Tích Lũy Thực Chất Là Sự Tiết Kiệm Tư Bản. - LuTrader

Trong triết học Mác – Lênin, khái niệm tích lũy tư bản được sử dụng khá nhiều và xuất hiện khá thường xuyên. Tuy nhiên không phải ai cũng thực sự hiểu đúng và đủ về khái niệm này. Trong bài viết dưới đây, Tri Thức Cộng Đồng sẽ cùng bạn tìm hiểu về tích lũy tư bản cũng như những nội dung cốt yếu xoay quanh chủ đề này.

Nội dung chính Show
  • 1. Nguồn gốc của tích lũy tư bản là gì? 
  • 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tích lũy tư bản
  • 3. Quy luật chung của tích lũy tư bản
  • 3.1. Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi
  • 3.2. Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích lũy và tích tụ đi kèm theo tiến trình đó
  • 3.3. Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối 
  • 4. Ý nghĩa của tích lũy tư bản trong thực tiễn
  • Video liên quan

1. Nguồn gốc của tích lũy tư bản là gì? 

Trước hết, tư bản được định nghĩa là những giá trị đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách bóc lột sức lao động của giai cấp vô sản. Trong quan hệ sản xuất tư bản, các nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất, họ bóc lột giai cấp công nhân, người làm thuê để tạo ra giá trị thặng dư cho mình.

Trong đó, tích lũy tư bản là việc mà nhà tư bản biến một phần giá trị thặng dư mà họ thu được trở thành tư bản phụ thêm hay còn gọi là tư bản mới. Lý do mà các nhà tư bản thường có hành động “tích lũy” này là bởi họ muốn mở rộng sản xuất. 

Để thực hiện được mục tiêu này thì nhà tư bản bắt buộc không thể tiêu dùng hết những giá trị thặng dư mà họ có. Họ thường chia giá trị thặng dư thành hai phần, phần thứ nhất dùng để mở rộng xuất, phần thứ hai là để phục vụ cho các mục đích tiêu dùng cá nhân. 

Từ đó có thể thấy rằng, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản chính là giá trị thặng dư. Hoạt động tích lũy tư bản cũng ngày càng chiếm tỉ lệ lớn hơn trong toàn bộ tư bản. Quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh chính là động lực để thúc đẩy tích lũy tư bản.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tích lũy tư bản

Quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng của giá trị thặng dư. Đồng thời, nó cũng phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu như không có sự biến động trong tỉ lệ phân chia giá trị thặng dư kể trên thì quy mô tích lũy tư bản sẽ bị ảnh hưởng, tác động bởi các nhân tố làm tăng giá trị thặng dư, cụ thể như sau:

  • Tăng cường bóc lột sức lao động: 

Việc nhà tư bản tăng cường các hoạt động nhằm bóc lột đến mức tối đa sức lao động của công nhân, bắt buộc họ phải lao động với cường độ cao, cắt xén, giảm tiền công chính là biểu hiện rõ ràng nhất cho nhân tố này.

  • Tăng năng suất lao động xã hội: 

Có nhiều yếu tố có thể tác động đến việc tăng năng suất lao động của công nhân như sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, trình độ và tay nghề được nâng cao. Đây là một đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ. Tăng năng suất lao động sẽ đem đến những tác động tích cực đối với tích lũy tư bản.

  • Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng: 

Tư bản sử dụng là giá trị của máy móc, thiết bị và tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản tiêu dùng là giá trị tiêu hao của máy móc, thiết bị, sự xuống cấp của chúng sau mỗi quá trình sử dụng.

Sự chênh lệch giữa hai yếu tố này càng lớn sẽ càng làm ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến quy mô tích lũy tư bản.

Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng nhiều.

3. Quy luật chung của tích lũy tư bản

3.1. Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi

  • Sự tăng lên của lượng cầu về sức lao động: 

Tư bản tăng lên kéo theo tăng thêm bộ phận khả biến của nó hay bộ phận được biến thành sức lao động. Để vận hành một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất định cần một khối lượng sức lao động như trước thì lượng cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên. 

Sự tăng lên này tỉ lệ thuận với tư bản. Theo đó tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên nhanh bấy nhiêu.

  • Sự tăng lên về tiền công không ngăn cản việc tăng tích lũy tư bản: 

Có thể thấy, tiền công đòi hỏi người lao động bắt buộc phải tạo ra một số lượng lao động không công cụ thể. Việc tăng tiền công đồng nghĩa với việc giảm bớt số lượng lao động không công mà người lao động bắt buộc phải tạo ra. Quy luật của tích lũy tư bản chỉ ra rằng sự giảm bớt này không thể đi đến mức đe dọa sự tồn tại của bản thân chế độ này. 

3.2. Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích lũy và tích tụ đi kèm theo tiến trình đó

Một khi đã có những cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì trong tiến trình tích luỹ nhất định sẽ đến lúc sự phát triển của năng suất lao động xã hội trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích luỹ. 

