàn hảo" choquỹ đạo chuyển động của các hành tinh
Vật lý
Công trình lý thuyết và thực nghiệm của Galileo về chuyển động của các thiên thể,cùng với công trình phần lớn độc lập của Kepler và René Descartes, là sự khởi đầu của cơhọc cổ điển được Isaac Newton phát triển Một tiểu sử do học trò của Galileo VincenzoViviani nói rằng Galileo đã thả những quả bóng bằng cùng vật liệu, nhưng có trọng lượngkhác nhau, từ Tháp nghiêng Pisa để chứng minh rằng thời gian rơi của chúng không phụthuộc vào trọng lượng Điều này trái ngược với điều Aristoteles đã dạy: rằng các vật thểnặng rơi nhanh hơn các vật thể nhẹ, liên quan trực tiếp tới trọng lượng.Tuy câu chuyện đãđược kể lại nhiều lần, không có lời nào nói rằng chính Galileo đã làm một thực nghiệm nhưvậy, và nói chung các nhà sử học tin rằng nó hầu như chỉ là một thực nghiệm ý tưởng khôngdiễn ra trong thực tế Trong cuốn Discorsi năm 1638 của mình nhân vật Salviati của Galileo
Từ khóa » Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì
-
Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn Của Newton – Wikipedia Tiếng Việt
-
Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì? Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Phát Minh ...
-
Tất Tần Tật Về định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn - Thietbikythuat
-
Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì? Công Thức Lực Hấp Dẫn
-
Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Của Ai? Niu-tơn Lô-mô-nô-xốp Puốc-kin ...
-
Lý Thuyết Lực Hấp Dẫn - định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn | SGK Vật Lí Lớp 10
-
Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Của Ai (khoahoc)
-
Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì? Ai đã Phát Minh Ra ... - Tintuctuyensinh
-
Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì? Bài Tập áp Dụng Lý Thuyết định Luật
-
Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì
-
Lực Hấp Dẫn Là Gì ? Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn được Phát Biểu ...
-
Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn Của Newton? (lực Hấp Dẫn Là Gì?)
-
Ai Là Người Tìm Ra Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn - TopLoigiai
-
Luật Vạn Vật Hấp Dẫn Là Gì? - Postposmo