Tiết Thanh Minh Và Việc Giữ Gìn Mồ Mả ở Việt Nam

Ảnh minh họa

Viếng mộ trong tiết Thanh minh là một trong những phong tục nhằm tỏ lòng thành kính thiêng liêng nhất mà người sống có thể dành cho người đã mất. Như chúng ta đều biết, những ngôi mộ của người Việt được gìn giữ cho đến khi dòng họ diệt vong. Không một thành viên nào trong dòng họ có quyền di chuyển hoặc đơn giản chỉ là sửa chữa nhỏ khi không được sự đồng thuận của cả họ.

Mộ phần chính là nơi trú ngụ thực sự của người đã khuất. Vị trí mồ mả được xác định cẩn thận theo hướng dẫn của thầy phong thủy. Người dân xứ này tin rằng thiên nhiên chứa đầy khí, có khí lành và khí độc. Thể hiện của khí lành là Thanh Long và khí độc là Bạch Hổ. Chỗ nào có Rồng nơi đó có Hổ. Vì vậy, phải tìm vị trí thuận lợi để đặt mộ cũng như dựng nhà gần mình rồng nhất có thể, đó là nơi có luồng sinh khí mạnh nhất, càng về cuối các chi thì càng yếu. Miệng rồng là vị trí đắc địa nhất. Tuy nhiên, sự có mặt của Hổ và Rồng hoàn toàn chưa đủ để quyết định sự giàu có, vinh hiển và tuổi thọ. Khí lành tích tụ gần các cơ quan thiết yếu cần phải được duy trì bằng những rặng đồi, những khúc sông uốn lượn đẹp mắt, địa điểm phải hài hòa hợp với sự tương hợp của các vì sao. Núi và sông chạy theo đường thẳng, thác ghềnh chảy xiết đều tai hại vì chúng khiến sinh khí tiêu tan. Sách phong thủy xác định kỹ địa hình đất đai cho nhà cửa cũng như mồ mả. Chẳng hạn, một mô đất nhô lên ở trước mộ hứa hẹn người con trai trưởng sẽ làm quan; một đỉnh dốc đứng với nhiều cây cối có dáng như lá cờ tung bay quyết định con cháu sẽ đi theo binh nghiệp. Nói chung, hình dạng sau sẽ đảm bảo sự giàu có và vinh hiển: quả núi năm đỉnh, mũ nhà nho, đôi lông mày, mái chùa, nón tre, tấm rèm, con ngựa, người ngồi, người phủ phục. Mảnh đất hơi gợn sóng bao giờ cũng là điềm tốt cho con gái. Nếu nơi mai táng có nhiều quả đồi bao quanh tứ phía thì nhiều người trong gia đình của người quá cố sẽ bị chết vì bệnh tật và cháu đích tôn sẽ bị bãi chức. Nếu gò đồi, khe núi hay thung lũng cắt ngang thì gia súc sẽ bị bệnh tật.

Chính vì vậy mà ở Việt Nam, con cháu luôn tìm cách bảo vệ cẩn thận mộ phần của tổ tiên. Phúc lộc của người sống tùy thuộc vào sự giữ gìn tốt nơi ở của người đã mất và sự may mắn lựa chọn đúng chỗ đặt mồ mả. Để bày tỏ lòng hiếu thảo của mình, con cháu dựng tấm bia khắc tên, chức tước, thời gian đặt ngay dưới chân mộ. Nếu có đủ chỗ thì dựng hàng rào bao quanh, khá giả hơn thì xây tường gạch bao quanh, người giàu có, quan to thì cho dựng cột ở ranh giới khu đất cấm để đánh dấu đường đi đến mộ. Ở mộ các đại thần thì có ngựa, voi, tướng tá, nô tì canh giữ… Người ta còn xây cửa, bình phong, sân tế, nơi vong hồn trú ngụ, hương án, bàn thờ Thổ Địa… Những phần phụ của ngôi mộ được sắp xếp tùy theo sở thích và sự giàu có của chủ nhân. Tuy nhiên mọi sự thay đổi đối với thiên nhiên xung quanh dù là nhỏ đều có thể mang lại những hậu quả khôn lường cho người sống như mất chức, mất của, chết chóc…

Tín ngưỡng thậm chí còn được nâng lên thành luận thuyết và việc bảo vệ mồ mả hay giữ gìn hài cốt được đảm bảo bằng luật pháp. Ngày xưa đã có những hình phạt cực kỳ nghiêm khắc cho người xâm phạm đến mồ mả. Luật Gia Long thời xưa viết: “Kẻ nào xóa bỏ hay đào mộ đến mức thấy quan hoặc quách sẽ bị phạt đánh một trăm trượng và đày đi ba nghìn dặm. Kẻ nào mở quan đến mức trông thấy thi hài thì sẽ bị xử thắt cổ nhưng cho hưởng án treo. Nếu đó là những ngôi mộ của hoàng thân quốc thích thì thủ phạm sẽ bị xử chém và tịch biên gia sản, những kẻ tòng phạm bị xử thắt cổ và các án đều phải thi hành.”