Năng suất lao động tăng thể hiện ở việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động hay là thể hiện ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan trong quá trình lao động so với các nhân tố khách quan của quá trình đó. 

Sự thay đổi của kết cấu kỹ thuật của tư bản, sự tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản ánh trở lại vào trong kết cấu giá trị của tư bản, vào trong việc tăng thêm bộ phận bất biến của giá trị tư bản, bằng cách lấy vào bộ phận khả biến của nó. 

3.3. Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối 

  • Nhân khẩu thừa, sản phẩm tất yếu của tích lũy: 

Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định mà do quy mô bộ phận khả biến của tư bản quyết định. Do đó cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần giảm bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỉ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản. 

  • Nhân khẩu thừa, đòn bẩy của tích luỹ tư bản điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: 

Nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ, hay của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại nhân khẩu thừa này lại trở thành một đòn bẩy của tích lũy tư bản chủ nghĩa và thậm chí còn là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 

Xem thêm: Mục đích của tích lũy tư bản

4. Ý nghĩa của tích lũy tư bản trong thực tiễn

Đối với các doanh nghiệp hiện nay, việc vận dụng quy luật của tích lũy tư bản vào trong huy động vốn và sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả là vô cùng quan trọng và cần thiết. Trên thực tế, các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa thể cạnh tranh một cách sòng phẳng với các doanh nghiệp nước ngoài phần vì tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh phần vì chưa thực sự chưa có chiến lược và chiến thuật phù hợp.

Tích lũy tư bản đem đến bài học về sử dụng vốn hiệu quả. Doanh nghiệp cũng cần phải tiết kiệm sao cho hợp lý, việc xây dựng cơ sở sản xuất và thiết bị cũng cần phải được tính toán kỹ càng. Nếu như vội vàng đưa ra quyết định đầu tư không hợp lý sẽ gây ra lãng phí, thất thoát tài sản. Yêu cầu đối với doanh nghiệp đó là phải phân bố một cách hợp lý giữa tiêu dùng và tích lũy.

Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần khai thác tối đa các nguồn lực, đây là điều kiện tiên quyết cho quá trình tích lũy vốn của doanh nghiệp. Nội dung này đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. Do đó doanh nghiệp phải có cơ chế, giải pháp huy động vốn một cách hợp lý. 

Trên đây là toàn bộ nội dung đầy đủ và chi tiết liên quan đến tích lũy tư bản. Hy vọng với những chia sẻ này, bạn đã có thể thu nạp cho mình những kiến thức hữu ích nhất.

Nếu như bạn vẫn còn bất cứ thắc mắc, khó khăn cần giải đáp và giúp đỡ về chủ đề này, hãy liên hệ ngay với Tri Thức Cộng Đồng thông qua SĐT: 0946 88 33 50 hoặc Email: để được hỗ trợ sớm nhất.

Tái sản xuất nói chung được hiểu là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục không ngừng.

Sản xuất hiểu theo nghĩa rộng cũng có nghĩa là tái sản xuất. Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành hai loại: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuấit được lặp lại với quy mô như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn liền với nền sản xuất nhỏ và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.

Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất lớn và là đặc trưng của nền sản xuất lớn.

Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản. Bởi vì, giả định nếu có tái sản xuất giản đơn thì cũng có nghĩa là các nhà tư bản sử dụng toàn bộ giá tri thặng dư cho tiêu dùng cá nhân. Song trên thực tế, khát vọng không có giới hạn về giá trị thặng dư đã buộc các nhà tư bản phải không ngừng mở rộng quy mô sản xuất để tăng quy mô giá trị thặng dư.

Vì vậy, nét điển hình của chủ nghĩa tư bản phải là tái sản xuất mở rộng Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.

Sự chuyển hóa trở lại của giá trị thặng dư thành tư bản được gọi là tích lũy tư bản. Như vậy, thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phân giá trị thặng dư thành tư baản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.

Nói một cách cụ thể, tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.

Có thể minh họa tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: năm thứ nhất quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m dùng để tích lũy và l0m dành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư ban. Phần l0m dùng để tích lũy được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m' vẫn như cũ). Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.

Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:

Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân.

Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.

Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy.

Cùng với quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô tích lũy tư bản cũng không ngừng tăng lên. Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản phải được chia làm hai trường hợp:

Một là, trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành hai quỹ: quỹ tích

lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Đương nhiên, tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ dành cho quỹ kia sẽ giảm đi.

Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này, khối lượng giá trị thặng dư bị phụ thuộc vào những nhân tố sau đây:

-   Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là thời gian công nhân sáng tạo ra giá trị thì càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

-    Trình độ năng suất lao động xã hội: năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên giảm tăng quy mô của tích lũy.

-   Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng

Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chủng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục vụ  không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó, sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

- Quy mô của tư bản ứng trước

Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

Loigiaihay.com

Từ khóa » Tích Lũy Tư Bản Là Sự Tiết Kiệm Tư Bản