Nếu những người thân thích ngành dưới hay ít tuổi hơn đào mồ mả những người trong họ ở ngành trên hoặc nhiều tuổi hơn mà trông thấy thi hài thì sẽ bị xử chém cho hưởng án treo. Nếu vứt bỏ thi hài và bán khu đất mai táng thì hình phạt cũng như thế; người mua đất và người làm chứng bảo lãnh bị phạt đánh 80 trượng, tiền bán đất phải trả lại và nộp vào công quỹ, đất sẽ được trả lại cho thân nhân cùng chi họ.”

Pháp luật cũng trừng trị nghiêm khắc những cha mẹ, ông bà xâm phạm mồ mả của con cháu. Con cháu hủy hoại hoặc bỏ mặc thi hài của ông bà, cha mẹ thì bị chém đầu. Pháp luật còn đi xa hơn trong việc bảo vệ hài cốt của người đã khuất: “Những ai trong khi đào bới đất mà thấy thi hài vô thừa nhận và không lập tức chôn cất lại sẽ bị đánh 80 trượng; những người hun khói các con vật trú ẩn trong mồ mả mà làm cháy quan tài trong mộ sẽ bị đánh 100 trượng và buộc phải phục hồi lại như cũ. Những ai chôn cất lén lút trong đất mai táng thuộc về người nào đó sẽ bị phạt 80 trượng và buộc phải di chuyển mộ đó đi.”

Hàng năm vào khoảng tiết Đông chí, mọi người thường đi thăm mộ, sau đó xem và kê những chỗ cần phải sửa chữa, thông báo cho cả họ biết để chuẩn bị tiến hành vào dịp Thanh minh.

Đến ngày này, từ sáng sớm tinh mơ mọi người quần áo tươm tất ra khỏi làng băng qua bờ ruộng nhỏ đi tảo mộ, mang theo xẻng cuốc dọn dẹp chỗ cỏ xấu trên mộ, lấp những chỗ ổ lươn, ổ chuột, lau chùi tô lại dòng chữ mờ trên bia…; phụ nữ gánh đồ cúng gồm vàng mã, hương, trầu cau, bánh kẹo. Sau đó, mọi người bày đồ cúng trước mộ, thắp hương lên mộ, đồng thời cũng thắp hương trên cả những ngôi mộ xung quanh và trên bàn thờ Thổ địa ở đó. Lúc đó người chủ gia đình đứng quay mặt vào mộ chắp tay khấn vái người thân đã mất, rồi lần lượt đến những thành viên khác cũng làm như thế. Sau khấn vái xong thì đốt vàng mã. Một số phụ nữ khác thì ở nhà làm cơm để cúng tổ tiên sau khi đi tảo mộ về. Thời gian đi tảo mộ có thể kéo dài cả ngày. Sự tỏ lòng thành kính này lần nữa càng chứng tỏ nhu cầu của người sống muốn xích lại gần với người đã khuất. Sau khi đi tảo mộ xong, mọi người về làm lễ cúng bàn thờ gia tiên để báo cáo với tổ tiên rằng lễ thanh minh đã hoàn tất, xin tổ tiên an nghỉ tại phần mộ đã được dọn dẹp.

Với những ngôi mộ mới chưa đến một năm thì người trong gia đình mặc tang phục đến mộ khóc và sửa sang tạm thời ngôi mộ đó. Hai hoặc ba năm sau khi hết tang người ta có thể xem xét rất kỹ lưỡng, chọn thời điểm tốt, thuận để đào mộ. Khi đào hài cốt lên người ta nhặt các phần xương lau rửa, rồi xếp theo thứ tự vào trong chiếc tiểu bằng đất sét nung bên trong được phủ giấy vàng. Đối với những gia đình giàu có thì chiếc tiểu đó còn được đặt ở trong một cái quách bằng gỗ hoặc bằng xi-măng. Sau đó người ta đem chôn sang một chỗ đất mới đã được chọn rất cẩn thận. Lần chôn cất này người ta gọi là cải táng hay cát táng.

Cũng có những gia đình trong năm gặp những điều rủi ro thì nhờ thầy phong thủy đến làm lễ phúc mộ để xem ngôi mộ nào bị động để tính chuyện có thể dời ngôi mộ đó đi nơi khác.

Vậy nên ở Việt Nam, những lễ nghi được cử hành trong tiết Thanh minh là sự thể hiện lòng hiếu thảo, thành kính sâu sắc và càng tăng cường thêm mối liên hệ ràng buộc của con cháu đối với những người thân đã mất. Nhờ phong tục tập quán tinh tế đó mà tất cả chúng ta hiểu hơn về lễ tết Thanh minh và là dịp để con cháu hướng về cội nguồn tổ tiên của mình trong ngày “Thanh minh - trong sáng” này.

Và như vậy, sau tiết Thanh minh, mỗi người lại tiếp tục sống những ngày mới với những điều may mắn nhất. Với thiên nhiên hồi sinh giữa cây lá xanh tươi và những đóa hoa đua nhau tỏa sắc hương, lớp thanh niên đang lớn lên khẳng định ý chí của mình, sống trong niềm vui, sự hòa hợp của vạn vật.

Lược dịch từ bài viết “Les Temps de la pure claret et de la conversation des tombes au pays d’Annam» của tác giả Nguyễn Văn Huyên đăng trên Tạp chí Đông Dương năm 1942 (TC 826)

Từ khóa » Có Nên Di Chuyển Mồ Mả